Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại ...

Tài liệu Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại công ty tnhh kiểm toán và tư vấn phan dũng (pdac)

.PDF
81
225
59

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG KHOA KẾ TOÁN - TÀI CHÍNH &&&&& KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành: Kế Toán Đề tài: Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại công ty TNHH kiểm toán và tƣ vấn Phan Dũng (PDAC). GVHD: Th. Sĩ Phan Văn Dũng. SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hƣơng. MSSV: 4913054030 Lớp: 49DN1 Nha trang, năm 2011 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ...................................................................................... 01 LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................... 02 CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH 04 1.1 Lý luận cơ bản về rủi ro kiểm toán ....................................................................... 04 1.1.1 Kiểm toán và rủi ro ........................................................................................... 04 1.1.2 Các loại rủi ro kiểm toán .................................................................................... 08 1.1.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro – Mô hình rủi ro kiểm toán ......................... 10 1.1.4 Mối quan hệ rủi ro và trọng yếu ........................................................................ 15 1.2 Đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán .................. 17 1.2.1 Đánh giá chấp nhận hợp đồng kiểm toán BCTC ............................................. 17 1.2.2 Đánh giá rủi ro tiềm tang trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán ................ 18 1.2.3 Đánh giá rủi ro kiểm soát trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán ................ 22 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TẠI PDAC ...................................................................28 2.1 Giới thiệu công ty Công ty TNHH kiểm toán và tƣ vấn Phan Dũng (PDAC)28 2.1.1 Khái quát về PDAC ........................................................................................... 28 2.1.2 Quy trình kiểm toán báo cáo tài chính với đánh giá rủi ro kiểm toán tại PDAC............................................................................................................ 34 2.2 Thực tế quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại PDAC . ..................................................................................................... 37 2.2.1 Tìm hiểu thông tin chi tiết và đặc điểm của khách hàng ................................. 37 2.2.2 Đánh giá rủi ro trên toàn bộ báo cáo tài chính .................................................. 40 2.2.2.1 Đánh giá rủi ro tiềm tàng ................................................................................. 40 2.2.2.2 Đánh giá rủi ro kiểm soát trên toàn bộ BCTC .............................................. 40 2.2.2.3 Đánh giá rủi ro phát hiện trên toàn bộ BCTC............................................... 42 2.2.3 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên số dƣ các tài khoản nghiệp vụ ........................ 42 2.2.3.1 Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên số dƣ các tài khoản, nghiệp vụ ..................... 42 2.2.3.2 Đánh giá rủi ro kiểm soát trên số dƣ các tài khoản ...................................... 45 2.2.3.3 Đánh giá rủi ro phát hiện đối với các khoản mục nghiệp vụ ..................................45 2.2.3.4 Đánh giá rủi ro kiểm toán ảnh hƣởng đến thủ tục kiểm toán đƣợc áp dụng ......................................................................................................................................... 46 2.2.4 Nhận xét về quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch do PDAC thực hiện ............................................................................................................ 47 CHƢƠNG III: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH ĐÁNHGIÁ RỦI RO TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TẠI PDAC ......................................................................................................... 49 3.1. Tính tất yếu khách quan phải hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: ..................................................................... 49 3.1.1 Nhu cầu hội nhập với khu vực và quốc tế trong thời đại mới .......................... 49 3.1.2 Định hƣớng chiến lƣợc phát triển của PDAC .................................................... 51 3.2 Giải pháp hoàn thiện ”quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại PDAC” ..................................................................................................... 51 3.2.1. Hoàn thiện quy trình đánh giá Hệ thống kiểm soát nội bộ ............................. 51 3.2.2. Hoàn thiện phƣơng pháp xác định rủi ro cho các khoản mục ........................ 54 3.2.3 Hoàn thiện giấy tờ làm việc đánh giá rủi ro kiểm toán..................................... 55 3.2.4 Nâng cao năng lực trình độ của kiểm toán viên ................................................ 56 3.3. Điều kiện thực hiện các giải pháp hoàn thiện ...................................................... 57 KẾT LUẬN .................................................................................................................... 59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 60 DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các thầy (cô) trường Đại Học Nha Trang trong thời gian qua đã giảng dạy tận tình, ân cần, chu đáo giúp em nắm bắt được lý thuyết, cũng như tạo điều kiện cho em tiếp xúc, tìm hiểu và làm quen thực tế để em hoàn thành tốt khóa luận này, và có kiến thức nền tảng cho tương lai sau này. Em xin chân thành cảm ơn thầy Phan Văn Dũng giáo viên trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ em hoàn thành tốt khóa luận này. Cùng với sự giúp đỡ của quý thầy cô, em còn được sự hướng dẫn nhiệt tình của Ban giám đốc và các anh chị trong công ty TNHH kiểm toán và tư vấn Phan Dũng, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành tốt khóa luận này. Điều đó giúp em hệ thống hóa được kiến thức đã học và tiếp thu được kinh nghiệm thực tế góp phần hoàn thiện bản thân và bổ sung kiến thức của mình. Sau cùng, em kính chúc quý thầy cô sức khỏe tốt để tiếp tục sự nghiệp cao cả của mình truyền đạt kiến thức cho mai sau. Kính chúc Ban giám đốc và các anh chị trong công ty dồi dào sức khỏe và thành công trên con đường sự nghiệp của mình. Nha Trang, Ngày 30 tháng 05 năm 2011 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Thanh Hương Nguyễn Thị Thanh Hương Page 1 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng LỜI MỞ ĐẦU  Tính cấp thiết của đề tài: Từ khi nước ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của các doanh nghiệp lớn nhỏ ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với sự đòi hỏi tính minh bạch của báo cáo tài chính, nhu cầu sử dụng các dịch vụ kiểm toán của các công ty và doanh nghiệp ngày càng cao. Hoạt động kiểm toán đã có lịch sử phát triển lâu dài và gắn liền với quá trình phát triển của xã hội loài người, để phục vụ nhu cầu xã hội, những lĩnh vực và loại hình kiểm toán khác nhau đã lần lượt hình thành, trong đó hiện nay kiểm toán độc lập rất phát triển trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay nhận thức về tầm quan trọng của kiểm toán ngày càng cao từ đó tạo ra môi trường rất thuận lợi cho các công ty kiểm toán phát triển mở rộng tầm hoạt động, nhất là ở nước ta hiện nay, kiểm toán là một lĩnh vực còn khá mới. Tuy nhiên, từ sau sự kiện ENRON thì yêu cầu đòi hỏi về chất lượng kiểm toán ngày càng chặt chẽ và khắt khe hơn. Đó là một thách thức lớn cho các công ty kiểm toán. Để chất lượng kiểm toán cao, đòi hỏi kiểm toán viên phải tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực chế độ kế toán, hiểu biết rõ về khách hàng, đánh giá rủi ro tổng thể và chi tiết. Vì vậy để có được một cuộc kiểm toán hữu hiệu và hiệu quả thì cần thiết phải tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro. Việc thực hiện đánh giá rủi ro được thực hiện xuyên suốt trong quá trình kiểm toán. Trong đó quan trọng nhất là giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn Phan Dũng (viết tắt là PDAC) là Công ty kiểm toán trong nước, được thành lập trong thời gian chưa lâu nên việc xây dựng một quy trình chuẩn để đánh giá rủi ro còn nhiều hạn chế. Chính vì nhận thấy tầm quan trọng của việc đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính nên Em đã chọn Đề tài Khóa luận tốt nghiệp của mình là: "Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại Công ty TNHH Kiểm Toán và Tư Vấn Phan Dũng ".  Mục tiêu của đề tài: Thông qua việc hệ thống hóa những vấn đề lí luận và thực tiễn, đi sâu vào phân tích rủi ro và đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán do PDAC thực hiện, đề tài hướng tới đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại PDAC . Nội dung của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung bài luận của em gồm có 3 nội dung chính sau: Nguyễn Thị Thanh Hương Page 2 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng Chƣơng I: Lý luận chung về đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán BCTC; Chƣơng II: Thực trạng đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại PDAC; Chƣơng III: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch trong kiểm toán tại PDAC.  Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận và sử dụng các phương pháp của các môn khoa học khác. Ngoài ra kết hợp với thực hành và quan sát thực tế tại Công ty để thực hiện đề tài.  Hướng đóng góp của khoá luận: Trong quá trình thực tập tại PDAC, thông qua nghiên cứu về quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, em hệ thống hoá lí luận và vận dụng phân tích thực trạng quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán. Từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa quy trình đánh giá rủi ro do Công ty thực hiện. Do thời gian và kiến thức còn nhiều hạn chế nên Khóa luận của Em không thể tránh được những sai sót nhất định. Em rất mong các thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để Khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Nguyễn Thị Thanh Hương Page 3 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH 1.1. Lý luận cơ bản về rủi ro kiểm toán 1.1.1 Kiểm toán và rủi ro: Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng về những thông tin được kiểm tra nhằm xác định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập. Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các kiểm toán viên đầy đủ năng lực và độc lập. Kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán bởi nó chứa đựng đầy đủ các sắc thái kiểm toán ngay từ khi ra đời cũng như trong quá trình phát triển. Kiểm toán tài chính là quá trình sử dụng các phương pháp kĩ thuật nghiệp vụ và các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập các bằng chứng kiểm toán cần thiết làm cơ sở cho việc xác minh và bày tỏ ý kiến về tính trung thực và hợp lí của các BCTC đã lập so với những chuẩn mực chung được chấp nhận. Đối tượng trực tiếp của kiểm toán tài chính là báo cáo tài chính. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 700 đoạn 07: “Ý kiến của kiểm toán viên đưa ra trên báo cáo kiểm toán một sự đảm bảo chắc chắn rằng báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu; Nhưng không đảm bảo tuyệt đối rằng không có bất kì một sai sót nào trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Kiểm toán viên chỉ quan tâm đến các yếu tố trọng yếu của các báo cáo tài chính”. Giới thiệu chu trình kiểm toán Chu trình của một cuộc kiểm toán được chia thành 03 giai đoạn: (1) Kế hoạch kiểm toán; (2) Thực hiện kiểm toán; và (3) Tổng hợp, kết luận và lập báo cáo. Các cột dọc màu xanh nhạt chỉ các hoạt động kiểm toán xuyên suốt toàn bộ giai đoạn của cuộc kiểm toán. Ô màu xanh da trời đậm là các bước kiểm toán và giấy tờ làm việc của bước này bắt buộc phải được Giám đốc hoặc thành viên BGĐ phụ trách cuộc kiểm toán ký soát xét. Các ô màu hồng bao quanh là các yếu tố chi phối toàn bộ cuộc kiểm toán. Các ô màu càng đậm càng thể hiện vai trò quan trọng hơn trong suốt chu trình của cuộc kiểm toán. Nguyễn Thị Thanh Hương Page 4 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng Sơ đồ: Nguyễn Thị Thanh Hương Page 5 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của từng cuộc kiểm toán cũng như để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm căn cứ cho kết luận của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của số liệu trên báo cáo tài chính, cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo quy trình gồm ba giai đoạn như sau:  Lập kế hoạch và thiết kế các phương pháp kiểm toán,  Thực hiện kế hoạch kiểm toán,  Hoàn thành cuộc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán. Trong đó lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lí cũng như những điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán. Lập kế hoạch kiểm toán có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 300: “Lập kế hoạch kiểm toán phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán, phát hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn; và đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành đúng thời hạn” . Kế hoạch kiểm toán trợ giúp KTV phân công công việc cho trợ lí kiểm toán và phối hợp với KTV và chuyên gia khác về công việc kiểm toán. Như vậy trên mức độ trọng yếu được xác định cho toàn bộ BCTC và phân bổ cho từng khoản mục, KTV cần đánh giá khả năng xảy ra sai sót trọng yếu ở toàn bộ BCTC cũng như từng khoản mục để phục vụ cho việc thiết kế các thủ tục kiểm toán và xây dựng chương trình cho từng khoản mục. Công việc này được gọi là đánh giá rủi ro kiểm toán. Đánh giá rủi ro là vấn đề hết sức quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của mọi cuộc kiểm toán. Để tìm hiểu về quy trình đánh giá rủi ro ta cần phải hiểu thế nào là rủi ro và việc nhận diện từng loại rủi ro. Rủi ro kiểm toán là rủi ro xảy ra khi KTV và Công ty kiểm toán đưa ra kết luận về BCTC của khách hàng được trình bày trung thực và hợp lí trên các khía cạnh trọng yếu, qua đó KTV đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần đối với BCTC của khách hàng. Trên thực tế, BCTC của khách hàng vẫn luôn tiềm ẩn những sai sót trọng yếu. Rủi ro chọn mẫu và rủi ro không chọn mẫu kiểm toán là hai bộ phận quan trọng ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán. Rủi ro kinh doanh trong lĩnh vực kiểm toán là rủi ro xảy ra khi đó KTV và công ty kiểm toán phải chịu thiệt hại trong mối quan hệ với khách hàng, do những sai phạm trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Để kiểm soát được rủi ro kiểm toán công việc của các KTV đó là đánh giá rủi ro kiểm toán. Việc đánh giá rủi ro kiểm toán cần được quan tâm và thực hiện ngay từ trước khi chấp nhận kiểm toán và đặc biệt là trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 (VSA 400) giải thích về rủi ro kiểm toán như sau: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp trong khi BCTC đã được kiểm toán vẫn còn chứa đựng những sai sót Nguyễn Thị Thanh Hương Page 6 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng; rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”. Cũng như các loại rủi ro khác, rủi ro kiểm toán cũng luôn tiềm ẩn và có nguy cơ xảy ra ngay cả khi cuộc kiểm toán được lập kế hoạch chu đáo và thực hiện một cách thận trọng. Rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên nếu việc lập kế hoạch kém và thực hiện thiếu thận trọng. Trong các văn bản hướng dẫn chỉ đạo quốc tế, rủi ro kiểm toán được xét trong mối quan hệ với kế hoạch kiểm toán, lấy mẫu kiểm toán và lựa chọn phép thử nên rủi ro kiểm toán được hiểu là khả năng sai sót và việc đánh giá rủi ro được ước tính theo tỉ lệ từ 0% đến 100%. KTV không thể chắc chắn rằng 100% các BCTC đã kiểm toán không còn chứa đựng các sai phạm trọng yếu. Vì vậy, KTV chỉ có thể kì vọng một mức kiểm toán có thể chấp nhận được đảm bảo rằng ở mức rủi ro đó sai sót trọng yếu không có cơ hội xảy ra. Trong lĩnh vực kiểm toán không có một quy định chính thức nào về mức rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận, loại trừ rằng rủi ro kiểm toán phải ở mức cho phép. Vấn đề xác định rủi ro kiểm toán là hết sức cần thiết trong mọi cuộc kiểm toán. Dựa trên mức rủi ro kiểm toán đã xác định, KTV có cơ sở để xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận. Trong đoạn 08, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 (VSA 400) “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” có quy định: “Rủi ro kiểm toán phải được xác định trước khi lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán”. Như vậy rủi ro kiểm toán luôn được KTV và Công ty kiểm toán xác định trước khi lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán. Xác định được rủi ro kiểm toán góp phần giúp cho KTV và Công ty kiểm toán xác định được chương trình kiểm toán cụ thể. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro kiểm toán, có thể do giới hạn về mặt quản lý, mà trực tiếp là chi phí kiểm toán (số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập). Thậm chí, ngay cả khi bằng chứng kiểm toán đã đủ thì rủi ro kiểm toán vẫn có khả năng xảy ra. Chi phí kiểm toán và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau. Ví dụ số lượng bằng chứng kiểm toán càng nhiều thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và chi phí kiểm toán được minh họa qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa chi phí kiểm toán và rủi ro kiểm toán Mức rủi ro kiểm toán Rủi ro đạt tới Rủi ro mong muốn Bằng chứng kiểm toán (Chi phí) Nguyễn Thị Thanh Hương Page 7 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng 1.1.2 Các loại rủi ro kiểm toán Đối tượng của kiểm toán là những thông tin được kiểm toán qua nhiều giai đoạn bằng các bộ máy kiểm toán khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng được xác định tương ứng với đối tượng kiểm toán từng loại: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Rủi ro tiềm tàng (Inherent Risk) – IR là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu trong bản chất các đối tượng kiểm toán (chưa tính đến sự tác động của bất cứ hoạt động kiểm toán nào kể cả kiểm soát nội bộ). Từng khoản mục và nghiệp vụ trên BCTC luôn chứa đựng những sai sót trọng yếu mặc dù có hay không có sự xuất hiện của hệ thống kiểm soát nội bộ. Mức rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách thể kiểm toán. Kiểm toán viên không tạo ra và cũng không kiểm soát rủi ro tiềm tàng mà họ chỉ có thể đánh giá chúng. Rủi ro tiềm tàng là một khái niệm quan trọng trong kiểm toán. Để đánh giá rủi ro tiềm tàng KTV phải dựa vào kinh nghiệm và óc xét đoán của mình để từ đó dự đoán nơi nào trong BCTC chứa đựng sai sót nhiều nhất. Những sai sót riêng lẻ hoặc kết hợp sẽ làm sai lệch thông tin trên BCTC và làm ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin trên BCTC. Sai sót đó có thể là cố ý hoặc vô ý song vẫn ảnh hưởng đến số dư các tài khoản. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 (VSA 400) cho rằng: “ Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”. Như vậy, theo một cách chung nhất rủi ro tiềm tàng là sự nghi ngờ về một số dư tài khoản nào đó trong một khoản mục hay nghiệp vụ nào đó mà sai sót có thể xảy ra giả sử rằng không có một bước kiểm soát nội bộ liên quan nào. Rủi ro tiềm tàng có quy mô lớn hay nhỏ phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh doanh của khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh của khách thể kiểm toán. Trong thực tế, để đánh giá rủi ro tiềm tàng KTV có thể dựa vào nhiều nguồn thông tin khác nhau. Chẳng hạn, KTV có thể dựa vào kết quả của cuộc kiểm toán trước. Ví dụ, nếu kết quả cuộc kiểm toán năm trước chỉ ra rằng không phát hiện bất kì một sai phạm trọng yếu nào thì KTV nên đánh giá khả năng tiềm ẩn rủi ro tiềm tàng sẽ lớn và phải chú ý nhiều. Hoặc thông qua việc thu thập các thông tin về ngành nghề kinh doanh của khách thể kiểm toán, về chính sách kinh tế, tài chính kế toán của đơn vị được kiểm toán, KTV có thể hiểu được bản chất kinh doanh của đơn vị, hiểu được tính chất phức tạp của các nghiệp vụ… và từ đó có thể đưa ra dự đoán của mình về rủi ro tiềm tàng. Rủi ro kiểm soát (Control Risk) – CR là khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán không phát hiện ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm trọng yếu. Rủi ro kiểm soát là khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu do hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả do đó đã không phát hiện và ngăn chặn các sai phạm này. Rủi ro kiểm soát có liên quan mật Nguyễn Thị Thanh Hương Page 8 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng thiết đến sự yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Cũng như rủi ro tiềm tàng, KTV không thể tạo ra và kiểm soát được rủi ro kiểm soát. KTV chỉ có thể đánh giá hệ thống kiểm soát của đơn vị được kiểm toán và từ đó đưa ra mức rủi ro kiểm soát dự kiến. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 (VSA 400) cho rằng: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc gộp lại mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn chặn hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”. Như vậy, một cách chung nhất rủi ro kiểm soát là sự đánh giá về cơ cấu của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có hiệu quả với việc ngăn chặn, phát hiện các sai sót hay không. Mục đích của KTV là đánh giá rủi ro kiểm soát của khách hàng ở một mức nhỏ hơn mức tối đa trong khi lập kế hoạch kiểm toán. Kiểm toán viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động không hiệu quả trong việc ngăn ngừa và phát hiện các sai phạm thì sẽ phân bổ 100% yếu tố rủi ro cho rủi ro kiểm soát. Kiểm toán viên xét thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động có hiệu quả thì yếu tố rủi ro được phân bổ cho rủi ro kiểm soát ở mức thấp. Rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỉ lệ thuận với số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập và quan hệ tỉ lệ nghịch với rủi ro phát hiện. Thí dụ, nếu KTV kết luận là hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động có hiệu quả, rủi ro phát hiện có thể tăng lên và do đó rủi ro kiểm soát giảm xuống. Rủi ro kiểm soát giảm xuống thì số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập sẽ giảm xuống. Kiểm toán viên có thể tăng mức rủi ro phát hiện (tức là giảm rủi ro kiểm soát) khi xét thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động tốt, bởi vì khi hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động tốt thì sẽ làm giảm các sai sót trong BCTC. Do những hạn chế cố hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ nên rủi ro kiểm soát luôn xuất hiện và khó tránh khỏi. Rủi ro phát hiện (Detection Risk) – DR là khả năng mà các thủ tục kiểm toán không phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Văn bản chỉ đạo Kiểm toán Quốc tế Số 25 cho rằng: “Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm toán không phát hiện ra các sai sót hiện có trong các số dư tài khoản, các loại nghiệp vụ. Các sai sót này có thể là các sai sót nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót trong số dư các nghiệp vụ khác. Mức rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp với những phương pháp của KTV”. Chuẩn mực Kiểm toán Số 400 (VSA 400) cho rằng: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ và từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán không phát hiện được”. Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm quản lý và kiểm soát rủi ro phát Nguyễn Thị Thanh Hương Page 9 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng hiện. Rủi ro phát hiện phụ thuộc vào: mức độ thích hợp của các bước kiểm toán; tính hợp lí của việc thực hiện quy trình kiểm toán cho mỗi phần hành; mối quan hệ giữa bằng chứng kiểm toán với nhận thức hoặc nhận định và đưa ra kết luận về phần hành đó cũng như về báo cáo tài chính; khả năng phát hiện ra sai sót do có sự thông đồng nhất trí bên trong doanh nghiệp để thực hiện không đúng các chế độ chính sách do Ban giám đốc đề ra. Nói cách khác, mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ mật thiết với những phương pháp kiểm toán và các bằng chứng mà KTV thu thập được. Trong thực tế rủi ro phát hiện vẫn có thể xuất hiện cho dù KTV đã thực hiện kiểm tra 100% số dư các tài khoản và các nghiệp vụ phát sinh. Nguyên nhân chính xảy ra tình trạng này là do các phương pháp kiểm toán mà KTV áp dụng là không phù hợp, hoặc áp dụng sai phương pháp kiểm toán đã chọn, hoặc khi đã có kết quả thực tế của cuộc kiểm toán thì KTV lại đưa ra các đánh giá và nhận xét sai lầm. Các nguyên nhân xảy ra rủi ro phát hiện có thể khái quát như sau: Thứ nhất: Kiểm toán viên áp dụng các bước kiểm toán không phù hợp. Điều này xảy ra với các KTV mới vào nghề, thiếu kinh nghiệm hoặc quá trình lập kế hoạch kiểm toán không được thực hiện một cách đúng đắn, khiến cho việc thực hiện các quy trình kiểm toán đối với mỗi phần hành trở nên không hợp lí. Thứ hai: Kiểm toán viên đã tìm được bằng chứng, nhưng không tìm được nguyên nhân gây sai sót dẫn đến kết luận sai về bản chất của khoản mục hoặc nghiệp vụ đó cũng như BCTC. Thứ ba: Các BCTC bản thân cũng chứa đựng các sai sót, nhưng sự sai sót đó là do bên trong doanh nghiệp đó có sự thông đồng để làm sai các chính sách và chế độ của Ban quản trị đề ra nên KTV rất khó phát hiện ra gian lận và sai sót. Như vậy thông qua các định nghĩa trên có thể rút ra: rủi ro phát hiện là mức độ mà KTV sẵn sàng chấp nhận do không thể tìm ra các sai sót nghiêm trọng trong các BCTC bằng các phương pháp kiểm toán, với giả định rằng hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có hoạt động nhưng không thể phát hiện và sữa chữa các sai sót. Thông qua mức rủi ro phát hiện xác định kiểm toán viên có thể xác định số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Khi rủi ro phát hiện là thấp, KTV không chấp nhận những rủi ro của những bằng chứng không phát hiện ra sai sót và cần phải thu thập một số lượng bằng chứng đáng kể. Khi KTV chấp nhận rủi ro phát hiện tăng lên thì số lượng bằng chứng kiểm toán sẽ giảm đi. 1.1.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro - Mô hình rủi ro kiểm toán Trong kiểm toán thường đề cập đến ba loại rủi ro chính là rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Ba rủi ro này là những bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán và giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là hai loại rủi ro tồn tại độc lập khách quan, KTV không tạo ra và cũng không thể kiểm soát được chúng. KTV chỉ có thể thông qua thu thập bằng chứng kiểm toán tại đơn vị khách hàng và bằng kinh nghiệm của mình để đánh giá mức độ của chúng. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mức độ lớn hay nhỏ phụ thuộc rất lớn vào ngành Nguyễn Thị Thanh Hương Page 10 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng nghề kinh doanh cũng như môi trường pháp lí mà khách hàng đang hoạt động. Không những thế, hai loại rủi ro này còn phụ thuộc vào bản chất của các số dư tài khoản và nghiệp vụ kinh tế đặc thù tương ứng với ngành nghề kinh doanh của khách hàng. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỉ lệ nghịch nên trong các cuộc kiểm toán, KTV thường kết hợp cùng một lúc đánh giá mức độ của hai loại rủi ro này. Trái với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện là loại rủi ro mà KTV phải sử dụng những phương pháp kiểm toán phù hợp để phát hiện, kiểm soát và quản lí. Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán RỦI RO KIỂM TOÁN Rủi ro tiềm tàng Khả năng có sai sót trong BCTC Rủi ro kiểm soát Sai sót không được KSNB phát hiện Rủi ro phát hiện Rủicác ro kiểm Sai sótrủi không được KTV phỏt hiện Quan hệ giữa loại toỏn rủi ro trên có thể phản ánh qua hai mô hình ro sau: AR = IR * CR * DR (1) DR = AR/(IR*CR) (2) Trong đó: AR: Mức rủi ro kiểm toán mong muốn IR: Mức rủi ro tiềm tàng do KTV đánh giá CR: Mức rủi ro kiểm soát do KTV đánh giá DR: Mức rủi ro phát hiện Nguyễn Thị Thanh Hương Page 11 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng Mô hình (1) biểu thị mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán. Mô hình này được kiểm toán viên sử dụng để điều chỉnh mức rủi ro phát hiện để có mức rủi ro kiểm toán mong muốn. Hay nói cách khác, mô hình (1) dùng để đánh giá tính hợp lí của kế hoạch kiểm toán đã được lập. Thí dụ: KTV muốn thực hiện một cuộc kiểm toán cụ thể và muốn rủi ro kiểm toán đạt được ở mức tương đối thấp (ví dụ là 0.05 có nghĩa là bình quân có khoảng 5% các quyết định kiểm toán là không chính xác). Tất cả các rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được đánh giá dựa trên kinh nghiệm và nhận định nghề nghiệp của kiểm toán viên và có minh chứng cụ thể. Giả sử trong trường hợp này, KTV cho rằng rủi ro tiềm tàng đối với đối tượng kiểm toán là rất lớn (KTV đánh giá mức rủi ro tiềm tàng là 0.9). Qua nghiên cứu, KTV cho rằng hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động không hiệu quả lắm nên KTV đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát ở mức 0.7. Nếu như, KTV muốn đạt được mức rủi ro kiểm toán ở mức thấp như mong muốn (AR= 0.05) thì các thủ tục kiểm toán cần phải được KTV thiết lập hợp lí sao cho rủi ro phát hiện không được vượt quá 0.08. Theo mô hình rủi ro (1), với những dự kiến đã nêu ta có kết quả như sau: AR = IR * CR * DR 0.05 = 0.9 * 0.7 * DR  DR = 0.08 Nếu KTV nhận thấy mức rủi ro phát hiện là cao thì KTV có thể điều chỉnh mức rủi ro kiểm toán mong muốn để giảm mức rủi ro phát hiện xuống, nhưng rủi ro kiểm toán phải ở mức thấp cho phép. Trên thực tế, rủi ro kiểm toán mong muốn thường được xác định từ khi lập kế hoạch kiểm toán. Mức rủi ro kiểm toán thường khó thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán. Mô hình (2) DR là đối tượng quan tâm của KTV. Thông qua việc xác định DR, KTV sẽ xác định các thủ tục kiểm toán và số lượng bằng chứng cần thu thập. Mặc dù đây là mô hình có tính chất giản đơn nhưng có ý nghĩa rất lớn cho KTV trong lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán sao cho hợp lí và đủ để duy trì rủi ro phát hiện ở mức thấp cho phép. Cũng với thí dụ trên, nếu IR và CR được giữ nguyên và mức rủi ro kiểm toán mong muốn được kiểm toán viên xác định ở mức 0.03 thì mức rủi ro phát hiện sẽ là: DR = 0.03 / (0.9*0.7) = 0.063 DR= 0.063 có nghĩa là để đạt được mức rủi ro kiểm toán mong muốn là 0.03 thì kiểm toán viên phải xây dựng thủ tục kiểm toán thích hợp và thu thập số lượng bằng chứng kiểm toán hợp lí để mức rủi ro phát hiện không vượt quá là 0,063 Hiện nay tại các Công ty kiểm toán, mức rủi ro kiểm toán mong muốn luôn được xác định trước khi tiến hành kiểm toán theo mô hình sau: DR= AR / (CR*IR) Trong đó: AR: Mức rủi ro kiểm toán mong muốn Nguyễn Thị Thanh Hương Page 12 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng Mức rủi ro kiểm toán mong muốn phụ thuộc vào: mức độ quan tâm của người sử dụng bên ngoài đến báo cáo tài chính và khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn tài chính sau khi báo cáo kiểm toán được công bố. Như vậy, qua các mô hình rủi ro KTV có thể xác định mức rủi ro phát hiện và qua đó KTV sẽ xác định số lượng bằng chứng cần thiết để mức rủi ro phát hiện không duy trì ở mức thấp cho phép. Tuy nhiên, khi sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán, KTV cần chú ý một số điểm sau: Thứ nhất, KTV không thể giả sử rằng rủi ro tiềm tàng là bằng 0 để không cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán. AR = IR ( = 0) *CR*DR = 0 Thứ hai, KTV không thể đặt niềm tin tuyệt đối vào hệ thống kiểm soát nội bộ để không cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán: AR = IR*CR (=0)*DR =0 Thứ ba, KTV không thể được xem là đã thận trọng nghề nghiệp thích đáng nếu như rủi ro của việc không phát hiện các sai phạm trọng yếu trong đối tượng kiểm toán ở mức quá cao Mối quan hệ giữa các loại rủi ro còn được minh họa bằng bảng sau: Bảng 1.1: Mối quan hệ giữa các loại rủi ro Rủi ro phát hiện được KTV Đánh giá của kiểm toán viên về tính toán rủi ro kiểm soát Cao Trung bình Thấp Đánh giá của Cao Thấp nhất Thấp Trung bình kiểm toán viên về Trung bình Thấp Trung bình Cao rủi ro tiềm tàng Thấp Trung bình Cao Cao nhất Trong bảng trên: Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được chia thành ba mức: thấp, trung bình và cao. Rủi ro phát hiện được chia ra làm năm mức: thấp nhất, thấp, trung bình, cao và cao nhất. Tương ứng với mỗi mức độ đánh giá về rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, thì KTV sẽ đánh giá được rủi ro phát hiện sao cho mức rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức thấp nhất. Nguyễn Thị Thanh Hương Page 13 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng Từ các mô hình rủi ro, các KTV có thể xác định được mối quan hệ giữa các loại rủi ro. Nhưng việc sử dụng mô hình kiểm toán cũng gặp nhiều hạn chế: Thứ nhất: Việc đánh giá của KTV về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát vẫn mang tính chủ quan. Nếu KTV đánh giá quá trình kiểm soát nội bộ và các rủi ro thấp hơn so với thực tế, thì khi đó rủi ro phát hiện sẽ cao ở mức thích hợp và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập sẽ giảm. Để giải quyết vấn đề này KTV thường sử dụng các mức như thấp, trung bình và cao. Bảng 1.2 cho ta biết cách KTV sử dụng đánh giá ban đầu để quyết định số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Bảng 1.2: Mối quan hệ của rủi ro với bằng chứng phải thu thập Trường hợp Rủi ro kiểm Rủi ro tiềm Rủi ro kiểm Rủi ro phát SLBằng chứng toán (AR) tàng (IR) soát (CR) hiện (DR) cần thu thập 1 Cao Thấp Thấp Cao Thấp 2 Thấp Thấp Thấp Trung bình Trung bình 3 Thấp Cao Cao Thấp Cao 4 Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình 5 Cao Thấp Trung bình Trung bình Trung bình Thứ hai: Mô hình rủi ro kiểm toán vẫn chỉ mang tính kế hoạch. Một khi các loại rủi ro đã được đánh giá theo kế hoạch thì mức độ của chúng sẽ ít bị thay thế dựa trên các bằng chứng được thu thập khi tiến hành kiểm toán. Giả sử KTV lập kế hoạch kiểm toán dựa trên mô hình rủi ro sau: AR =0.05 IR = 0.75  DR = 0.05 / (0.5 * 0.3) = 0.22 CR = 0.3 Khi khảo sát quá trình kiểm toán nội bộ, KTV phát hiện hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động không hiệu quả như KTV đã đánh giá ban đầu. Như vậy KTV sẽ phải thay đổi mức độ của rủi ro kiểm soát dựa trên bằng chứng kiểm toán và khi đó phải tính toán lại mức độ rủi ro phát hiện. Trong lập kế hoạch kiểm toán, cần sử dụng mô hình kiểm toán để đánh giá các loại rủi ro từ đó thiết kế các thử nghiệm cơ bản thích hợp để rủi ro kiểm toán nằm trong giới hạn được phép. 1.1.4 Mối quan hệ giữa rủi ro và trọng yếu: Nguyễn Thị Thanh Hương Page 14 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VAS) số 320 mục 2 có ghi: “Khi tiến hành một cuộc kiểm toán, kiểm toán viên phải quan tâm đến tính trọng yếu của thông tin và mối quan hệ của nó với rủi ro kiểm toán”. Do đó để biết được trọng yếu có quan hệ với rủi ro như thế nào, ta cần biết trọng yếu và ảnh hưởng của trọng yếu với rủi ro. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VAS) số 400 đoạn 9 : Trọng yếu: Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin hoặc một số liệu trong báo cáo tài chính. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hay thông tin đó thiếu chính xác thì sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét cả trên tiêu chuẩn định lượng và định tính. Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải xem xét đến các nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính. Đánh giá của kiểm toán viên về mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản và các loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp kiểm toán viên xác định được các khoản mục cần được kiểm tra và quyết định nên áp dụng thủ tục chọn mẫu hay thủ tục phân tích. Việc đánh giá mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản và các loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp kiểm toán viên lựa chọn được những thủ tục kiểm toán thích hợp và việc kết hợp các thủ tục kiểm toán thích hợp đó với nhau sẽ làm giảm được rủi ro kiểm toán tới mức độ có thể chấp nhận được. Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau: mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Kiểm toán viên phải cân nhắc đến mối quan hệ này khi xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán một cách thích hợp, như: khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu kiểm toán viên xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Trường hợp này kiểm toán viên có thể: Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc thực hiện thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát; hoặc giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến. Trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong đánh giá bằng chứng kiểm toán Kết quả đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán của kiểm toán viên ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể khác với kết quả đánh giá ở các thời điểm khác nhau trong quá trình kiểm toán. Sự khác nhau này là do sự thay đổi tình hình thực tế hoặc sự thay đổi về sự hiểu biết của kiểm toán viên về đơn vị được kiểm toán dựa trên kết quả kiểm toán đã thu thập được, như: trường hợp lập kế hoạch kiểm toán trước khi kết thúc năm tài chính, kiểm toán viên đã đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán Nguyễn Thị Thanh Hương Page 15 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng căn cứ trên dự tính trước kết quả hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu tình hình tài chính thực tế và kết quả hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể so với dự tính, thì việc đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán sẽ có thay đổi. Hơn nữa, trong khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên thường ấn định mức trọng yếu có thể chấp nhận được thấp hơn so với mức sử dụng để đánh giá kết quả kiểm toán nhằm tăng khả năng phát hiện sai sót. Như vậy, trọng yếu và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nếu mức trọng yếu có thể chấp nhận được tăng lên thì rủi ro kiểm toán có thể giảm xuống, vì khi giá trị sai sót có thể bỏ qua tăng lên thì khả năng có thể xảy ra sai sót có thể giảm xuống và ngược lại, nếu giảm mức trọng yếu có thể chấp nhận được xuống, rủi ro trong kiểm toán tăng lên. Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung, phạm vi, thời gian các thủ tục kiểm toán. Chẳng hạn, sau khi lập xong chương trình kiểm toán chi tiết, kiểm toán viên xác định rằng mức trọng yếu phải thấp hơn, do đó rủi ro trong kiểm toán phải tăng lên, để bù lại, kiểm toán viên phải mở rộng phạm vi kiểm toán, thực hiện các phương án kiểm toán hữu hiệu, hiệu quả hơn để giảm mức rủi ro phát hiện xuống mức có thể chấp nhận được. Việc nắm vững khái niệm rủi ro và trọng yếu có ý nghĩa quan trọng trong việc lập kế hoạch kiểm toán. Từ những vấn đề nêu trên, có thể tóm tắt mối quan hệ giữa kiểm toán và rủi ro theo bảng sau: Nguyễn Thị Thanh Hương Page 16 Luận văn tốt nghiệp GVDH: Th.Sĩ.Phan Văn Dũng Bảng số 1.3 : Quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro Tính trọng yếu Kết hợp với việc xem xét bản chất các khoản Xác định tính trọng yếu ở mục để lựa chọn khoản mục kiểm tra làm cơ sở mức độ toàn bộ BCTC để phân phối mức trọng yếu cho từng khoản mục. -Xác định đối tượng chi tiết của khoản mục cần Phân bổ mức trọng yếu cho kiểm tra từng khoản mục trên BCTC -Xác định thủ tục kiểm toán thích hợp -Xây dựng kế hoạch chiến lược về kiểm toán Rủi ro trong kiểm toán 1.2 Xem xét rủi ro trong kiểm -Tổ chức nhân sự kiểm toán và xác định thời toán ở mức độ toàn bộ gian, chi phí kiểm toán làm cơ sở đánh giá rủi ro BCTC trong kiểm toán và tính trọng yếu trong từng khoản mục. Từ mức độ rủi ro trong kiểm toán chấp nhận Xem xét rủi ro trong kiểm được cho từng khoản mục với kết quả đánh giá toán trên từng khoản mục rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát làm cơ sở trên BCTC thiết lập các thủ tục kiểm toán. Đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán 1.2.1 Đánh giá chấp nhận hợp đồng kiểm toán báo cáo tài chính Trước khi chấp nhận cung cấp dịch vụ cho một khách hàng các công ty kiểm toán đều phải tiến hành điều tra về khách hàng và đánh giá khả năng cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó công ty kiểm toán còn đánh giá vị trí tương lai của công ty khách hàng trong giới kinh doanh, trạng thái ổn định về mặt tài chính và các mối quan hệ của công ty khách hàng với công ty kiểm toán trước đây (nếu có). KTV có thể liên lạc với KTV tiền nhiệm để thu thập thông tin về khách hàng. Mục đích của việc liên lạc là giúp cho KTV có cơ sở chắc chắn để đưa ra quyết định có chấp nhận hợp đồng kiểm toán hay không. KTV phải là người chủ động liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm và phải được sự cho phép của khách hàng. KTV phải xem xét một cách nghiêm túc khả năng thỏa đáng của việc chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Trong trường hợp khách hàng không đồng ý cho KTV liên lạc với KTV tiền nhiệm hoặc KTV tiền nhiệm không đáp ứng được nhu cầu của KTV thì KTV phải thu Nguyễn Thị Thanh Hương Page 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất