Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán ở các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ cô...

Tài liệu Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán ở các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập thuộc bộ khoa học và công nghệ

.PDF
202
2321
93

Mô tả:

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Mọi đơn vị hoạt động vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận đều quan tâm đến hiệu quả thể hiện ở kết quả đầu ra là lớn nhất và chi phí đầu vào là thấp nhất. Để đạt được mục đích đó thì các nhà quản lý phải đặc biệt quan tâm đến “quản lý kinh tế tài chính”. Trên thực tế, có rất nhiều công cụ khác nhau để quản lý tài chính như: Hệ thống định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật, các chính sách tài chính, quy chế, quy định của đơn vị, hệ thống thông tin kế toán... Trong các công cụ trên thì thông tin kế toán đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống thông tin cho việc ra quyết định của nhà quản lý các cấp. Mọi hoạt động kinh tế tài chính cần được phản ánh bằng các thông tin của kế toán thông qua việc thu thập, phân loại, tính toán, ghi chép, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để cung cấp thông tin kinh tế tài chính của một đơn vị cho các đối tượng sử dụng. Đối với cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL), kế toán là phương tiện phản ánh thường xuyên, kịp thời, đầy đủ về tình hình tài sản và kết quả các hoạt động của đơn vị. Đối với Nhà nước kế toán là công cụ kiểm tra, kiểm soát quá trình lập và chấp hành dự toán thu chi. Như vậy, kế toán với hai chức năng là thông tin và kiểm tra, kiểm soát đã khẳng định được vị trí và vai trò quan trọng của mình trong hoạt động quản lý. Tuy nhiên vai trò quan trọng của kế toán chỉ phát huy tác dụng khi công tác kế toán được tổ chức khoa học, hợp lý. Với chức năng cung cấp thông tin và kiểm tra các hoạt động kinh tế - tài chính nên công tác kế toán ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng của công tác quản lý ở một tổ chức. Thêm vào đó, nó còn ảnh hưởng đến việc đáp ứng các yêu cầu quản lý khác nhau của các đối tượng có quyền lợi trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt động của tổ chức, trong đó có cơ quan chức năng của Nhà nước. Hiện nay Việt Nam đã có chế độ kế toán (CĐKT) áp dụng cho lĩnh vực công và các quy định cụ thể về kế toán áp dụng cho các đơn vị HCSN. Trên thực tế, thông tin kế toán đã đóng góp vai trò không nhỏ đối với công tác quản lý tài chính tại các đơn vị này. Tuy nhiên, qua thực tiễn vận hành cùng với sự thay đổi trong cơ chế quản lý tài chính theo hướng hội nhập với nền tài chính và kế toán công quốc tế và đặc biệt là xu hướng cải cách tài chính công đã và đang thực hiện đã chứng tỏ thông tin kế toán, sản phẩm của tổ chức công tác kế toán hiện 1 chưa đáp ứng được các đòi hỏi ngày càng cao xét trên cả hai góc độ hiệu quả công việc kế toán và hiệu quả quản lý tài chính. Mặt khác, sau kết luận 63 – KL/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 7 khóa XI ngày 27/5/2013 cho phép xây dựng giá dịch vụ sự nghiệp công theo 3 mức: (i) Mức giá tính đủ tiền lương; (ii) Mức giá tính đủ tiền lương và chi phí quản lý và; (iii) Mức giá tính đủ lương, chi phí quản lý và khấu hao tài sản cố định; thì vấn đề về tổ chức công tác kế toán tại đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các đơn vị SNCL trong lĩnh vực khoa học công nghệ nói riêng lại càng cần thiết. Trong những năm qua, lĩnh vực khoa học và công nghệ luôn được Đảng, Nhà nước và các địa phương quan tâm, từ việc ban hành Nghị quyết, các văn bản Luật, xây dựng định hướng chiến lược, xây dựng nguồn nhân lực, tăng kinh phí đầu tư, với mục tiêu nhằm thúc đẩy phát triển sự nghiệp khoa học và công nghệ tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế của đất nước. Thực hiện Quyết định số 1244/QĐ-TTg ngày 25/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu giai đoạn 2011 – 2020, trong đó đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ, cơ bản, toàn diện và đồng bộ cơ chế quản lý và hoạt động khoa học và công nghệ. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ KH và CN đã tiến hành xây dựng Đề án “Tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ” cho giai đoạn 2020. Một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần đổi mới là phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ. Giai đoạn 2011 – 2015, hoạt động khoa học và công nghệ nước ta đã có nhiều đổi mới và góp những thành tựu quan trọng trong tất cả những lĩnh vực kinh tế quốc dân, phục vụ phát triển kinh tế xã hội và công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước. Nhìn chung, kết quả triển khai Đề án đổi mới cơ chế quản lý KH - CN đã có tác động tích cực và hiệu quả trong việc thúc đẩy hoạt động KH và CN, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm qua. Hệ thống pháp luật về KH - CN cơ bản được hoàn thiện, tạo môi trường thuận lợi và đồng bộ cho hoạt động sáng tạo đổi mới; năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được nâng cao và có bước tiến đáng kể; bộ máy quản lý KH-CN được kiện toàn; cơ chế tài chính và cơ chế quản lý nhiệm vụ KH-CN trọng điểm từng bước được cải thiện; đã triển khai mạnh mẽ việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các tổ chức KH và CN công lập. Trước tình hình đó vấn đề đặt ra là các cơ chế chính sách quản lý kinh tế đi cùng 2 áp dụng cho các ĐVSNKH-CNCL đã phù hợp hay chưa. Một trong những nguồn thông tin quan trọng để các nhà quản lý làm căn cứ bổ sung, điều chỉnh chính sách, không ngừng đổi mới tạo ra sự bình đẳng nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu thu hút nhân tài là lấy từ thông tin kế toán. Kế toán là công cụ quan trọng để quản lý vốn, tài sản và phản ánh đầy đủ hoạt động thu chi, hoạt động dịch vụ của các ĐVSNKH-CNCL. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ” làm đề tài nghiên cứu cho luận án Tiến sĩ kinh tế của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của Luận án - Về lý luận: + Nghiên cứu, hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức công tác kế toán trong đơn vị sự nghiệp công lập trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. + Xây dựng những quan điểm, định hướng đổi mới hệ thống tổ chức kế toán các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và những quan điểm, định hướng đổi mới tổ chức công tác kế toán trong các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN. - Về thực tiễn: + Nghiên cứu, đánh giá thực trạng tổ chức công tác kế toán trong các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN. Chỉ ra những ưu điểm và hạn chế, làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện. + Đề xuất những giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy, nội dung và phương pháp kế toán tại các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực trạng về tổ chức công tác kế toán trong các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN. - Phạm vi nghiên cứu: Luận án chỉ đề cập đến việc hoàn thiện tổ chức công tác kế toán, nội dung, phương pháp kế toán bao gồm tổ chức công tác kế toán tài chính, tổ chức công tác kế toán quản trị, tổ chức kiểm tra kế toán và tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin trong các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN. Riêng về tổ chức công tác kế toán quản trị chỉ dừng lại ở tổ chức thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tổ chức phân loại chi phí, xác định chi phí, tổ chức phân tích thông tin chi phí, nhiệm vụ cho ra quyết định. Mặt khác những đơn vị, tổ 3 chức khoa học công nghệ mang tính chất vừa là cơ quan quản lý Nhà nước, vừa là đơn vị sự nghiệp công lập thì Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về hoạt động sự nghiệp công lập của các đơn vị này. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Đề tài: “Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp khoa học - công nghệ công lập thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ” phù hợp với điều kiện đổi mới hệ thống các cơ chế, chính sách của ngành KH và CN ở nước ta. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ được cơ quan chức năng của Bộ KH và CN sử dụng vào việc nghiên cứu đề xuất các cơ chế quản lý tài chính mới cho các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ công lập thuộc Bộ KH và CN, tuyên truyền rộng rãi cho các đơn vị có sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ. Đồng thời qua đó cũng là một bước làm cho cán bộ quản lý tài chính của ngành KH và CN, có điều kiện đi sâu, đi sát cơ sở nắm bắt được tình hình thực tiễn trong công tác quản lý tài chính, từ đó tham mưu những cơ chế, chính sách mới cho ngành KH và CN. Kết quả của nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa trong công tác quản lý tài chính, quản lý khoa học công nghệ của các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN. Những nghiên cứu của luận án còn là cơ sở, tiền đề cho các hoạt động nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý tài chính đối với việc sử dụng kinh phí của ngành KH và CN. Cuối cùng kết quả nghiên cứu của luận án là căn cứ khoa học và thực tiễn để hoàn thiện tổ chức công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán và phương pháp kế toán trong các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để có được các đánh giá thực tiễn tác giả tập trung khảo sát tại các đơn vị sự nghiệp công có thực hiện hoạt động về khoa học công nghệ theo quy mô mẫu gồm 31 đơn vị. Với quy mô mẫu khảo sát như trên tác giả thu thập thông tin về thực trạng tổ chức công tác kế toán tại các đơn vị khảo sát chủ yếu trên cơ sở 3 phương pháp chính là: Phát triển điều tra, thực hiện phỏng vấn sâu nhân viên kế toán, phụ trách kế toán và tham gia tìm hiểu thực tế công tác kế toán tại đơn vị mà qua phỏng vấn sâu tác giả thấy là điển hình. 4 Số liệu sơ cấp thu được từ điều tra thông qua bảng hỏi và phỏng vấn sâu do tác giả thực hiện. Số liệu thứ cấp chủ yếu từ các báo cáo của Vụ tài chính; các BCTC các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN và từ các kết quả nghiên cứu đã được công bố của Tác giả trong nước và nước ngoài. Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, nghiên cứu lý luận kết hợp với khảo sát thực tế để phân tích, so sánh và tổng hợp thông tin. Đề tài sử dụng linh hoạt phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng và các phương pháp của thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích... để xử lý nguồn thông tin thu được làm cơ sở đưa ra các nhận định, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kế toán. 6. Tổng quan những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Như đã trình bày trong các phần trước, tài chính trong ĐVSN mang đặc điểm của tài chính công và vì vậy, kế toán trong ĐVSN cũng mang đặc điểm của kế toán công. Do đó, việc nghiên cứu về kế toán công là cơ sở để nghiên cứu kế toán trong các ĐVSN; hay nói cách khác nghiên cứu kế toán công cũng là nghiên cứu kế toán trong các ĐVSN bởi kế toán trong các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận của kế toán công. Trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực kế toán công nói chung và kế toán trong các ĐVSN nói riêng. Dưới đây là tổng quan về một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. 6.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài Trong các nghiên cứu trước đây về tổ chức hạch toán kế toán các tác giả chủ yếu đề cập đến nguyên lý và nguyên tắc chung về tổ chức hạch toán kế toán và đặc điểm tổ chức hạch toán kế toán trong một số loại hình doanh nghiệp đặc thù. Riêng lĩnh vực tổ chức hạch toán kế toán trong các đơn vị HCSN, trên thế giới chỉ có một số ít tác giả nghiên cứu. Ba trong số các tác giả đó là Earl R.Wilson, Leon E.Hay, Susan C.Kattelus đã cùng tham gia viết cuốn sách nổi tiếng với tiêu đề là “Kế toán Nhà nước và các tổ chức phi lợi nhuận” (Accounting for Governmental and Nonprofit Entities). Đây có thể coi là một công trình nghiên cứu khá công phu về các khía cạnh hoạt động khác nhau trong các đơn vị HCSN nói chung. Các nội dung nghiên cứu trong cuốn sách bao gồm: Các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung, hướng dẫn cách ghi nhận các sự kiện, cách thức lập các báo cáo tài chính cuối kỳ. Nghiên cứu cũng đi sâu vào phân tích tổ chức hạch toán kế toán của một số lĩnh vực đặc thù như giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng... 5 Gần đây, trên thế giới có công trình nghiên cứu của các chuyên gia về kế toán lĩnh vực công như: GS.TS. Jess W.Hughes - Trường đại học Old Dominition, Paul sutcliffe - Chuyên gia tư vấn cao cấp thuộc liên đoàn kế toán quốc tế, Gillian Fawcett – Giám đốc lĩnh vực công ACCA toàn cầu, Reza Ali – Giám đốc phát triển kinh doanh ACCA khu vực Asean và Úc... trong các công trình nghiên cứu về thực trạng áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế, tình hình xây dựng và áp dụng trong các quốc gia phát triển và đang phát triển trên thế giới như Anh, Ấn Độ, Úc, Mỹ... dựa trên 2 cơ sở kế toán là cơ sở kế toán dồn tích và cơ sở kế toán tiền mặt được giới thiệu trong hội thảo về thực trạng áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế của các nước trên thế giới do ngân hàng thế giới phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức tại Việt Nam từ ngày 17/4/2007 đến 24/4/2007. Các công trình nghiên cứu này có điểm chung là nghiên cứu các mô hình áp dụng và xây dựng chuẩn mực kế toán lĩnh vực công, trên cơ sở đó đã làm rõ nội dung tổ chức công tác kế toán từ khâu chứng từ cho đến lập các BCTC trên cơ sở dồn tích và cơ sở kế toán tiền mặt cũng như tác dụng của mô hình này trong việc công khai và minh bạch hệ thống tài chính của Chính phủ, đặc biệt các nghiên cứu này cũng chỉ ra các ích lợi từ việc vận dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế và cơ sở kế toán dồn tích. Hoặc công trình nghiên cứu của ba tác giả Bernardino Benito, Vicente Montesinos, Francisco Bastida về tài chính tư nhân trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại Tây Ban Nha đăng trên Critical Perspectives on Accounting 19 (2008) trang 963 – 986, nghiên cứu đề cập đến nhân tố thứ ba ảnh hưởng đến tài chính khu vực công và nhấn mạnh đến những đóng góp của nhân tố này cũng như khoản thanh toán của Chính phủ nói chung đối với bên thứ ba. Về cơ bản sợi dây liên hệ giữa tổ chức hạch toán kế toán và hiệu quả quản lý tài chính chỉ được các tác giả tập trung vào việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của thông tin kế toán đến tính minh bạch trong chi tiêu ngân sách của Chính phủ nói chung. Trong bài báo “Accruals accounting in the public sector: A road not always taken” (tạm dịch là “Kế toán dồn tích trong khu vực công: Không phải luôn được sử dụng”), các tác giả “http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1044500510000880” và Ciaran Connolly đã đề cập đến một vấn đề trong tổ chức công tác kế toán, đó là hai nguyên tắc kế toán sử dụng trong khu vực công là kế toán dồn tích và kế toán tiền mặt, trong đó nghiên cứu tình hình thực tế của việc lựa chọn hai nguyên tắc này trong kế toán công ở Anh và Cộng hòa Ireland. Ban đầu, nhiều 6 người tin tưởng rằng thực hiện kế toán dồn tích sẽ là cơ sở cung cấp thông tin thích hợp hơn cho việc đưa ra các quyết định trong hoạt ở khu vực công. Tuy nhiên nghiên cứu này cho thấy trong khi việc sử dụng kế toán dồn tích mang lại hiệu quả tích cực ở Anh thì ở Cộng hòa Ireland, nguyên tắc này không được lựa chọn bởi sự không thích hợp của nó, mặc dù tình hình thực tế ở Ireland được cho rằng tương tự như ở Anh. Nghiên cứu này đặt ra cho các nhà quản lý kế toán công câu hỏi về việc lựa chọn nguyên tắc kế toán sử dụng trong tổ chức của mình một cách phù hợp. Nguyên nhân dẫn tới sự lựa chọn nguyên tắc kế toán sử dụng trong khu vực công của hai quốc tế trên cũng được đề cập đến trong nghiên cứu này. Nghiên cứu của các tác giả Nur Barizah Abu Bakar với tiêu đề “Public Sector Accounting Research in Malaysia: Identifying Gaps and Opportunities” (tạm dịch là: Nghiên cứu kế toán công ở Malaysia: Xác định khoảng trống và cơ hội) đã được tiến hành để xác định khoảng trống tồn tại trong nghiên cứu kế toán công ở Malaysia. Hai tác giả này cho rằng các nghiên cứu về kế toán trong lĩnh vực công mặc dù mang ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các quốc gia nhưng hầu như nó chỉ được thực hiện chủ yếu ở các nước có nền kinh tế phát triển cao như Anh, Mỹ, Úc và các nước Châu Âu. Những nghiên cứu về các quốc gia khác trên thế giới chỉ đại diện cho một tỷ lệ nhỏ các nghiên cứu về kế toán trong lĩnh vực công đã tổng hợp và giúp đưa ra định hướng để xác định việc nghiên cứu về kế toán công trong bối cảnh các nước đang phát triển. Một nghiên cứu khác trong lĩnh vực tổ chức công tác kế toán công là nghiên cứu của Lasse Oulasvirta, trường đại học Tampere ở Phần Lan với tiêu đề “The ruluctance of a developed country to choose International Puplic Sector Accounting Standards of the IFAC. A critical case study” (tạm dịch là: Sự thờ ơ của các nước phát triển trong việc lựa chọn áp dụng tiêu chuẩn kế toán công quốc tế của Liên đoàn kế toán Quốc tế - Nghiên cứu trường hợp điều chỉnh). Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra nguyên nhân một nước phát triển điển hình như Phần Lan từ chối áp dụng tiêu chuẩn kế toán công quốc tế trong hoạt động tổ chức công tác kế toán của mình. Bài viết cũng đề cập đến tình hình áp dụng tiêu chuẩn kế toán công quốc tế trong hoạt động tổ chức công tác kế toán ở các nước Châu Âu và đặc biệt ở khu vực Bắc Âu. Qua nghiên cứu này, vấn đề được đặt ra đối với công tác tổ chức kế toán công là ứng dụng một cách linh hoạt, hợp lý các tiêu chuẩn kế toán công quốc tế đối với từng quốc gia. 7 Nghiên cứu về kế toán công của bốn tác giả Ehsan Rayegan, Mehdi Parveizi, Kamran Nazari và Mostafa Emami với tiêu đề: “Kế toán công: Đánh giá về lý thuyết, mục tiêu và các tiêu chuẩn” (“Government accounting: An Assessment of Theory, Purposes and Standards”) đã đưa ra sự tổng hợp các vấn đề trong thực hiện kế toán của các đơn vị công lập, trong đó bao gồm công tác tổ chức kế toán dựa trên hai nguyên tắc là kế toán tiền mặt và kế toán dồn tích. Bài viết cũng đề cập đến vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với công tác kế toán; chương trình đổi mới công tác quản lý tài chính công và các vấn đề liên quan đến NSNN. Đề xuất một số nguyên tắc kế toán mở rộng để thúc đẩy trách nhiệm trong việc giải trình thực hiện công tác kế toán liên quan đến nghĩa vụ kinh tế và chính trị cũng được đưa ra trong nghiên cứu này. Trên đây, luận án đã trình bày một số nghiên cứu của các tác giả nước ngoài liên quan đến tổ chức công tác kế toán công. Các nghiên cứu này rất đa dạng, phong phú. Những vấn đề nghiên cứu thường xoay quanh hiệu quả thực hiện các nguyên tắc kế toán, việc áp dụng CMKT trong thực hiện công tác kế toán hay nêu ra khung lý thuyết trong tổ chức công tác kế toán,... Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu này được thực hiện ở những nước có nền kinh tế phát triển cao và là nghiên cứu chung về lĩnh vực kế toán công. Chính vì vậy, khoảng trống nghiên cứu cho các trường hợp cụ thể và vận dụng các nguyên tắc trong tổ chức công tác kế toán là rất lớn, đặc biệt ở những nước đang phát triển và cũng chưa nghiên cứu cụ thể cho tổ chức công tác kế toán ở các ĐVSNCL thuộc lĩnh vực KH và CN. 6.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam Ở Việt Nam, cho đến nay chỉ có cơ chế chính sách tài chính và chế độ kế toán áp dụng cho khu vực công, chưa có chuẩn mực kế toán công áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp, mặt khác theo đánh giá của các chuyên gia ngân hàng thế giới, quỹ tiền tệ quốc tế và của Bộ Tài chính, kế toán lĩnh vực công của Việt Nam hiện đang áp dụng trên cơ sở kế toán tiền mặt có điều chỉnh (đối với kế toán ngân sách) và cơ sở dồn tích có điều chỉnh (đối với kế toán đơn vị hành chính sự ngiệp) do vậy việc tiếp thu các kinh nghiệm trên thế giới còn gặp nhiều khó khăn vì cơ sở kế toán tiền mặt có điều chỉnh được các quốc gia trên thế giới áp dụng từ thế kỷ 16 đối với cả hai khu vực công và tư, cho đến nay cả hai khu vực này đã có những bước tiến dài xây dựng các nguyên tắc kế toán cho phù hợp với tình hình mới và chủ yếu hiện đang áp dụng cơ sở kế toán dồn tích. Ở Việt Nam, hệ thống kế toán công bao gồm ba bộ phận: Kế toán ngân sách, kế 8 toán HCSN và kế toán các quỹ đặc thù. Đối với kế toán công, trước năm 2006 nền tảng được đề cập đến chủ yếu nội dung đơn vị HCSN bám theo Quyết định số 999/QĐ-CĐKT ban hành ngày 02/11/1996. Gần đây là nghiên cứu kế toán cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập theo Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30/03/2006. Trên nền tảng này các đơn vị HCSN thuộc các Bộ ngành xây dựng các mô hình tổ chức công tác kế toán cho riêng mình nhưng về cơ bản vẫn chỉ dựa trên đặc thù từng ngành và chế độ kế toán chứ chưa có sự vận dụng đồng bộ chuẩn mực kế toán công quốc tế. Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp hiện hành của Việt Nam về cơ bản đã theo hướng thực hiện trên cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ kế toán tài sản cố định và nguồn kinh phí. Hiện tại theo lộ trình ban hành kèm theo Quyết định số 3915/QĐ - BTC ngày 18 tháng 12 năm 2007 của Bộ Tài chính thì từ tháng 6/2009 đến tháng 6/2013 Việt Nam sẽ ban hành và công bố hết các CMKT áp dụng cho lĩnh vực công. Tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau, Bộ Tài chính vẫn chưa triển khai được. Hiện tại Hội đồng Chuẩn mực Kế toán công quốc tế đã ban hành 26 chuẩn mực và 1 dự thảo, đã có 48 quốc gia và 7 tổ chức trên thế giới đã và đang áp dụng Chuẩn mực kế toán công quốc tế. Do đó khi nghiên cứu về kế toán HCSN trên cơ sở vận dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế thì lý luận về kế toán HCSN sẽ thay đổi khá nhiều. Một vài công trình nghiên cứu về tổ chức công tác kế toán ở các ĐVSN của các tác giả nghiên cứu trong nước như Luận án tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Hường (2004) với tiêu đề “Tổ chức kế toán ở các trường Đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo”; Luận án tiến sĩ Lê Kim Ngọc (2009) với tiêu đề “Tổ chức hạch toán kế toán trong các cơ sở y tế với việc tăng cường quản lý tài chính ngành y tế Việt Nam”; Luận án tiến sĩ Phan Thị Thu Mai (2012) với tiêu đề “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán nhằm tăng cường quản lý tài chính trong các đơn vị hành chính sự nghiệp ngành Lao động thương binh xã hội” và nhiều luận án kinh tế khác nghiên cứu về tổ chức hạch toán trong các đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc các ngành như: Thống kê, bưu chính viễn thông, đo đạc và bản đồ... Các luận án này hầu hết tập trung vào việc thống kê lý thuyết về tổ chức công tác kế toán (hay tổ chức hạch toán kế toán), nghiên cứu thực trạng tổ chức công tác kế toán và đưa ra giải pháp đối với việc tổ chức công tác kế toán. Mỗi luận án nghiên cứu về một loại ĐVSN riêng biệt với các đặc thù khác nhau trong các lĩnh vực. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về tổ chức công tác kế toán ở ĐVSN rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, trong hoạt động khoa học công nghệ, chưa có công trình nào nghiên cứu về lĩnh 9 vực này. Do đó, các công trình nghiên cứu trước được coi là cơ sở tác giả có thể kế thừa, từ đó xây dựng mô hình nghiên cứu tổ chức công tác kế toán trong các ĐVSNCL trong lĩnh vực hoạt động khoa học công nghệ. Tóm lại, dù có khá nhiều nghiên cứu về tài chính kế toán tại các ĐVSNCL Việt Nam với những đóng góp to lớn và có ý nghĩa tham khảo quan trọng cho luận án trong quá trình thực hiện, tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này chỉ nghiên cứu tổ chức công tác kế toán ở ĐVSNCL ngoài lĩnh vực khoa học công nghệ do vậy vẫn còn khoảng trống chưa được đề cập ở một số khía cạnh sau: Thứ nhất, lý luận về tổ chức công tác kế toán, mỗi một đề tài có những cách tiếp cận, cách đặt vấn đề riêng, nhưng có điểm chung là chỉ tập trung nghiên cứu lý luận về một số nội dung của tổ chức công tác kế toán tại các ĐVSNCL nói chung. Trong khi đó, những lý luận cơ bản về những nội dung tổ chức công tác kế toán (kể cả kế toán tài chính và kế toán quản trị) cũng như việc phân tích các nhân tố chi phối đến tổ chức công tác ở các ĐVSNCL cũng vẫn chưa có một công trình nào trình bày một cách hệ thống và toàn diện. Thứ hai, các công trình nghiên cứu chỉ tập trung phân tích, đánh giá thực trạng từ đó đưa ra các giải pháp để hoàn thiện về quản lý nguồn tài chính, cơ chế quản lý tài chính và tổ chức công tác kế toán ở các ĐVSNCL và dường như chưa có một nghiên cứu tổng hợp, phân tích đầy đủ về thực trạng và đưa ra giải pháp cụ thể về tổ chức công tác kế toán trên góc độ của kế toán tài chính và góc độ của kế toán quản trị tại các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ nói chung và ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN nói riêng. Thứ ba, các công trình chưa đưa ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện việc tổ chức công tác kế toán tại các ĐVSNKH-CNCL như nội dung tổ chức công tác kế toán tài chính, tổ chức công tác kế toán quản trị (đặc biệt là tổ chức thu thập xử lý, cung cấp thông tin tổ chức lập kế hoạch chi phí, phân loại chi phí và xác định chi phí, phân tích thông tin chi phí đưa ra quyết định), tổ chức bộ máy làm công tác kế toán quản trị, phân tích hoạt động kinh tế ở các đơn vị này theo mô hình kết hợp hay mô hình hỗn hợp; nâng cao chất lượng công tác kiểm tra kế toán kết hợp trong kiểm tra tài chính để quản lý toàn diện công tác quản lý tài chính và công tác kế toán ở các ĐVSNCL. 6.3. Những vấn đề luận án sẽ tập trung nghiên cứu, giải quyết Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp và các sự ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN nói riêng là yêu cầu cấp thiết trong quá 10 trình chuyển sang cơ chế tự chủ tài chính. Đặc biệt đối với ngành nghiên cứu khoa học và công nghệ thuộc Bộ KH và CN, những phương hướng và giải pháp hoàn thiện phải phù hợp với các định hướng phát triển hệ thống quản lý tài chính khoa học công nghệ của Việt Nam và yêu cầu đồng thời đạt đươc hai mục tiêu lớn là đảm bảo công bằng và đảm bảo tính hiệu quả kinh tế trong nghiên cứu khoa học. Xuất phát từ quá trình tìm hiểu về đề tài nghiên cứu, Luận án sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề chính như sau: - Phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức công tác kế toán trong các ĐVSNCL như: Khái niệm, đặc điểm phân loại ĐVSNCL, khái niệm, đặc điểm, yêu cầu, nguyên tắc của tổ chức công tác kế toán tại các ĐVSNCL cũng như những nội dung của tổ chức công tác kế toán tại các ĐVSNCL: Tổ chức bộ máy kế toán, tổ chức kế toán tài chính, tổ chức kế toán quản trị, kiểm tra kế toán, ứng dụng công nghệ thông tin trong kế toán. Ngoài ra, luận án phân tích các nhân tố chi phối đến tổ chức công tác kế toán tại các ĐVSNCL như đặc điểm của ĐVSNCL, công tác quản lý tài chính cơ sở kế toán của ĐVSNCL,...; - Phân tích thực trạng, đánh giá những kết quả và tồn tại về tổ chức công tác kế toán tại các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN trong đó Luận án đặc biệt đi sâu trình bày thực trạng tổ chức công tác kế toán tài chính, tổ chức công tác kế toán quản trị một số ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN; - Đề xuất các giải pháp có tính đồng bộ để hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN có tính khả thi như: Một là: Hoàn thiện tổ chức kế toán tài chính bằng cách tổ chức hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán cũng như hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính và phân tích báo cáo tài chính tại các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN; Hai là: Hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị từ khâu phân loại chi phí, xác định chi phí, lập dự toán, xây dựng định mức tiền công, tiền lương và kế toán quản trị phục vụ đưa ra các quyết định ngắn hạn dài hạn; Ba là: Hoàn thiện công tác kiểm tra kế toán tiến hành đồng thời với kiểm tra tài chính tại các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN nhằm tăng cường công tác quản lý tài chính kế toán, ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức công tác kế toán; 11 Bốn là: Đề xuất các phương pháp kế toán phù hợp với cơ chế quản lý tài chính trong điều kiện tự chủ tài chính. Kiến nghị sửa đổi cơ chế chính sách về tài chính kế toán, thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ tại Bộ KH và CN cũng như tự kiểm tra tài chính kế toán nội bộ các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN. 7. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận án được kết cấu gồm 3 chương như sau: - Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp công lập. - Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp khoa học - công nghệ công lập thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. - Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp khoa học - công nghệ công lập thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Ba chương này có mối quan hệ logic để thực hiện theo đúng mục tiêu nghiên cứu. 12 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP 1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm đơn vị sự nghiệp công lập 1.1.1.1. Khái niệm Để cung cấp các dịch vụ công, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra quyết định thành lập cho phép thành lập các đơn vị cung ứng dịch vụ công, các đơn vị này gọi là đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL). Trong quá trình hoạt động, ĐVSNCL được phép thu một số khoản phí, lệ phí theo quy định của Nhà nước để bù đắp một phần hay toàn bộ chi phí hoạt động được gọi là tự trang trải một phần hoặc trang trải toàn bộ kinh phí hoạt động. ĐVSNCL tạo ra là những giá trị về giáo dục, đào tạo, tri thức, khoa học công nghệ, sức khỏe, văn hóa, đạo đức, …. Đây là những sản phẩm vô hình có thể dùng chung cho nhiều người, nhiều đối tượng với phạm vi cung cấp rộng; có giá trị, giá trị sử dụng đồng thời có giá trị xã hội cao và có thể trở thành hàng hóa cung cấp cho mọi thành phần, mọi cộng đồng trong xã hội. Trên phương diện khác nhau có một số khái niệm khác nhau về ĐVSNCL tùy theo các cách tiếp cận khác nhau: Dựa trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của ĐVSNCL trong việc cung cấp các dịch vụ công, Giáo trình “Quản lý tài chính công” của Học viện Tài chính đưa ra khái niệm: “ĐVSNCL là những đơn vị do Nhà nước thành lập hoạt động thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của các ngành kinh tế quốc dân” [tr282]. - Khi tiếp cận tới nguồn của kinh phí thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao, giáo trình “Kế toán công trong đơn vị hành chính - sự nghiệp” của Trường Đại học Kinh tế quốc dân quan niệm: “ĐVSNCL là đơn vị được Nhà nước cấp kinh phí toàn bộ hoặc đơn vị tự đảm bảo một phần hay toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên, ngân sách nhà nước không phải cấp kinh phí [tr14]. Tiếp cận theo chức năng, nhiệm vụ và khả năng thu của đơn vị thực hiện dịch vụ công, theo Giáo trình “Quản trị tài chính đơn vị hành chính, sự nghiệp” của Trường Đại học Lao động Xã hội cho rằng “Các ĐVSNCL là các đơn vị được thành lập để cung cấp các dịch vụ công phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Căn cứ vào mức độ tự đảm bảo 13 chi hoạt động từ nguồn thu sự nghiệp các ĐVSNCL được chia thành: ĐVSNCL có nguồn thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí cho hoạt động thường xuyên; ĐVSNCL có nguồn thu sự nghiệp thấp, …” [tr31]. Theo tài liệu CĐKT hành chính sự nghiệp năm 2006 thì ĐVSNCL là đơn vị do Nhà nước quyết định thành lập nhằm thực hiện một số nhiệm vụ chuyên môn nhất định hay quản lý Nhà nước về một lĩnh vực nào đó, hoạt động bằng nguồn kinh phí NSNN cấp, trên toàn bộ hoặc cấp một phần kinh phí và các nguồn khác đảm bảo theo nguyên tắc không bồi hoàn trực tiếp nhằm thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho từng giai đoạn [6]. Theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/02/2015 thì “Đơn vị sự nghiệp công lập do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành lập theo qui định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công phục vụ quản lý Nhà nước” (Điều 1 - Điểm 2 - Nghị định 16/2015). Cho dù nội dung các khái niệm có thể khác nhau, nhưng nhìn chung các văn bản pháp luật và các học giả đều thống nhất chung: - ĐVSNCL là các đơn vị do Nhà nước thành lập, cho phép thành lập một cách hợp pháp hay nói cách khác, đơn vị sự nghiệp công lập là các đơn vị được Nhà nước thành lập một cách hợp pháp phục vụ quản lý Nhà nước: - Mục tiêu là cung cấp các dịch vụ công cho xã hội; - Nguồn kinh phí do NSNN cấp toàn bộ hoặc một phần, phần còn lại được lấy thu để bù đắp chi phí. Cơ chế thu, chi theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo Tác giả thì đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của Pháp luật, nhằm cung cấp dịch vụ công, phục vụ theo yêu cầu của Nhà nước và theo yêu cầu của xã hội. Nguồn tài chính để đảm bảo hoạt động của ĐVSNCL do NSNN cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách hoặc được Nhà nước cho thu một số loại phí, thu sự nghiệp theo quỹ dịch vụ theo quy định của pháp luật. Các hoạt động này có giá trị tinh thần vô hạn, chủ yếu được tổ chức để phục vụ xã hội, do đó chi phí chi ra không được trả lại trực tiếp bằng hiệu quả kinh tế nào đó mà được thể hiện bằng hiệu quả xã hội nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô. 1.1.1.2. Đặc điểm a) Đặc điểm hoạt động trong đơn vị sự nghiệp công lập Một, ĐVSNCL do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chịu trách nhiệm được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau (tổ chức, hành chính, kinh 14 tế,…), công cụ quản lý cũng khác nhau (pháp luật, thanh tra, kiểm tra, đánh giá,…). Mỗi phương pháp, công cụ có đặc điểm riêng, cách thức tác động riêng. Đối với nhiệm vụ mà Nhà nước giao hoặc đặt hàng, ĐVSNCL được quyền chủ động quyết định các biện pháp thực hiện song thực hiện các hoạt động mang tính tuân thủ. Do đó, hoạt động sự nghiệp luôn gắn liền với quyền lực của Nhà nước. Quản lý hoạt động sự nghiệp phải đặc biệt chú trọng đến các phương pháp, công cụ mang tính quyền lực, mệnh lệnh nhằm đảm bảo tính tập trung, thống nhất, đó là các phương pháp tổ chức, hành chính, các công cụ pháp luật, thanh tra, kiểm tra. Hai, mục đích hoạt động của các ĐVSNCL là không vì lợi nhuận, chủ yếu phục vụ lợi ích cộng đồng. Trong nền kinh tế, các sản phẩm, dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập tạo ra đều có thể trở thành hàng hóa cung ứng cho mọi thành phần trong xã hội. Việc cung ứng các hàng hóa này cho thị trường chủ yếu không vì mục đích lợi nhuận như hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước tổ chức, duy trì và tài trợ cho các hoạt động sự nghiệp để cung cấp những sản phẩm, dịch vụ cho thị trường trước hết nhằm thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc phân phối lại thu nhập và thực hiện các chính sách phúc lợi công cộng khi can thiệp vào thị trường. Nhờ đó sẽ hỗ trợ cho các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội hoạt động bình thường, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học công nghệ, đảm bảo nguồn nhân lực, thúc đẩy hoạt động kinh tế- xã hội phát triển và ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, đảm bảo và không ngừng nâng cao đời sống, sức khỏe, văn hóa, tính thần của nhân dân. Ba, đối tượng quản lý ĐVSNCL là các hoạt động của đơn vị, cụ thể đó là các hoạt động được nhà nước giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng và các hoạt động khác mà đơn vị được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Mỗi ĐVSNCL có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định; đó là mức độ, khả năng được phép xử sự do pháp luật quy định và được nhà nước bảo vệ và đảm bảo thực hiện. Bốn, sản phẩm của các ĐVSNCL là sản phẩm mang lại lợi ích có tính bền vững, lâu dài cho xã hội. Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp công lập tạo ra chủ yếu là những sản phẩm, dịch vụ có giá trị về khoa học công nghệ, về tri thức, qui trình công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, sáng kiến, sáng chế, phát minh, cải tiến kỹ thuật, văn hóa, đạo đức, xã hội, ... Đây là những sản phẩm vô hình và có thể dùng chung cho nhiều người, cho nhiều đối tượng trên phạm vị rộng. 15 Mặt khác sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp công lập chủ yếu là các “hàng hóa công cộng” phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình tái sản xuất xã hội. Nhờ việc sử dụng những “hàng hóa công cộng” đó hoạt động sự nghiệp công lập tạo ra làm cho quá trình sản xuất của cải vật chất được thuận lợi và ngày càng đạt hiệu quả cao. Vì vậy, hoạt động sự nghiệp luôn gắn bó hữu cơ và tác động tích cực đến quá trình tái sản xuất xã hội. Năm, hoạt động của các ĐVSNCL luôn gắn liền và bị chi phối bởi các chương trình phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước. Với chức năng của mình, Chính phủ luôn tổ chức, duy trì và đảm bảo hoạt động sự nghiệp để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định, Chính phủ tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, Chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, Chương trình xóa mù chữ, . . . Những chương trình mục tiêu quốc gia này chỉ có Nhà nước, với vai trò của mình mới có thể thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả, nếu để tư nhân thực hiện, mục tiêu lợi nhuận sẽ lấn chiếm mục tiêu xã hội và dẫn đến hạn chế việc tiêu dùng sản phẩm hoạt động sự nghiệp, từ đó kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Sáu, tùy theo tính chất, đặc điểm hoạt động, ĐVSNCL có thể tổ chức hoạt động dịch vụ nhằm hỗ trợ hoạt động sự nghiệp hoặc thực hiện các mục tiêu với mục đích tích lũy, phát triển, tăng thu để hỗ trợ kinh phí của đơn vị, gián tiếp cân đối cán cân NSNN theo mô hình tách biệt hay kết hợp với hoạt động sự nghiệp; được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự quyết định tổ chức, thực hiện hoạt động. Quyền và nghĩa vụ của bộ phận hoạt động dịch vụ được mở rộng như một doanh nghiệp công song có nhiều ưu đãi hơn. Đối với đơn vị tổ chức theo mô hình kết hợp, công tác kế toán được thực hiện theo hình thức kết hợp. Bộ phận hoạt động dịch vụ trong đơn vị là một chủ thể kinh tế nhưng không phải là một chủ thể pháp lý, không có tư cách pháp nhân, không thuộc đối tượng được cấp đăng ký kinh doanh. Đối với đơn vị tổ chức theo mô hình tách biệt, đồng thời tổ chức công tác kế toán cũng được thực hiện theo hình thức tách biệt, bộ phận hoạt động dịch vụ trong đơn vị là một chủ thể kinh tế đồng thời là một chủ thể pháp lý, có tư cách pháp nhân. Bộ phận hoạt động dịch vụ vừa là đơn vị dự toán vừa là đơn vị kinh doanh dịch vụ. 16 b) Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý và biên chế trong đơn vị sự nghiệp công lập (1) Hình thức tổ chức bộ máy quản lý trong ĐVSNCL Hình thức tổ chức bộ máy quản lý sẽ chi phối đến quá trình tổ chức thu nhận, xử lý thông tin kế toán phục vụ cho việc ra quyết định quản lý của các cấp có thẩm quyền trong đơn vị. Để quản lý các hoạt động có hiệu quả, đặc biệt trong cơ chế tự chủ, tổ chức bộ máy quản lý trong ĐVSNCL thường được thực hiện theo một trong các hình thức sau: Tổ chức bộ máy quản lý theo kiểu trực tuyến Theo hình thức này, quan hệ quản lý hoạt động trong đơn vị diễn ra theo một tuyến qui định, trực tiếp theo hệ thống các đầu mối trực tuyến. Cơ chế quản lý thực hiện theo chế độ một thủ trưởng. Phạm vi trách nhiệm trong bộ máy quản lý rõ ràng cụ thể; khích lệ được tinh thần trách nhiệm, tránh tình trạng chồng chéo mệnh lệnh; quan hệ quản lý bảo đảm chính xác, kịp thời. Các hoạt động trong các ĐVSNCL hiện nay với qui mô không lớn, chủng loại sản phẩm không nhiều, do đó hình thức này thường được áp dụng phổ biến trong quản lý hoạt động tại các ĐVSNCL. Tổ chức bô máy quản lý theo kiểu chức năng Theo hình thức này, thực hiện các công việc quản lý có sự tham gia của các chuyên gia chức năng trực tiếp lãnh đạo, điều hành chuyên môn trên phạm vi toàn hệ thống hoạt động. Các nhà quản lý có thể thực hiện công việc theo các bộ phận có chức năng cụ thể khác nhau. Các bộ phận chức năng gồm những người có cùng chuyên môn, nên hội tụ nhiều kinh nghiệm, kiến thức, sáng tạo, giải quyết các vấn đề chuyên môn thành thạo, hiệu quả; giảm gánh nặng cho các đầu mối trực tuyến. Các đầu mối trực tuyến, chỉ tập trung vào các công việc quản trị hành chính, hỗ trợ các bộ phận quản trị chức năng. Tổ chức bộ máy quản lý theo kiểu chức năng thường được áp dụng có hiệu quả ở các đơn vị có qui mô hoạt động lớn, tính chất hoạt động phức tạp, không ổn định. với qui mô hoạt vừa và nhỏ là chủ yếu, ĐVSNCL thường ít áp dụng mô hình này trong quản lý hoạt động. Tổ chức bô máy quản lý theo kiểu hỗn hợp Quản lý hoạt động theo kiểu hỗn hợp vẫn có sự tham gia của chuyên gia chức năng vào bộ máy quản lý, nhưng họ không trực tiếp lãnh đạo điều hành chuyên môn mà thông qua hệ thống trực tuyến. Các chuyên gia chức năng vẫn tham gia giải quyết các vấn đề chuyên môn, nên bảo đảm tính thành thạo, hiệu 17 quả. Họ không trực tiếp ra mệnh lệnh quản trị nên vẫn thực hiện tốt chế độ một thủ trưởng. Tổ chức bộ máy quản lý hoạt động theo kiểu hỗn hợp áp dụng có hiệu quả nhất là các đơn vị có quy mô lớn, tính chất hoạt động phức tạp, không ổn định. Do đó thường ít được ĐVSNCL. (2) Quản lý biên chế trong ĐVSNCL Mỗi cơ chế hoạt động khác nhau, quản lý lao động sẽ khác nhau và chi phối đến tổ chức bộ máy quản lý của đơn vị. Cơ chế tự chủ đã tạo hành lang pháp lý cho các đơn vị có quyền chủ động về biên chế, quản lý và sử dụng lao động khi thực hiện tổ chức bộ máy quản lý chung và bộ máy kế toán. Tuỳ theo mức độ tự chủ về chi phí hoạt động, đối với những công việc cần bố trí lao động thường xuyên, ĐVSNCL được quyền quyết định số lượng biên chế, hình thức tuyển dụng, quản lý và sử dụng lao động ở các mức độ khác nhau. Những đơn vị tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động sẽ được quyền quyết định hoàn toàn về biên chế lao động của đơn vị mình; những đơn vị khác sẽ do cơ quan chủ quản trực tiếp quyết định trên cơ sở định mức biên chế được giao và kế hoạch biên chế đơn vị xây dựng. Đối với những công việc không cần bố trí lao động thường xuyên, đơn vị được quyền quyết định ký hợp đồng hợp tác, thuê, khoán với cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước để đáp ứng yêu cầu chuyên môn của đơn vị. 1.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp công lập Để nhận dạng các ĐVSNCL nhằm tổ chức, quản lý có hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, cần có sự phân loại các ĐVSNCL. Tùy thuộc quan điểm, cách tiếp cận hoặc do các yêu cầu của quản lý nhà nước và các tiêu chí khác nhau mà có thể phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập theo các cách khác nhau. Theo phương thức thu tiền của người sử dụng dịch vụ thì đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: - ĐVSNCL thực hiện các dịch vụ công không thu tiền trực tiếp từ người sử dụng; - ĐVSNCL thực hiện các dịch vụ công mà người sử dụng phải trả một phần tiền; - ĐVSNCL thực hiện các dịch vụ công mà người sử dụng phải trả toàn bộ tiền. Theo tính chất công cộng hay cá nhân của dịch vụ cung cấp thì đơn vị sự nghiệp bao gồm: Đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công cộng thuần túy và đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công cộng có tính chất cá nhân. 18 Theo chủ thể quản lý thì đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: - ĐVSNCL do Trung ương quản lý gồm các Viện hàn lâm, Viện nghiên cứu, Trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ, Đài truyền hình Việt Nam, các bệnh viện, trường đại học do Trung ương quản lý, …; - ĐVSNCL do địa phương quản lý gồm các Viện, Trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ, Đài truyền hình tỉnh, thành phố, các bệnh viện, trường đại học, cao đẳng do địa phương quản lý... Theo Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về qui định cơ chế tự chủ đơn vị sự nghiệp công, bao gồm: - Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên và chi đầu tư. - Đơn vị sự nghiệp công tự đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên. - Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi phí thường xuyên, phần còn lại được ngân sách nhà nước cấp (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động). - Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu, kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí thường xuyên (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí thường xuyên). Theo lĩnh vực hoạt động thì đơn vị sự nghiệp công lập được chia thành: - ĐVSNCL hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo gồm: Các cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân như các trường mầm non, tiểu học, trung học, các trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng, đại học, học viện, … - ĐVSNCL hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; gồm: Các đơn vị thuộc Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam, Viện ứng dụng công nghệ, Cục sở hữu trí tuệ, Trung tâm nghiên cứu phát triển vùng, Cục an toàn bức xạ hạt nhân, Tạp chí khoa học và công nghệ, Tạp chí tiêu dùng, Trung tâm tin học, Trường nghiệp vụ quản lý KH và CN, Cục khoa học sở hữu trí tuệ, Viện chiến lược và chính sách KH và CN, Quỹ phát triển KH và CN,... - ĐVSNCL hoạt động trong lĩnh vực văn hóa thông tin nghệ thuật gồm: Các đoàn nghệ thuật, nhà văn hóa thông tin, bảo tàng, trung tâm tin học, trển lãm, thư viện công cộng, đài phát thanh, truyền hình,… - ĐVSNCL hoạt động trong lĩnh vực thể dục thể thao gồm: Trung tâm huấn luyện thể dục, thể thao, các câu lạc bộ thể dục thể thao,… 19 - ĐVSNCL hoạt động trong lĩnh vực y tế gồm: Các cơ sở khám chữa bệnh như các bệnh viện, phòng khám, trung tâm y tế thuộc các Bộ, ngành và địa phương; cơ sở khám chữa bệnh thuộc các viện nghiên cứu, trường đào tạo y dược, các cơ sở điều dưỡng phục hồi chức năng, các trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe,… Theo Nghị định 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 của Chính phủ thì các đơn vị SNCL trong lĩnh vực y tế chia thành 4 nhóm: Nhóm 1: Đơn vị có nguồn thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên và kinh phí ĐTPT; Nhóm 2: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên; Nhóm 3: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp đảm bảo một phần kinh phí thường xuyên; Nhóm 4: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp hoặc không có nguồn thu, kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng nhiệm vụ được giao do NSNN bảo đảm toàn bộ. 1.2. TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP 1.2.1. Những vấn đề chung về tổ chức công tác kế toán 1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm tổ chức công tác kế toán a) Khái niệm tổ chức công tác kế toán Với vai trò là công cụ quản lý kinh tế quan trọng của mỗi tổ chức. Kế toán phản ánh, giám sát toàn diện hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị. Chính vì vậy việc thiết lập mối liên hệ giữa đối tượng, chứng từ, tài khoản, sổ kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị và bộ máy kế toán cùng với trang thiết bị thích hợp nhằm bảo đảm điều kiện tốt nhất để phát huy tối đa chức năng của kế toán, như vậy các đơn vị kế toán phải tổ chức công tác kế toán. Theo “Tài liệu bồi dưỡng kế toán trưởng doanh nghiệp” của Bộ Tài chính thì, “Tổ chức công tác kế toán là tổ chức việc thực hiện các chuẩn mực và chế độ kế toán để phản ánh tình hình tài chính và kết quả hoạt động dịch vụ, tổ chức thực hiện chế độ kiểm tra kế toán, chế độ bảo quản, lưu trữ tài liệu kế toán, cung cấp thông tin tài liệu kế toán và các nhiệm vụ khác của kế toán”1[3]. Khái niệm này nhấn mạnh việc thực hiện chuẩn mực kế toán (CMKT) và tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán. Theo giáo trình “Tổ chức công tác kế toán” của Viện Đại học mở Hà Nội quan niệm “Tổ chức công tác kế toán chính là sự thiết lập mối quan hệ qua lại 1 Bộ Tài chính (2004), Tài liệu bồi dưỡng kế toán trưởng đơn vị kế toán nhà nước, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, tr 253. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất