Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở việt nam hiện nay

.PDF
99
61
141

Mô tả:

LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài Mua bán phụ nữ, trẻ em là một vấn nạn có tính toàn cầu và đang có xu hướng gia tăng đáng lo ngại trên phạm vi toàn thế giới, mà Việt Nam không phải là ngoại lệ. Mặc dù hiện tượng mua bán phụ nữ, trẻ em mới xuất hiện ở Việt Nam khoảng hơn mười năm trở lại đây, song tính đa dạng, phức tạp cũng như hậu quả mà loại hành vi này gây ra cho các nạn nhân, gia đình nạn nhân và toàn xã hội là đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em xâm hại đến các quyền cơ bản của con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong mười năm qua có hàng chục nghìn phụ nữ, trẻ em bị mua bán ra nước ngoài. Cuộc đấu tranh phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định, đã xử lý hình sự hàng trăm vụ với hàng nghìn đối tượng phạm tội. Tuy nhiên, tình hình mua bán phụ nữ, trẻ em hiện nay có xu hướng gia tăng năm sau cao hơn năm trước và diễn biến rất phức tạp. Loại tội phạm này không chỉ xảy ra ở các địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, mà đã xuất hiện ở hầu hết các tỉnh và thành phố trong cả nước. Tính chất và thủ đoạn hoạt động của loại hành vi này ngày càng tinh vi, xảo quyệt và đang có xu hướng xuyên quốc gia. Hành vi phạm tội mua bán phụ nữ, trẻ em diễn ra rất đa dạng có thể là thông qua các loại hình dịch vụ như: môi giới kết hôn; cho, nhận con nuôi, xuất khẩu lao động, du lịch; hoặc cưỡng bức, bắt cóc... Nhận thức sâu sắc về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em cũng như những diễn biến phức tạp của loại hành vi này, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho đến nay hệ thống văn bản đó đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót, dẫn đến hạn chế hiệu quả của công tác phòng, chống loại hành vi này. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em nói chung, tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em nói riêng, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là cần phải tổng kết thực tiễn, tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này; qua đó đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em trong tình hình hiện nay. Nhận thức như vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề: "Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em được một số nhà lý luận và cán bộ hoạt động thực tiễn quan tâm, nên cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu, trong đó phải kể đến các công trình sau: - Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam: "Chương trình hành động về phòng chống nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam (1999 - 2002)", Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1999; - Vũ Ngọc Bình: "Phòng, chống buôn bán và mại dâm trẻ em", Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2002; - Bộ Tư pháp: "Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trên tinh thần các nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán người và di cư trái phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia", Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004; - Đỗ Thị Thơm: "Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003; - Nguyễn Quang Dũng: "Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới nước ta và hoạt động phòng ngừa của bộ đội biên phòng", Tạp chí Công an nhân dân, số 7, 2003; - Phạm văn Hùng: "Quán triệt chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004-2010", Tạp chí Công an nhân dân, số 10, 2004; - Đặng Xuân Khang: "Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng và giải pháp", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Công an, 2004... Bên cạnh đó, còn có một số luận văn cao học luật và các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Công an nhân dân, Cảnh sát nhân dân, Kiểm sát...đề cập đến phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ trẻ em. Các công trình, bài viết nêu trên bước đầu đã khái quát tình hình mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam, đồng thời đề cập đến cơ sở pháp luật về công tác phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em, qua đó nêu ra những bất cập, thiếu sót và đề xuất các giải pháp hoàn thiện những văn bản pháp luật này. Do cách thức tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau nên các công trình đó mới dừng lại ở các góc độ nhất định và vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em cũng như pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em. - Phạm vi nghiên cứu: Mua bán phụ nữ, trẻ em là vấn đề rất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như: y tế, giáo dục, lao động, phúc lợi xã hội và tư pháp. Việc phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em có liên quan đến đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật, nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Do đó, trong khuôn khổ của một luận văn cao học, chúng tôi chủ yếu tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em và từ đó nêu ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích của luận văn: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em góp phần cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống, tiến đến đẩy lùi loại tệ nạn này. * Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: - Phân tích cơ sở lý luận của việc cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em. - Đánh giá thực trạng pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam. - Tổng kết lý luận và đánh giá thực tiễn, dự báo tình hình, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp để hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam trong thời gian tới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em; đồng thời, trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành lý luận chung về nhà nước và pháp luật và các phương pháp nghiên cứu, cụ thể như: phân tích, tổng hợp, tư vấn, thống kê, so sánh, đối chiếu luật, tổng kết thực tiễn... 6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn Là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em, nên kết quả nghiên cứu của luận văn có những nội dung được coi là mới, có đóng góp cho khoa học chuyên ngành, cụ thể là: - Xây dựng khái niệm mua bán phụ nữ, trẻ em theo pháp luật Việt Nam và theo tinh thần của Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 và các nghị định thư bổ sung công ước. - Xác định các tiêu chí hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em. - Phân tích, đánh giá có hệ thống pháp luật thực định liên quan trực tiếp đến phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em. - Đề xuất một số giải pháp để góp phần hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay. Với kết quả nghiên cứu như đã nêu ở trên nên luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về chuyên ngành lý luận chung về nhà nước và pháp luật ở các cơ sở đào tạo về pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM HÀNH VI MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM VÀ PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM 1.1.1 . Khái niệm mua bán phụ nữ, trẻ em và các yếu tố cấu thành hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em 1.1.1.1. Khái niệm mua bán phụ nữ, trẻ em Mua bán người nói chung trong đó có mua bán phụ nữ, trẻ em là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ khi xã hội loài người bước vào giai đoạn phát triển hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Ban đầu mua bán người là việc mua bán nô lệ trong các cuộc chiến tranh, sau đó là các cuộc trao đổi phụ nữ vì lợi ích chính trị, kinh tế... giữa các quốc gia thời phong kiến. Cho đến nay tệ nạn mua bán người mà chủ yếu là mua bán phụ nữ, trẻ em vẫn tồn tại và còn có chiều hướng gia tăng đáng lo ngại trên phạm vi toàn thế giới, với các mục đích phi nhân đạo như: bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, kết hôn trái ý muốn, lấy đi một bộ phận của cơ thể... Mặc dù vậy, cho đến nay trong khoa học, cũng như trong thực tiễn vẫn chưa có sự thống nhất khái niệm về buôn bán người. Theo Công ước của Liên hợp quốc năm 1949 thì: "buôn bán người" là hành vi mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm.Như vậy "buôn bán người" không bao gồm hành vi mua bán đàn ông và trẻ em. - Báo cáo đặc biệt của Liên hợp quốc về bạo hành ngược đãi phụ nữ có nêu: Mua bán người là hành vi tuyển dụng, vận chuyển, mua bán, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp nhận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực, bắt cóc, lừa dối, ép buộc hoặc lạm dụng quyền lực vì mục đích bóc lột, cưỡng bức lao động (kể cả lao động để trừ nợ) hay bắt kẻ hầu hạ. - Vào năm 1962, Tổ chức quốc tế về nhân quyền (IHRLG), tổ chức đấu tranh chống mua bán phụ nữ (STV) và liên minh toàn cầu chống mua bán phụ nữ và một số tổ chức khác đã thống nhất đưa ra một định nghĩa về mua bán người như sau: Tất cả mọi hành động và mưu toan hành động có liên quan đến việc tuyển dụng, vận chuyển trong phạm vi quốc gia và xuyên biên giới, mua bán, chuyển giao, tiếp nhận che giấu con người bằng cách lừa dối, ép buộc (kể cả sử dụng, hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc lạm dụng thẩm quyền) hoặc bắt buộc trừ nợ vì mục đích xếp đặt hoặc lưu giữ người đó, cho dù trả tiền hay không, trong việc phục vụ (việc nhà, tình dục hoặc sinh sản), trong lao động bắt buộc hoặc lao động trừ nợ, hoặc trong các điều kiện tương tự như nô lệ, trong một cộng đồng, khác cộng đồng mà người đó đã sống tại thời điểm trước khi bị lừa gạt, ép buộc hay gán nợ. - Năm 1972, Tổ chức Di cư quốc tế (IOM) và Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) đưa ra khái niệm sau: Buôn bán người là hành vi tuyển dụng, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp nhận người bằng cách đe dọa dùng vũ lực, bắt cóc, lừa dối, ép buộc, kể cả lạm dụng thẩm quyền, hay trừ nợ vì mục đích bố trí hay bắt buộc người đó dù có được trả tiền hay không vào tình trạng lao động cưỡng bức hoặc phải làm công việc tương tự như nô lệ trong một cộng đồng khác mà người đó đã sống. - Năm 1958, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm: Buôn bán người là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp cận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc những hình thức khác như ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị tổn thương hoặc việc đưa hoặc nhận tiền hoặc lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người mà người đó đang cóc quyền kiểm soát một người khác, nhằm mục đích bóc lột.Việc bóc lột bao gồm tối thiểu: bóc lột làm nghề mại dâm hoặc những hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc phục vụ bắt buộc, tình trạng nô lệ hoặc những việc làm tương tự như nô lệ, khổ sai hay cắt đi những bộ phận cơ thể. - Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng phạt việc buôn bán người đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (sau đây gọi tắt là Nghị định thư về buôn bán người) bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về tội phạm xuyên quốc gia năm 2000 đã đưa ra định nghĩa về "buôn bán người" được cộng đồng quốc tế thừa nhận (117 nước ký, trong đó 46 nước phê chuẩn): Buôn bán người là hoạt động tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp nhận người, bằng cách đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, ép buộc bắt cóc, lừa gạt, lừa dối, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế không được bảo vệ, hoặc trả tiền, hoặc lợi nhuận cho người có quyền kiểm soát đối với nạn nhân, nhằm mục đích bóc lột, bao gồm bóc lột thông qua hoạt động mại dâm, bóc lột tình dục lao động cưỡng bức, nô lệ hoặc hành vi tương tự như nô lệ và bị lấy đi các cơ quan nội tạng. Sự đồng ý của nạn nhân không liên quan gì tới các yếu tố cấu thành đối với loại tội phạm này khi phương tiện đạt được là bất hợp pháp, nạn nhân vẫn được luật hình sự bảo vệ (Điều 3b Nghị định thư và Điều 10b Công ước). Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm "buôn bán người" ít được đề cập do trên thực tế chưa thấy có vụ việc nào về buôn bán đàn ông. Pháp luật Việt Nam chỉ quy định hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em. Dưới góc độ luật hình sự, chúng ta có thể thấy tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em được quy định tại Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999, tuy nhiên hai điều luật này không đưa ra định nghĩa về các hành vi này. Cho đến nay, mới có một văn bản đề cập đến định nghĩa về mua bán trẻ em, đó là Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985. Theo Nghị quyết này thì: "Mua bán trẻ em" được hiểu là "việc mua hoặc bán trẻ em vì mục đích tự lợi, dù là mua của kẻ đã bắt trộm hay mua của chính người có con đem bán. Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt trộm cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ em. Tương tự như vậy khái niệm "mua bán phụ nữ", được hiểu là việc mua hoặc bán phụ nữ vì mục đích tự lợi. Như vậy, "mua bán phụ nữ, trẻ em" theo pháp luật Việt Nam được hiểu chung là việc chuyển giao phụ nữ, trẻ em từ một người hoặc một nhóm người, sang một người hoặc một nhóm người khác để đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Bên cạnh việc sử dụng thuật ngữ "mua bán phụ nữ, trẻ em", thì thuật ngữ "buôn bán phụ nữ, trẻ em", cũng được một số văn bản qui phạm pháp luật sử dụng, đó là: khoản 2 Điều 103 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định: "Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ..." [36]; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài: "Nghiêm cấm hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn hoặc lợi dụng việc hỗ trợ kết hôn nhằm mua bán phụ nữ..." (Điều 21), "Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em..." (Điều 35) [18]; khoản 2 Điều 24 Pháp lệnh phòng chống mại dâm quy định: "Người nào môi giới mại dâm, chứa mại dâm, cưỡng bức mại dâm, tổ chức mại dâm, mua bán phụ nữ, trẻ em để phục vụ hoạt động mại dâm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự" [49]. Như vậy, tổng hợp các quan niệm của pháp luật quốc tế về buôn bán người nói chung, cũng như các qui phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay, chúng tôi xin nêu khái niệm mua bán phụ nữ, trẻ em như sau: mua bán phụ nữ, trẻ em là hành vi của một người hoặc một nhóm người vì tư lợi, đã lừa dối, ép buộc, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực, nhằm tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp và giao nhận phụ nữ, trẻ em cho một người hoặc một nhóm người khác để được nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác. 1.1.1.2. Các đặc điểm của hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em Như chúng ta đã biết, hành vi là những phản ứng, cách ứng xử được biểu hiện ra bên ngoài của con người trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Mỗi hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của chủ thể ý thức được và chủ động thực hiện nó. Những hoạt động của con người trong trạng thái vô thức không thể coi là hành vi. Hành vi phải được biểu đạt ra bên ngoài bằng những phương thức khác nhau (hành động hoặc không hành động), nghĩa là nó phải thể hiện trong thế giới khách quan thông qua những thao tác hành động hoặc không hành động của chủ thể, mà các chủ thể khác có thể nhận biết được điều đó. Do hành vi của các chủ thể được bộc lộ ra thế giới khách quan nên nó mang tính xã hội (có ý nghĩa về mặt xã hội, có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến xã hội). Vì vậy, cần phải có sự giám sát và điều chỉnh từ phía xã hội đối với hành vi của con người. Tùy theo tính chất đặc điểm và những lĩnh vực thể hiện của hành vi con người mà xã hội đặt ra những tiêu chuẩn, những công cụ điều chỉnh chúng khác nhau. Những hành vi nào của con người được pháp luật quy định, điều chỉnh thì được xem là hành vi pháp luật. Hành vi pháp luật nào được thực hiện phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật (chủ thể tiến hành những xử sự mà pháp luật yêu cầu như thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình; không được làm những gì mà pháp luật cấm; hoạt động trong phạm vi pháp luật cho phép) là hành vi hợp pháp. Hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, hoạt động vượt quá phạm vi cho phép của pháp luật là hành vi không hợp pháp (trái pháp luật) [45, tr. 491). Theo phân tích trên, hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" được hiểu là những phản ứng, cách ứng xử được biểu hiện ra bên ngoài của những người có đủ năng lực (năng lực pháp lý và năng lực hành vi) thực hiện việc "mua bán phụ nữ, trẻ em". Như vậy, hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" là hành vi bất hợp pháp (vi phạm các điều 119, 120 Bộ luật hình sự năm 1999) và các yếu tố cấu thành hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" sẽ bao gồm: một là, chủ thể thực hiện hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em" phải là người có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi; hai là, những biểu hiện trong thế giới khách quan thông qua những thao tác hành động hoặc không hành động của chủ thể thực hiện hành vi "mua bán phụ nữ, trẻ em", mà các chủ thể khác có thể nhận biết được điều đó. Từ phân tích nêu trên, nếu so sánh các biểu hiện hành vi mua bán phụ nữ, trẻ em (được pháp luật xác định) theo các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam cho thấy: - Với Nghị định thư về buôn bán người thì hoạt động mua bán phụ nữ, trẻ em sẽ bao gồm những hành vi sau: tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích bóc lột. - Theo những quy định của pháp luật Việt Nam thì hoạt động mua bán phụ nữ, trẻ em chỉ là hành vi chuyển giao phụ nữ, trẻ em từ một người (nhóm người) sang một người (nhóm người) khác để đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác. 1.1.2. Khái niệm, vai trò của pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử đã lý giải một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác nhau trong xã hội có giai cấp. Pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Pháp luật hoàn toàn không phải là sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản tính tự nhiên phi giai cấp của con người như "pháp luật tự nhiên" quan niệm. Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội. Pháp luật là do nhà nước, đại diện chính thức cho toàn xã hội ban hành. Vì vậy, ở chừng mực nào đó pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội. Như vậy, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung (qui phạm pháp luật) do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thực hiện, kẻ cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị [32, tr. 139-141]. Với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội. Ở Việt Nam, vai trò của pháp luật đã được ghi nhận tại Điều 12 Hiến pháp năm 1992 là: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa" [31]. Như vậy, vai trò của pháp luật được thể hiện trên các mặt cơ bản sau: Một là, pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước: một trong những nguyên lý đã được khẳng định là nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước. Thực tiễn cho thấy, khi chưa có một hệ thống quy phạm pháp luật về tổ chức đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước thì sẽ dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan nhà nước, bộ máy sẽ cồng kềnh và kém hiệu quả. Tương tự như trên, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi loại cán bộ, mỗi cán bộ làm việc trong từng cơ quan cụ thể của bộ máy nhà nước. Nhờ có pháp luật, các hiện tượng lạm quyền, bao biện, vô trách nhiệm... của đội ngũ viên chức nhà nước dễ dàng được phát hiện và loại trừ. Hai là, pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội: nhà nước là đại diện chính thức của toàn thể xã hội, vì vậy, nhà nước có chức năng (nhiệm vụ) quản lý toàn xã hội. Để quản lý toàn xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, nhưng pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có pháp luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức, các cơ quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân. Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật càng có vai trò lớn. Bởi vì, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ mà nhà nước cần xác lập, điều hành và kiểm soát như hoạch định chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định chế độ tài chính, tiền tệ, giá... toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của nhà nước nhằm tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy quá trình phát triển đúng hướng của nền kinh tế mang lại hiệu quả thiết thực. Quá trình quản lý kinh tế không thể thực hiện được nếu không dựa vào pháp luật. Ba là, pháp luật góp phần tạo dựng quan hệ mới: bên cạnh chức năng phản ánh, pháp luật còn có tính tiên phong, định hướng cho sự phát triển của các quan hệ xã hội. Trên cơ sở xác định thực trạng xã hội với những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình, tồn tại và tái diễn thường xuyên ở những thời điểm cụ thể trong xã hội, nhà nước đề ra pháp luật để điều chỉnh kịp thời và phù hợp. Nhưng cuộc sống vốn sống động và thực tiễn thường diễn ra với những thay đổi thường xuyên. Dựa trên cơ sở của những kết quả và dự báo khoa học, người ta có thể dự kiến những thay đổi có thể diễn ra với những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Từ đó pháp luật được đặt ra để định hướng trước, xác lập những quy định và có thể thiết kế những mô hình tổ chức quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức thử nghiệm... Bốn là, pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia: pháp luật luôn có vai trò giữ gìn sự ổn định và trật tự xã hội cho một quốc gia. sự ổn định của mỗi quốc gia là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở rộng quan hệ với các nước khác. Trong thời đại ngày nay, phạm vi của các mối quan hệ quốc tế giữa các nước ngày càng lớn và nội dung tính chất của các quan hệ đó ngày càng đa diện (nhiều mặt) cơ sở cho việc thiết lập và củng cố các quan hệ đó là pháp luật (pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia). Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng có bước phát triển mới, đó là việc xây dựng các văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người (tổ chức) trong nước với người (tổ chức) nước ngoài. Như vậy, muốn thực hiện tốt sự quản lý nhà nước, đẩy nhanh sự phát triển của xã hội, mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú trọng phát huy vai trò của pháp luật, phải nhanh chóng xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy đủ và đồng bộ, phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù hợp với những xu hướng phát triển chung của tình hình quốc tế và khu vực [45, tr. 78-79]. Với những nhận thức như nêu trên, có thể đưa khái niệm và vai trò của pháp luật phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam như sau: Pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam là một bộ phận của hệ thống pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, pháp luật phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em vừa phản ánh ý nghĩa và vai trò của pháp luật nói chung, vừa phản ánh ý nghĩa và vai trò của lĩnh vực pháp luật cụ thể (phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em). Có thể nói, pháp luật phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam. Từ đó có thể thấy vai trò của pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở các khía cạnh sau: - Là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước trên lĩnh vực phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em; - Là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em; - Là tạo môi trường ổn định cho việc hợp tác quốc tế về phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em. Qua phân tích các quy phạm pháp luật của Việt Nam liên quan đến mua bán phụ nữ, trẻ em cho thấy, đây là lĩnh vực pháp luật mới được hình thành, có quá trình phát triển từ chưa hoàn thiện đến từng bước được hoàn thiện. Một đặc điểm đặc trưng nữa là, pháp luật về mua bán phụ nữ, trẻ em gồm nhiều quy phạm thuộc nhiều ngành luật khác nhau như: luật hình sự, luật dân sự, luật hành chính và các ngành luật khác... Các quy phạm này còn tản mạn, thiếu hệ thống. Do đặc thù phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em cần phải có sự hợp tác quốc tế, nên pháp luật về mua bán phụ nữ, trẻ em có một bộ phận là các quy định có liên quan đến pháp luật nước ngoài, luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em. Nhận thức các đặc điểm nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định nhu cầu, nội dung, hình thức pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam trong thời gian tới. 1.2 KHÁI NIỆM VÀ TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM 1.2.1. Khái niệm hoàn thiện pháp luật phòng, chồng mua bán phụ nữ, trẻ em Trong Từ điển tiếng Việt tính từ hoàn thiện có nghĩa là tốt và đầy đủ đến mức không cần phải làm gì thêm nữa; còn động từ hoàn thiện có nghĩa là làm cho hoàn thiện [46, tr. 450]. Như vậy, hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em được hiểu là công việc loại bỏ, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật, nhằm tạo ra hệ thống các qui phạm pháp luật toàn diện, đầy đủ và đồng bộ, phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù hợp với những xu hướng phát triển chung của tình hình quốc tế và khu vực, để việc phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em đạt hiệu quả tối ưu; theo đó là những nội dung sau: + Loại bỏ các văn bản quy phạm pháp luật, những chế định luật, đã lạc hậu, bất cập, không còn phù hợp đối với việc phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em. + Sửa đổi, bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật, những chế định luật điều luật đã lạc hậu, bất cập cho phù hợp với thực tế. + Xây dựng mới các văn bản qui phạm pháp luật: đối với những vấn đề mới phát sinh trong xã hội (quan hệ xã hội mới), nhưng chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào điều chỉnh thì cần phải xây dựng ngay những văn bản, chế định, điều luật mới để điều chỉnh. 1.2.2. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em Pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật Việt Nam. Do vậy, tiêu chí hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em được xây dựng trên cơ sở tiêu chí hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và đánh giá khái quát hệ thống pháp luật hiện hành về phòng, chống mua, bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam. 1.2.2.1. Tiêu chí hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung Có nhiều tiêu chí để xác định mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật trong đó có bốn tiêu chí cơ bản là: - Tiêu chí về tính toàn diện: tính toàn diện là tiêu chuẩn đầu tiên thể hiện mức độ hoàn thiện của một văn bản qui phạm pháp luật hoặc của cả hệ thống pháp luật. Tiêu chí này có ý nghĩa trong việc "định lượng" một văn bản qui phạm pháp luật cũng như cả hệ thống pháp luật. Do đó, nó có ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ trên cơ sở "định lượng" mới có thể tiếp tục nghiên cứu để "định tính" trong xây dựng pháp luật nói chung. Tính toàn diện của hệ thống pháp luật được thể hiện ở hai cấp độ: + Ở cấp độ chung đối với hệ thống pháp luật, đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có đủ các ngành luật theo cơ cấu nội dung lôgíc và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản qui phạm pháp luật tương ứng. + Ở cấp độ cụ thể đối với mỗi ngànhh luật, mỗi văn bản qui phạm pháp luật phải có đủ các chế định pháp luật, các qui phạm pháp luật. - Tiêu chí về tính đồng bộ: tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất của pháp luật. Một hệ thống pháp luật sẽ là chưa hoàn thiện khi các bộ phận của hệ thống đó có sự trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn. Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật cũng thể hiện ở hai cấp độ: + Ở cấp độ chung, đó là sự đồng bộ giữa các ngành luật với nhau. Để đạt tới mục tiêu này, cần giải quyết hai vấn đề lớn: một là, phải xác định rõ ranh giới giữa các ngành luật; hai là, phải tao ra một hệ thống qui phạm pháp luật cơ bản (thể hiện trong các văn bản luật) để tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của toàn hệ thống pháp luật. + Ở cấp độ cụ thể, tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không trùng lặp, chồng chéo trong mỗi ngành luật, mỗi chế định luật và giữa các qui phạm pháp luật với nhau. Để tạo ra tính đồng bộ trong mỗi ngành luật, phải giải quyết triệt để, đúng đắn mối quan hệ giữa ngành luật-chế định pháp luật-qui phạm pháp luật. Điều đó đòi hỏi một mặt phải có quan điểm tổng quát để có thể xác định tính chất chung của mỗi ngành luật, cơ cấu các chế định, mặt khác phải có quan điểm cụ thể để dự kiến chính xác các tình huống và hoàn cảnh cụ thể, từ đó đề ra các qui phạm phù hợp. - Tiêu chí về tính phù hợp: tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện sự tương quan giữa trình độ của hệ thống pháp luật với trình độ phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở nhiều mặt như là: phù hợp với kinh tế, chính trị, đạo đức, tập quán, truyền thống và các quy phạm xã hội khác. Tiêu chí hệ thống pháp luật phải được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý cao; kỹ thuật pháp lý là một vấn đề rộng lớn, phức tạp trong đó có ba điểm quan trọng đó là: + Kỹ thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật; + Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của pháp luật; + Cách biểu đạt ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô đọng, lôgíc, chính xác và một nghĩa [39, tr. 408-409]. Mặc dù cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam chưa có một đạo luật riêng về phòng, chống mua, bán phụ nữ, trẻ em. Nhưng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã có các qui định về bảo vệ phụ nữ, trẻ em theo các nội dung sau: - Các qui định mang tính phòng ngừa nhằm ngăn chặn nhưng nguyên nhân, điều kiện và hoàn cảnh dẫn đến các hành vi mua, bán phụ nữ, trẻ em. - Các qui định mang tính trừng phạt, răn đe được áp dụng đối với các hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến việc mua, bán phụ nữ, trẻ em, đó là các chế tài hành chính và chế tài hình sự được áp dụng đối với các vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, các qui định hiện hành nêu trên đã bộc lộ ra những bất cập, thiếu sót, nên đã hạn chế hiệu quả của công tác phòng, chống mua, bán phụ nữ, trẻ em. 1.2.2.2. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em Xác định của tiêu chí để hoàn thiện pháp luật trong từng lĩnh vực xã hội nói chung, trong lĩnh vực phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng để xác định phương hướng chung các nhiệm vụ cụ thể để hoàn thiện pháp luật. Là một lĩnh vực pháp luật mới hình thành và phát triển ở nước ta nên việc xác định được các tiêu chí để hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em cũng gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, vận dụng lý luận chung về nhà nước và pháp luật, phân tích hệ thống pháp luật Việt Nam, dự kiến các nội dung cần điều chỉnh của các quan hệ xã hội trong phòng, chống mua bán, phụ nữ, trẻ em, chúng tôi cho rằng hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em theo những tiêu chí như sau: Thứ nhất, tiêu chí về tính hợp hiến, hợp pháp: Điều 146 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 qui định: "Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp" [31]. Như vậy, pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em, cũng như các lĩnh vực pháp luật khác, khi hoàn thiện đều phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế - nguyên tắc tạo nên sự phù hợp trong hệ thống pháp luật. Cụ thể là phải dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp. Thứ hai, tiêu chí về tính đầy đủ, đồng bộ: phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em là một vấn đề phức tạp, nó liên quan đến nhiều ngành luật, nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Do vậy, hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em phải đảm bảo tính đầy đủ và đồng bộ, bởi vì chỉ khi có đầy đủ các qui phạm pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em (tính toàn diện) và các qui phạm pháp luật này không có sự trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn (tính thống nhất) trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em, thì công tác này mới phát huy hiệu quả. Thứ ba, tiêu chí về tính khả thi và hiệu quả: pháp luật nói chung cũng như pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng, với những thuộc tính của mình đã trở thành một công cụ quản lý xã hội không thể thay thế trong thời đại hiện nay và cũng không có một công cụ quản lý nào có thể so sánh với pháp luật về tính hiệu quả trong quản lý nhà nước và xã hội. Vì vậy, để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật thì một trong những yêu cầu quan trọng là phải nâng cao hiệu quả của pháp luật, phát huy tới mức cao nhất vai trò và những giá trị của pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật có hiệu quả phải là pháp luật phục vụ cho những mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, phải góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đưa lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy hiệu quả trong pháp luật phải bao hàm tất cả những gì phản ánh khả năng tác động tốt nhất, nhiều nhất của pháp luật lên các quan hệ xã hội, phản ánh sự hiện thực hóa những giá trị của pháp luật mà nhà làm luật dự tính khi ban hành pháp luật [45, tr. 513]. 1.3. YÊU CẦU HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM 1.3.1. Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền phụ nữ, trẻ em nói riêng 1.3.1.1. Quyền con người nói chung và quyền phụ nữ, trẻ em nói riêng là những quyền hiến định Ngay từ khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các quyền cơ bản của con người nói chung trong đó có quyền phụ nữ, trẻ em nói riêng đã được bản hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) ghi nhận như một lời khẳng định về một nền dân chủ thực sự được thiết lập lần đầu tiên tại Đông Nam Á. Điều 9 Hiến pháp năm 1946 qui định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện"; Điều 14 Hiến pháp năm 1946 qui định: "Những người công dân già cả hoặc người tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được chăm sóc về mặt giáo dưỡng". Cùng với sự phát triển của đất nước, quyền phụ nữ và trẻ em ngày càng được ghi nhận một cách đầy đủ và cụ thể hơn tại các bản hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992. Điều 24 Hiến pháp năm 1959 qui định: Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Cùng làm việc như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước đảm bảo cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình [31]. Điều 63 Hiến pháp năm 1980 qui định: Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nhà nước và xã hội chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ, không ngừng phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội. Nhà nước có chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới làm việc như nhau thì tiền lương ngang nhau. phụ nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương nếu là công nhân, viên chức hoặc hưởng phụ cấp sinh đẻ nếu là xã viên hợp tác xã. Nhà nước và xã hội chăm lo phát triển nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà ăn công cộng và những cơ sở phúc lợi xã hội khác, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập và nghỉ ngơi [31]. Điều 65 Hiến pháp năm 1980 qui định: "Nhà nước và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, mở rộng dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho sinh hoạt, học tập và trưởng thành của trẻ em được bảo đảm". Điều 63 Hiến pháp năm 1992 qui định: Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo qui định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và cá cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện phát triển cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ [31].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan