Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quy...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở việt nam.

.PDF
171
447
121

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ TUẤN PHONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2017 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ TUẤN PHONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 62 38 01 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ của các đồng nghiệp. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Lê Tuấn Phong MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ 2.1. Khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố 2.2. Đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố 2.3. Yêu cầu của cải cách tư pháp, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố 2.4. Pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố ở một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo đối với Việt Nam Chương 3: QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở VIỆT NAM 3.1. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố từ 1945 đến trước khi ban hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 3.2. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố từ khi ban hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đến 2015 và thực tiễn áp dụng Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP 4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 7 7 22 28 34 34 41 48 58 75 75 85 115 115 123 147 151 152 DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CNXH : Chủ nghĩa xã hội CQĐT : Cơ quan điều tra VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã chú ý tới cán bộ làm nhiệm vụ công tố. Các vấn đề pháp lý của chức danh này được điều chỉnh trong những văn bản pháp luật đầu tiên của chính quyền dân chủ nhân dân. Nếu như những năm đầu tiên, chế định công tố và Công tố viên gắn liền với tổ chức và hoạt động của Tòa án thì sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đánh dấu sự thay đổi lớn của chế định này. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy Nhà nước được khẳng định trong Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Cùng với quá trình phát triển của hệ thống cơ quan tư pháp, pháp luật về Kiểm sát viên cũng từng bước hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp. Tuy nhiên, quá trình thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên cho thấy, các quy định pháp luật hiện nay chưa bảo đảm cho Kiểm sát viên chủ động thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong quá trình thực hành quyền công tố vẫn còn có trường hợp bỏ lọt tội phạm; việc phê chuẩn các quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn có trường hợp còn chưa chính xác; còn một số trường hợp đình chỉ điều tra bị can, đình chỉ vụ án do bị can không phạm tội, trong khi đội ngũ Kiểm sát viên còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là cơ sở pháp lý đối với chức danh Kiểm sát viên, trong đó có các bảo đảm pháp lý cho việc thực hành quyền công tố của chức danh này chưa hoàn thiện, các quyền năng pháp lý của Kiểm sát viên chưa được phát huy, chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp trong lĩnh vực hoạt động công tố. Nghị quyết số 48/NQ-TW, ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định các 2 phương hướng và nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện pháp luật, trong đó có nhiệm vụ “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Tiếp đó, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra nhiệm vụ: ... Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật... [10]. Trong bối cảnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, hoàn thiện các quy định pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một nhiệm vụ quan trọng vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính lâu dài, cần phải được tiến hành trên cơ sở chủ trương, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp và các quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động của kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, góp phần thực hiện mục tiêu của cải cách tư pháp. Với những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, đánh giá đúng thực trạng pháp luật, Luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: 3 - Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; từ đó, nêu các vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu. - Xây dựng cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố gắn với yêu cầu cải cách tư pháp; Xây dựng khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; Nghiên cứu pháp luật về Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố ở một số nước, rút ra các giá trị tham khảo có thể vận dụng ở Việt Nam. - Khái quát sự hình thành và phát triển pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam; Đánh giá thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, chỉ ra các điểm hạn chế bất cập và nguyên nhân. - Nêu quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố gắn với yêu cầu cải cách tư pháp; tập trung vào đối tượng là các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố trong phạm vi toàn quốc. Thời gian nghiên cứu từ khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đến năm 2015. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận của luận án Luận án được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, lý luận về hoàn thiện pháp luật, 4 các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án Phương pháp luận được sử dụng trong nghiên cứu Luận án là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trong đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng và quá trình xã hội được sử dụng để nghiên cứu, phân tích mối liên hệ hữu cơ giữa các thiết chế tư pháp và thể chế pháp lý cho hoạt động của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên. Nguyên lý về sự phát triển được sử dụng để nghiên cứu, phân tích những thay đổi về kinh tế -xã hội, quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa dẫn đến những thay đổi theo chiều hướng tích cực trong cách thức tổ chức và hoạt động tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát. Một số quy luật của phép biện chứng duy vật như quy luật lượng-chất, hay các cặp phạm trù như cái chung và cái riêng, khả năng và hiện thực, được sử sử dụng để nghiên cứu, phân tích các yếu tố tác động, các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận án là: - Phương pháp hệ thống được áp dụng trong chương 1 để phân loại và nghiên cứu nội dung các tài liệu nghiên cứu pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, hệ thống hóa theo một cấu trúc logic khoa học qua đó giúp tác giả có được nhận thức một cách biện chứng, tổng thể, khái quát nhất về hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay và một số nước trên thế giới. - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng cả chương 2, chương 3 và chương 4 của luận án. Phân tích khái niệm về Kiểm sát viên, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; đặc điểm, nội dung điều chỉnh, vai trò; các yêu cầu cải cách tư pháp, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; các điều kiện bảo đảm; phân tích nguyên nhân của thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực 5 hành quyền công tố; phân tích các quan điểm và giải pháp hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. - Phương pháp so sánh được áp dụng để nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, qua đó rút ra bài học và lựa chọn những hạt nhân hợp lý, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh để áp dụng đối với Việt Nam. - Trong chương 3, bên cạnh việc sử dụng phương pháp phân tích tác giả còn sử dụng các phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp các số liệu để chứng minh cho các luận giải đã nêu trong phần đánh giá thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. 5. Đóng góp mới của luận án Luận án là công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam. Những đóng góp của Luận án thể hiện cụ thể như sau: - Trên cơ sở nghiên cứu kế thừa các tài liệu đã có của Việt Nam và các nước trên thế giới, xây dựng khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; khái quát nội dung, đặc điểm, vai trò của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; Xây dựng các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố pháp luật theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. - Đánh giá khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến trước năm 2002 và thực tiễn áp dụng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố từ 2002 - 2015. - Nêu quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam trong những năm tới. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa đối với việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp. Với việc đề xuất các giải pháp, trong đó có việc đưa ra một số kiến nghị góp phần vào sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Bộ luật Hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luận án đóng góp thêm vào sự phát triển lý luận về pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Luận án cũng là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo luật, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành kiểm sát và những ai quan tâm đến lĩnh vực này. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án bao gồm 4 chương, 11 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC Trong những năm qua, với việc thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, vấn đề hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố đã được nghiên cứu nhiều hơn so với trước đây. Điều này được thể hiện qua số lượng và nội dung của các công trình nghiên cứu dưới dạng các đề tài nghiên cứu khoa học, các xuất bản phẩm, các luận văn, luận án, các bài viết đăng trên tạp chí nghiên cứu pháp luật chuyên ngành. Để bảo đảm phục vụ việc nghiên cứu của luận án tác giả phân chia thành các nhóm vấn đề cụ thể như sau: 1.1.1. Pháp luật về Kiểm sát viên Pháp luật về Kiểm sát viên tiếp cận dưới giác độ lý luận lịch sử Nhà nước và pháp luật đòi hỏi phải có cách nhìn toàn diện, khái quát xuất phát từ nguồn gốc, bản chất, mối quan hệ của quyền công tố trong phương thức tổ chức bộ máy nhà nước, mà trực tiếp là trong Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 1945 đến nay. * Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài nghiên cứu khoa học Trước hết phải kể đến công trình nghiên cứu chuyên khảo “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” của Trần Hậu Thành [105]. Trong cuốn sách này, tác giả đã khái quát quá trình hình thành và phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong tiến trình lịch sử nhân loại, đồng thời hệ thống một số quan điểm và thực tiễn tổ chức theo hướng nhà nước pháp quyền hiện nay trên thế giới. Cuối cùng tác giả đã luận giải và đưa ra mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện đại, trong đó có mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp như tòa án và viện kiểm sát Cuối sách “Dân chủ và pháp luật dân chủ” của Ngô Huy Cương [25]. Trong cuốn sách này tác giả đã luận giải và xây dựng khái niệm về dân chủ, đồng 8 thời đưa ra sáu thành tố của dân chủ đó là: Nhà nước pháp quyền; Chủ nghĩa lập hiến; Phân chia quyền lực; Xã hội công dân; Quyền con người, quyền công dân; Tư pháp độc lập. Trên cơ sở thực tiễn pháp luật Việt Nam tác giả đã đưa ra các tiêu chuẩn đánh giá tính dân chủ và hiện trạng dân chủ trong pháp luật Việt Nam trên cơ sở tổ chức Nhà nước, bảo đảm quyền con người và hình thức dân chủ. Luận giải và đưa ra một số giải pháp về dân chủ và pháp luật dân chủ trong các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tư pháp. Cuốn sách “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” do PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004 [16]. Cuốn sách lần đầu tiên nêu khái niệm thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, thể chế tư pháp với việc thực hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền và các loại hình thể chế tư pháp với một số mô hình tổ chức tư pháp đặc trưng trên thế giới. Từ đó, tác giả nêu và phân tích quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án, cơ quan công tố, vai trò của thẩm phán và công tố viên và những vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam. Cuốn sách “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của Lê Hữu Thể [107], đã đề cập tương đối toàn diện, đầy đủ các quan điểm và lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, trong đó đi sâu nghiên cứu các quan điểm về quyền công tố, thực hành quyền công tố, hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự; những quy định của pháp luật về Kiểm sát viên và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra; đồng thời, khái quát về cơ quan công tố của một số nước trên thế giới nhằm rút ra kinh nghiệm ứng dụng vào Việt Nam. Nguyễn Hải Phong và cộng sự trong cuốn “Một số vấn đề về trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” [82] đã phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoạt động công tố của các cấp kiểm sát, kiến nghị 9 các giải pháp thiết thực, có tính khả thi khi thực hiện trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát. Đề tài “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” của Nguyễn Ngọc Khánh [66], đề tài đã tập trung nghiên cứu về mối quan hệ giữa công tố với điều tra của một số quốc gia và quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta về việc tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, đã xác định vị trí, thẩm quyền của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp. * Luận án, luận văn Vấn đề thực hành quyền công tố cũng là tâm điểm thu hút sự chú ý nghiên cứu của các luận án Tiến sĩ như “Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị Tuyết Hoa, từ góc độ lý luận nhà nước và pháp luật [54] đã khái quát những vấn đề cơ bản nhất về quyền công tố như khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự; thực trạng tổ chức thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự ở Việt Nam trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố ở Việt Nam. Đồng thời nêu được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân. Luận án của Nguyễn Duy Giảng “Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” [44] đã nghiên cứu toàn diện việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến chủ thể tiến hành tố tụng, những kết quả, hạn chế, vướng mắc bộ lộ trong thực tiễn, qua đó làm rõ những hạn chế trong quy định của BLTTHS hiện hành cần được xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận tổng kết thực tiễn và làm rõ những yêu cầu của cải cách tư pháp, tác giả đã đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong hệ thống quy định pháp luật về viện kiểm sát và Kiểm sát viên, góp phần khắc phục những bất cập, vướng mắc trong các quy định liên quan đến chức năng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên. Theo tác giả, việc thực hiện các nhiệm vụ và 10 quyền hạn của Kiểm sát viên trong điều tra vụ án hình sự còn nhiều tồn tại, trong đó có nguyên nhân là quy định của BLTTHS năm 2003 về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra còn một số bất cập về thẩm quyền khởi tố bị can, thẩm quyền điều tra, thẩm quyền quyết định việc chuyển vụ án, về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra (CQĐT) và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; về vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên tại phiên tòa… Từ đó, tác giả kiến nghị hoàn thiện nhiều quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và BLTTHS năm 2003, trong đó có các quy định về thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên. 1.1.2. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố * Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài nghiên cứu khoa học - Về quyền công tố trong nhà nước pháp quyền của Nguyễn Đăng Dung và các cộng sự trong nghiên cứu “Viện kiểm sát trong Nhà nước pháp quyền” [32] đã đề cập đến một số vấn đề như: phân tích vị trí và vai trò của Viện kiểm sát trong mô hình hiện nay và xu thế của Viện kiểm sát trong thời gian tới; làm rõ những yêu cầu có tính nguyên tắc của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền gắn với thực hiện chức năng của Viện kiểm sát - Viện kiểm sát thực hành quyền công tố là quyền hành pháp mà không phải là quyền tư pháp như quan niệm hiện nay; chủ thể của công tố chỉ do Viện kiểm sát thực hiện và vì vậy Viện kiểm sát phải thống nhất chỉ đạo điều tra toàn bộ vụ án; có chỉ đạo điều tra mới buộc tội được, có buộc tội được mới góp phần bảo vệ công lý xã hội chủ nghĩa (XHCN)… Ngoài ra, các tác giả còn giới thiệu một vài mô hình công tố trên thế giới điển hình và đặt ra việc chuyển đổi vai trò, chức năng, tên gọi của Viện kiểm sát thành Viện công tố là đòi hỏi tất yếu khách quan, nhưng cần tính đến lộ trình và bước đi phù hợp. Đồng thời, cuốn sách cũng đã phân tích và làm sáng tỏ nhiều nội dung thực hiện chức năng mà Viện kiểm sát đang thực hiện dưới một giác độ tiếp cận mới, tiếp cận dựa trên quyền và nghĩa vụ như: Quyền công tố và phạm vi của công tố; Giới hạn của việc xét xử theo cáo trạng; nội dung và bản chất của tranh tụng giữa bên 11 buộc tội và gỡ tội; có hay không cần thiết Viện kiểm sát phải thực hiện kiểm sát hoạt động tư pháp các lĩnh vực phi hình sự… Cuốn sách “Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác của Viện kiểm sát nhân dân qua 55 năm tổ chức và hoạt động” của Viện kiểm sát nhân dân tối cao [146] đã tập trung tổng hợp, khái quát những vấn đề cơ bản trong công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nghành kiểm sát nhân dân từ 1960 đến 2015 trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Từ đó đưa ra 9 bài học kinh nghiệm lớn làm cơ sở để nghành kiểm sát tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. - Đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát và việc thực hiện thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Phạm Mạnh Hùng [62], đã nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân và việc thực hiện thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. - Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Lê Hữu Thể [109] đã luận chứng, làm rõ những vấn đề lý luận chung về thủ tục tố tụng, mô hình tố tụng hình sự; các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng, trong đó có Kiểm sát viên VKSND. Trên cơ sở đánh giá đúng đắn những tồn tại, hạn chế, vướng mắc, bất cập trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, đề tài nêu những yêu cầu của cải cách tư pháp đối với tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, trong đó tính độc lập của Kiểm sát viên là một trong những vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn, cần được khắc phục bằng một cơ chế pháp lý phù hợp. Đề tài đã đề xuất các hướng hoàn thiện, đổi mới mô hình tố tụng hình sự và pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay theo hướng nâng cao năng lực của CQĐT, Viện kiểm sát. Tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra, truy tố.* Luận án, Luận văn 12 - Nguyễn Thị Thủy “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng” [113] nêu mô hình tố tụng mới kết hợp giữa xét hỏi và tranh tụng trong điều kiện Việt Nam đang tiến hành cải cách tư pháp. Từ đổi mới mô hình tố tụng dẫn đến đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong mối quan hệ giữa nguyên tắc tập trung thống nhất của ngành kiểm sát với tính độc lập của từng Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố; giữa mối quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng giữa Viện trưởng Viện kiểm sát với Kiểm sát viên trong điều tra, kiểm sát điều tra và truy tố bị can ra trước tòa, duy trì công tố tại phiên tòa hình sự. - Bùi Mạnh Cường “Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [26] đã tập trung tìm hiểu một số vấn đề chung về công tố và hoạt động điều tra, phân tích thực trạng về mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra tại Việt Nam (số liệu 5 năm: từ năm 2006 đến năm 2010), mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành; những kết quả đạt được trong việc giải quyết mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự và nguyên nhân của những kết quả đạt được; một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự và nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc. Tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. - Vũ Đức Ninh “Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố” [80] đã khái quát về quyền công tố và việc tổ chức thực hành quyền công tố ở nước ta theo BLTTHS, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố cũng như hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong cùng thời điểm này, xem xét thực tiễn thi hành những quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố bằng cách nhìn vào những phân tích số liệu về các quyết định mà cơ quan này ban hành trên một địa bàn cụ thể sau đó đưa ra 13 những nhận xét về thẩm quyền của Viện kiểm sát từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vai trò cũng như vị trí của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố và một số kiến nghị khác nhằm phát huy cũng như kiện toàn vị trí cơ quan Viện kiểm sát trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay. * Các bài đăng trên tạp chí Trong bài viết “Nguyên tắc tập trung thống nhất trong nghành kiểm sát nhân dân trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay” của Đào Trí Úc [118] đã nêu khái quát các quan điểm, ý kiến đóng góp khác nhau trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về tính chất, vị trí, chức năng của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam, đặc biệt là nguyên tắc tập trung thống nhất trong nghành kiểm sát nhân dân. Nguyên tắc này chỉ phù hợp với việc thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật vì tính thống nhất theo nghành dọc là bảo đảm cho sự giám sát, kiểm tra mang tính quyền lực Nhà nước đối với các chủ thể áp dụng, thi hành pháp luật và đối với công dân. Từ giác độ tiếp cận mang tính toàn diện, hệ thống, trên cơ sở nội dung pháp lý của hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân, từ yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tác giả đã luận chứng và đề xuất ghi nhận trên bình diện Hiến pháp hai nguyên tắc quan trọng cho tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta như sau: Một là, nguyên tắc tập trung thống nhất về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân; Hai là, nguyên tắc khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân độc lập, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, nghiêm cấm mọi sự can thiệp trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân [118]. Phạm Mạnh Hùng với bài “Về nguyên tắc bảo đảm sự kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước của nước ta” [63], đã giới thiệu một cách khái quát hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy nhà nước ta, đồng thời nêu và phân tích cụ thể từng quy định về cơ chế kiểm soát 14 quyền lực Nhà nước trong từng phân nhánh hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước nói riêng và trong hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung. Từ đó, tác giả đưa ra nhận xét và kiến nghị cần tiếp tục xem xét hoàn thiện về Quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp; khôi phục lại chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân vì đây là yêu cầu xuất phát từ lý luận và thực tiễn thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước hiện nay. Vũ Mộc trong bài viết ‘‘Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động điều tra” [75], đã đưa ra nhận định mặc dù trong BLTTHS 2003 không quy định cụ thể quyền chỉ đạo hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhưng theo nội dung các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát và của CQĐT thì Viện kiểm sát vẫn là cơ quan quyết định mọi hành vi tố tụng ở giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, trên thực tiễn hoạt động công tố vẫn xa rời hoạt động điều tra, theo tác giả có hai nguyên nhân chính: Pháp luật về hình sự và tố tụng thiếu chế tài bảo đảm cho hoạt động chỉ đạo theo pháp luật tố tụng hình sự của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra; Chưa có sự thống nhất và phân biệt về thẩm quyền chỉ đạo hoạt động điều tra theo nghiệp vụ điều tra và chỉ đạo điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự. Cuối bài viết tác giả đưa ra bốn giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động điều tra. 1.1.3. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố * Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài khoa học - Sách chuyên khảo “Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của các cơ quan Nhà nước” của Nguyễn Đăng Dung [31]. Trong cuốn sách này tác giả đã nghiên cứu và làm rõ vai trò, vị trí, bản chất “vượt trội” của Hiến pháp, cũng như tính đặc thù của Hiến pháp trong hệ thống các văn bản pháp luật của quốc gia. Từ đó đi đến nhận định về tính nhân bản của Hiến pháp. Và cũng trên cơ sở tiếp cận 15 này, xuất phát từ lịch sử lập hiến Việt Nam, tác giả đã phân tính và khái quát về các bản tính của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp và đưa ra từng kiến nghị cụ thể cho từng cơ quan nhà nước. - Sách chuyên khảo “Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Trần Ngọc Đường [41]. Trong cuốn sách này, tác giả từ cách tiếp cận quyền con người, quyền công dân là giá trị cao quý, là mục đích phấn đấu cao nhất, đồng thời là đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tác giả đã tổng hợp, phân tích rồi đưa ra các quan điểm về quyền con người, quyền công dân; quyền và nghĩa vụ cá nhân công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xuất phát từ lịch sử lập hiến (1945 đến 2001), tác giả đã chứng minh quá trình sửa đổi, ban hành Hiến pháp ở Việt Nam luôn là quá trình tiếp nối và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền con người, quyền công dân thông qua việc cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Và từ cơ sở trên, tác giả đã nêu những bảo đảm pháp lý trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân, cùng các phương hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới. - Đề tài “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Uông Chu Lưu [73], xác định bản chất của công tố là việc đại diện cho quyền lực công để truy tố tội phạm, đưa người có hành vi phạm tội ra trước toà án để xét xử, do đó, công tố phải là một chức năng không tách rời của hành pháp. Viện Công tố, do vậy, phải là một cơ quan thuộc nhánh hành pháp và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật và trước nhân dân về việc truy tố tội phạm và buộc tội trước toà. Các tác giả trong nhóm nghiên cứu cũng cho rằng phạm vi công tố chỉ nên giới hạn trong lĩnh vực hình sự nghĩa là trong việc đại diện cho quyền lực công truy tố tội phạm và buộc tội người có hành vi phạm tội trước toà. Về nguyên lý, Viện công tố phải đồng thời là cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra. Cơ quan điều tra tiến hành
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan