Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia asean​...

Tài liệu Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia asean​

.PDF
93
101
125

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THU HƯƠNG HOẠT ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ GIỮA CÁC QUỐC GIA ASEAN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THU HƯƠNG HOẠT ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ GIỮA CÁC QUỐC GIA ASEAN Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 8380101.06 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Năng Hà Nội – 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét đề nghị để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thu Hương MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ 1 DANH MỤC CÁC BẢNG .............................................................................. 2 LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ GIỮA CÁC QUỐC GIA............................................................... 7 1.1. Khái niệm tương trợ tư pháp hình sự .................................................... 7 1.2. Đặc điểm và nguyên tắc tương trợ tư pháp hình sự ........................... 10 1.2.1. Đặc điểm của tương trợ tư pháp hình sự ............................................... 10 1.2.2. Nguyên tắc tương trợ tư pháp hình sự .................................................. 11 1.3. Vai trò của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự .......................... 14 1.4. Cơ sở pháp lý của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự ................... 15 1.4.1. Điều ước quốc tế ................................................................................... 15 1.4.2. Pháp luật quốc gia ................................................................................. 20 Chương 2. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT CỦA CÁC NƯỚC ASEAN VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ ...................................... 24 2.1. Pháp luật quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự ................................. 24 2.2. Pháp luật các nước ASEAN về tương trợ tư pháp hình sự ................ 34 2.2.1. Cộng hòa Indonesia ............................................................................... 34 2.2.2. Liên bang Malaysia ............................................................................... 37 2.2.3. Cộng hòa Philippines ............................................................................ 39 2.2.4. Cộng hòa Singapore .............................................................................. 40 2.2.5. Vương quốc Thái Lan ........................................................................... 41 2.2.6. Vương quốc Brunei ............................................................................... 43 2.2.7. Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ........................................................... 44 2.2.8. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................................................... 46 2.2.9. Liên bang Myanmar .............................................................................. 51 2.2.10. Vương quốc Campuchia...................................................................... 54 Chương 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ GIỮA CÁC QUỐC GIA ASEAN ................................................................................................... 58 3.1. Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia ASEAN ..... 58 3.2. Pháp luật một số quốc gia ngoài khu vực ASEAN về tương trợ tư pháp hình sự ............................................................................................................ 62 3.2.1. Pháp luật Liên bang Australia về tương trợ tư pháp hình sự ................ 62 3.2.2. Pháp luật Thụy Điển về tương trợ tư pháp hình sự............................... 68 3.2.3. Pháp luật Trung Quốc về tương trợ tư pháp hình sự ............................ 70 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp hình sự ......................................................................................................................... 73 3.3.1. Khó khăn, vướng mắc ........................................................................... 73 3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự . 75 KẾT LUẬN .................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Nguyên nghĩa STT Ký hiệu 1 AFP Cảnh sát liên bang Australia 2 AFP Cảnh sát liên bang Australia 3 ASEANAPOL Cảnh sát các nước ASEAN 4 BN Vương quốc Brunei 5 ID Cộng hòa Indonesia 6 INTERPOL Tổ chức cảnh sát quốc tế 7 KH Vương quốc Campuchia 8 LA Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào 9 MM Liên bang Myanmar 10 MY Liên bang Malaysia 11 PH Cộng hòa Philippines 12 SG Cộng hòa Singapores 13 TH Vương quốc Thái Lan 14 VN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam DANH MỤC CÁC BẢNG STT Số hiệu Tên bảng Trang 1 Bảng 2.1 Các công ước quốc tế về tương trợ tư pháp 25 về hình sự tiêu biểu mà các quốc gia ASEAN là thành viên 2 Bảng 3.1 Thống kê số yêu cầu tương trợ tư pháp về 58 hình sự các quốc gia Đông Nam Á nhận được 3 Bảng 3.2 Thống kê số yêu cầu tương trợ tư pháp về 59 hình sự các quốc gia Đông Nam Á gửi đi 4 Bảng 3.3 Số lượng yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự Việt Nam nhận được và gửi đi 60 LỜI MỞ ĐẦU 1- Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, tình hình tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đang có nhiều diễn biến phức tạp gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt cho các nước trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á. Theo ước tính của Văn phòng Liên hợp quốc về chống Ma túy và Tội phạm năm 2016, giao dịch từ các hoạt động phi pháp xuyên Đông Á và Thái Bình Dương hiện có giá trị hơn 100 tỷ USD/năm, cao hơn tổng GDP của ba nước Lào, Campuchia và Myanmar. Hơn nữa, Đông Nam Á còn được biết đến như một trung tâm trung chuyển của nạn buôn bán người từ nhiều nơi đến Úc, New Zealand. Tội phạm xuyên quốc gia trở thành mối đe dọa an ninh nghiêm trọng đối với an ninh khu vực và gây nguy hiểm cho các quốc gia Đông Nam Á. Riêng tại Việt Nam, tình hình tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia có xu hướng gia tăng cả về số vụ, quy mô tổ chức và tính chất mức độ nghiêm trọng. Theo báo cáo của Bộ Công an, trong 10 năm từ 2007 đến 2017, lực lượng chức năng của Bộ Công an từ trung ương đến địa phương đã phát hiện, khởi tố và điều tra 1.260 vụ án có yếu tố nước ngoài; trong tổng số 2.041 bị can bị bắt giữ, có 692 đối tượng là người nước ngoài. Tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia xảy ra tại Việt Nam khá đa dạng, bao gồm cả tội xâm phạm an ninh quốc gia và nhiều loại tội phạm hình sự khác, như tội phạm mua bán người Việt Nam ra nước ngoài, tội phạm về ma túy, tội phạm sản xuất, buôn bán tiền giả, hàng giả, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội tổ chức đánh bạc, gá bạc, tổ chức mại dâm,... Thông qua các kênh hợp tác với INTERPOL và ASEANAPOL, Cảnh sát Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan chức năng các nước bắt giữ được hàng trăm đối tượng phạm tội người Việt Nam hoạt động có tổ chức, xuyên quốc gia ở nước ngoài đưa về Việt Nam để xử lý; đồng thời cũng phát hiện, bắt giữ và bàn giao hàng trăm đối tượng truy nã quốc tế bỏ trốn vào Việt Nam cho các cơ quan chức năng nước ngoài xử lý. 1 Vấn đề tội phạm xuyên quốc gia đang đặt ra nhiều thách thức cho cộng đồng dân cư khu vực Đông Nam Á và nhu cầu phải có một cơ chế hợp tác giải quyết vấn nạn chung này. Theo đó, sự ra đời của các chế định pháp lý để phục vụ, hỗ trợ cho hoạt động đấu tranh với tội phạm xuyên quốc gia là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, xuất phát từ vấn đề chủ quyền quốc gia, các hành vi tố tụng hình sự của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia chỉ có thể được thực hiện trong phạm vi giới hạn lãnh thổ của quốc gia đó. Trong khi đó, tính chất đặc thù của tội phạm xuyên biên giới là có sự liên quan trực tiếp của nhiều quốc gia cho cùng một hành vi phạm tội. Điều này đồng nghĩa với việc cần thiết phải có sự hỗ trợ của các cơ quan tố tụng nước ngoài nơi thực hiện các hành vi tố tụng, để giải quyết các vụ án mà quốc gia có thẩm quyền đang xem xét. Xét thấy tầm quan trọng của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong khu vực, ngày 29/11/2004, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia ASEAN tại Kuala Lumpur, Malaysia. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên trong khuôn khổ ASEAN để làm nền tảng cho hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong khu vực. Tuy nhiên, sau 14 năm kể từ ngày Hiệp định ra đời, pháp luật chung trong khuôn khổ ASEAN cũng như thực tiễn hoạt động tương trợ tư pháp hình sự đã có nhiều thay đổi đáng kể và đang gặp nhiều thách thức. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia ASEAN” làm đề tài nghiên cứu luận văn sau đại học của mình. 2- Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Trong quan hệ quốc tế nói chung, vấn đề tương trợ tư pháp hình sự đã được đề cập và bàn luận tương đối nhiều, tuy nhiên về khía cạnh pháp luật thì vấn đề trên còn ít được đề cập. Tính đến thời điểm thực hiện nghiên cứu này, tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội mới chỉ có một luận văn thạc sĩ luật 2 học của tác giả Vũ Thị Thu Hà năm 2017 về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, cụ thể là “Tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam”, nhưng chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu về tương trợ tư pháp hình sự trong phạm vi ASEAN. Về hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong khuôn khổ ASEAN, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến có thể kể đến như: - Nguyễn Thị Thuận, Lê Minh Tiến (Chủ biên) (2012, 2014, 2016), Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân; - TS. Nguyễn Quốc Việt (Chủ biên) (2016), Giáo trình Luật tương trợ tư pháp, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội; - Nguyễn Giang Nam (2011), Hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ tội phạm có yếu tố nước ngoài, Luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân dân; - Đỗ Mạnh Hồng (2008), Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự của ASEAN, Tạp chí Luật học, (9), 57 – 64; - Bùi Thị Ngọc Lan, Trần Thế Vinh (2016), Những nội dung cơ bản của Hiệp định Tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN năm 2004 và thực tiễn ở Việt Nam, Kiểm sát, (12), 52 – 57; - Nguyễn Ngọc Anh (Chủ biên) (2014), Các văn kiện của Liên Hợp quốc và khu vực ASEAN về phòng, chống khủng bố, Vụ Pháp chế, Bộ Công an, NXB Lao động; - Bùi Mạnh Hùng (2012), Hợp tác quốc tế về chống khủng bố và liên hệ thực tiễn Việt Nam, Luận văn thạc sĩ. Ngoài ra, một số bài báo đề cập đến quan điểm của các chuyên gia về các khía cạnh thẩm quyền hay các cơ quan đầu mối cũng đã đóng góp và làm hoàn thiện hơn về hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự trong khu vực ASEAN. 3 3- Mục đích nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự, các đặc điểm, cơ sở pháp lý của chế định pháp lý về tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia. Từ cơ sở lý luận trên, luận văn nghiên cứu về tương trợ tư pháp hình sự được quy định trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia của các nước ASEAN, đồng thời so sánh với một số quốc gia pháp triển để tìm các giải pháp nhằm hoàn thiện chế định pháp lý cho hoạt động này trong khuôn khổ ASEAN. 4- Phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài - Đối tượng nghiên cứu : Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về tương trợ tư pháp hình sự; các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia của các nước ASEAN và một số quốc gia về tương trợ tư pháp hình sự. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản về tương trợ tư pháp hình sự theo nghĩa hẹp và pháp luật về tương trợ tư pháp hình sự của các quốc gia ASEAN. Luận văn đồng thời phân tích hoạt động tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia, để từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong khuôn khổ ASEAN, tuy nhiên có nghiên cứu quy định pháp luật một số quốc gia tiêu biểu làm cơ sở đối chiếu, so sánh. Mặt khác, vì công trình được nghiên cứu và thực hiện tại Việt Nam nên sẽ thường xuyên có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật Việt Nam để người đọc dễ hình dung và tiếp cận. 5- Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu khoa học được sử dụng trong luận văn bao gồm: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, diễn dịch và các phương pháp thống kê, chuyên gia. 6- Tính mới và những đóng góp của đề tài 4 So với các nghiên cứu đã nêu ở mục 2, nội dung của luận văn này có tính mới ở chỗ bao quát và bổ sung các quy định pháp luật mới cũng như tình hình thực tiễn phát sinh cho đến thời điểm thực hiện nghiên cứu trong khu vực Đông Nam Á, đồng thời cũng thực hiện việc so sánh với quy định pháp luật một số quốc gia về lĩnh vực này và đề xuất hoàn thiện pháp luật ASEAN về tương trợ tư pháp hình sự. Trong luận văn thạc sĩ “Tương trợ tư pháp trong Tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2017 của Vũ Thị Thu Hà, tác giả tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự, qua đó rút ra những giá trị hợp lý cho hoạt động lập pháp tố tụng hình sự. Ngoài ra luận văn cũng đã phân tích, làm rõ thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tương trợ tư pháp và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam giai đoạn 5 năm (2011 - 2015). Trên cơ sở này, luận văn đã đưa ra kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tương trợ tư pháp, cũng như đưa các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định này. Luận văn này chỉ đề cập đến vấn đề tương trợ tư pháp về hình sự trong phạm vi một quốc gia và ảnh hưởng trực tiếp đến quốc gia này, cụ thể là Việt Nam. Tại “Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN” (2012, 2014, 2016), các tác giả chỉ giới thiệu sơ qua nội dung của Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự ASEAN 2004, bao gồm hai nội dung chính là phạm vi tương trợ và trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp. Các nội dung trên không thay đổi, bổ sung qua các lần tái bản và cũng không đi sâu làm rõ thêm hoạt động tương trợ tư pháp hình sự. Các nội dung chủ yếu được nghiên cứu trong “Giáo trình luật tương trợ tư pháp hình sự” (2016) là toàn bộ các khía cạnh của hoạt động tương trợ tư pháp, chủ yếu ở bốn lĩnh vực: tương trợ tư pháp về dân sự, tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Cụ thể bao gồm: khái niệm tương trợ tư pháp, lịch sử hình thành, sự phát triển của hoạt 5 động tương trợ tư pháp và pháp luật tương trợ tư pháp tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Trong khi đó Luận án tiến sĩ “Hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ tội phạm có yếu tố nước ngoài” của tác giả Nguyễn Giang Nam, nghiên cứu này lại nhằm hoàn thiện lý luận và thực tiễn hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ tội phạm trong điều tra tội phạm có yếu tố nước ngoài của lực lượng cảnh sát nhân dân. Còn đối với các bài báo, các bài nghiên cứu được công bố tại Hội thảo…, nội dung nghiên cứu cũng chỉ tập trung vào một khía cạnh nhỏ của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong khuôn khổ ASEAN. Về mặt khoa học, luận văn này đóng vai trò là một nghiên cứu chuyên sâu và tổng quát về tương trợ tư pháp hình sự trong khuôn khổ ASEAN, là nền tảng cho những công trình nghiên cứu khoa học sâu rộng hơn và cập nhật hơn trong tương lai. Về thực tiễn, luận văn này được coi là một nguồn tài liệu tham khảo cho hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong khuôn khổ ASEAN. 7- Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia; Chương 2: Pháp luật quốc tế và pháp luật của các nước ASEAN về tương trợ tư pháp hình sự; Chương 3: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp hình sự giữa các quốc gia ASEAN. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ GIỮA CÁC QUỐC GIA 1.1. Khái niệm tương trợ tư pháp hình sự Hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp đã xuất hiện và hình thành từ lâu đời, việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự cũng ra đời từ khá sớm. Từ thời kỳ cổ đại, nhà nghiên cứu Christopher L. Blakesley đã khẳng định:“Trong thực tế, văn bản ngoại giao được biết đến sớm nhất có chứa một phần quy định về sự lộ diện của những kẻ trốn chạy. Đó là Hiệp ước về Hòa bình giữa Ramses II, Pharaon của Ai Cập, và vua Hittite Hattusili III, được ký sau khi các nước cố gắng xâm chiếm Ai Cập. Văn bản này được viết bằng chữ tượng hình, được khắc trên Đền của Ammon ở Karnak và nó cũng được bảo quản trên những chiếc bàn bằng đất sét ở Akkodrain trong kho Hittite của Boghazkoi. Văn bản này được coi là các ví dụ sớm nhất về các thỏa thuận về dẫn độ và những biểu hiện của nó mà trong đó dẫn độ chỉ là một phần của một văn bản lớn được thiết kế dành cho một mục đích lớn. Đối với các văn bản về dẫn độ đầu tiên của thời kỳ hiện đại cũng vậy” [19]. Quan niệm này cũng được thể hiện ở các công trình nghiên cứu của một số học giả Việt Nam [17, Tr.341]. Hiệp ước hòa bình được ký kết giữa vua Hittite Hattusili III và hoàng đế Ai Cập Rames II vào năm 1296 trước Công nguyên, bao gồm 18 điều khoản, đề cập chủ yếu đến các hoạt động hợp tác duy trì hòa bình giữa hai quốc gia. Hiệp ước trên quy định về dẫn độ tại Điều 10 như sau: “Nếu một người bỏ trốn từ Hattite đến Reamasesa, vị vua vĩ đại của quốc gia này sẽ giữ người đó và trao trả người này cho Hattusili, vị vua của nước Hattite; Nếu một người quý tộc bỏ trốn từ Hattite do không muốn phục vụ đức vua của đất nước này sang Ai Cập, vua Reamasesa sẽ không cho phép họ cư trú ở Ai Cập mà giao họ cho 7 Hattusili…”. Cho đến thời kỳ sau, lịch sử ghi nhận những điều ước quốc tế đa phương đầu tiên liên quan đến hoạt động dẫn độ như: Điều ước trong lĩnh vực tội làm tiền giả, vỡ nợ và giết người năm 1802, hay Công ước năm 1889 giữa các quốc gia Achentina, Bôlivia, Paragoay, Pêru, Urugoay về luật hình sự quốc tế [7]. Ngày nay, cùng với tiến độ phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của mỗi quốc gia, quan hệ hợp tác giữa các nước láng giềng cũng ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, việc hợp tác quốc tế này cũng có hai mặt, mặt tích cực là nó tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển mọi phương diện của đời sống kinh tế - xã hội, mặt trái là làm phát sinh một số loại tội phạm mới có tính chất xuyên quốc gia, như tội phạm về ma túy, tội rửa tiền, tội khủng bố, các tội phạm sử dụng công nghệ cao hay điển hình như tội mua bán người,… Thực tiễn cho thấy, tội phạm có tính chất quốc tế đang diễn biến ngày càng phức tạp cả về phương thức, quy mô cũng như hậu quả. Chính vì lý do đó, tại phiên họp cuối năm 2000 của Liên hợp quốc tại Palermo (Italia), Tổng thư ký Liên hợp quốc, khi ấy là ông Kofi Annan, đã bày tỏ rằng, nếu như tội phạm vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì thực thi pháp luật cũng phải vượt ra ngoài lãnh thổ, nếu pháp luật bị xâm phạm không phải chỉ ở một quốc gia mà ở nhiều quốc gia thì công tác đấu tranh chống lại nó không thể chỉ giới hạn trong khả năng của mỗi nước, nếu kẻ thù của tiến bộ và quyền con người tìm cách lợi dụng sự mở cửa và hội nhập toàn cầu vì mục đích phạm tội thì chúng ta cũng sẽ sử dụng cơ hội như vậy để bảo vệ quyền con người và đánh bại các loại tội phạm…[18]. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia là tối cao, bất khả xâm phạm, nên quyền lực quốc gia chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Do đó, trong các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các cơ quan tư pháp của một quốc gia không thể tự nhân danh mình tiến hành các hoạt động tố tụng 8 thông thường mà phải thông qua sự giúp đỡ, tương hỗ của quốc gia khác. Trong pháp luật quốc tế, hoạt động tố tụng này được gọi là “tương trợ tư pháp về hình sự” hay “mutual legal assistance in criminal matter”. Cụ thể, trong các văn bản pháp luật quốc tế hiện đại, khái niệm này xuất hiện một cách chính thức trong Công ước của Liên hợp quốc về chống buôn lậu ma túy và chất hướng thần năm 1988, Luật mẫu của Liên hợp quốc quy định về tương trợ tư pháp hình sự năm 1990 [11]. Trong các điều ước quốc tế đa phương, song phương và trong pháp luật của hầu hết các quốc gia ngày nay đều ghi nhận và đề cập đến khái niệm tương trợ tư pháp hình sự. Cùng với sự khác biệt của hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, hợp tác quốc tế về tư pháp cũng có nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau. Theo quan điểm của các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, tương trợ tư pháp hình sự được hiểu là việc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của các quốc gia giúp đỡ lẫn nhau trong việc tống đạt giấy tờ, tài liệu, thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt, theo những trình tự, thủ tục trong một vụ việc tố tụng tư pháp. Phạm vi hợp tác được các quốc gia xác định cụ thể và ngày càng mở rộng. Trong khi đó, các nước theo hệ thống thông luật lại không đưa ra một quan niệm chung về tương trợ tư pháp hình sự, trước hết, nó bao gồm các hoạt động dịch vụ tống đạt giấy tờ, tài liệu tư pháp, hoạt động thu thập chứng cứ ở nước ngoài. Tại các nước xã hội chủ nghĩa, tương trợ tư pháp hình sự được định nghĩa và áp dụng tương đồng với các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Tuy nhiên, phạm vi thực hiện tương trợ tương đối rộng, bao gồm nhưng không giới hạn các hoạt động tư pháp như: lập, tống đạt giấy tờ, điều tra thu thập chứng cứ; công nhận và thi hành án dân sự của Tòa án và quyết định của Trọng tài nước ngoài khám xét, thu giữ, chuyển giao vật chứng; trưng cầu giám định; 9 lấy lời khai của các bên, lời khai nhân chứng, tiến hành truy cứu hình sự,…. Tựu chung lại, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát như sau: Tương trợ tư pháp về hình sự là việc cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia liên quan, căn cứ vào các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia thực hiện một hoặc một số hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong việc điều tra, truy tố hoặc các thủ tục tố tụng khác để giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài. 1.2. Đặc điểm và nguyên tắc tương trợ tư pháp hình sự 1.2.1. Đặc điểm của tương trợ tư pháp hình sự Từ khái niệm tổng quan nêu trên, có thể nhận thấy tương trợ tư pháp về hình sự có thể thấy tương trợ tư pháp về hình sự có những đặc điểm sau: Thứ nhất, chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự đều được pháp luật quốc gia quy định và chỉ rõ. Pháp luật Việt Nam quy định các cơ quan thực hiện tương trợ tư pháp bao gồm Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Cơ quan điều tra. Tương tự như vậy, phía nước ngoài cũng có các cơ quan có thẩm quyền tương ứng được quy định trong pháp luật mỗi quốc gia. Thứ hai, phạm vi của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự được xét theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, hoạt động tương trợ tư pháp hình sự sẽ chỉ bao gồm các hành vi tố tụng riêng biệt do các bên thỏa thuận hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Hay nói cách khác, tương trợ tư pháp về bản chất là việc hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt, ví dụ như tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ, thi hành án,… Còn nếu hiểu theo nghĩa rộng, nó sẽ bao gồm cả dẫn độ, chuyển giao người bị kết án và một số hoạt động khác hỗ trợ việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự. Thứ ba, về cơ sở pháp lý để thực hiện tương trợ tư pháp. Hoạt động hợp tác quốc tế này được điều chỉnh bởi hệ thống các điều ước quốc tế đa phương, 10 các hiệp định song phương giữa các quốc gia và pháp luật các nước liên quan đến hoạt động tương trợ tư pháp đó. Thứ tự áp dụng như sau, điều ước quốc tế giữa các nước liên quan về tương trợ tư pháp được ưu tiên áp dụng, nếu không có điều ước quốc tế liên quan thì việc tương trợ tư pháp sẽ được thực hiện theo pháp luật của quốc gia được yêu cầu thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại. Thứ tư, đây là hoạt động hợp tác quốc tế hướng đến mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và các công dân của các quốc gia trên lãnh thổ của nhau, đồng thời đấu tranh với tội phạm có tính chất quốc tế, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Ngoài ra, tương trợ tư pháp về hình sự cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc củng cố và phát triển mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia. 1.2.2. Nguyên tắc tương trợ tư pháp hình sự Tương trợ tư pháp về hình sự là hoạt động hợp tác quốc tế điển hình của tố tụng hình sự, là một phần không thể thiếu trong quan hệ đối ngoại của mỗi quốc gia. Việc thực hiện hoạt động trợ giúp tư pháp này phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia và phù hợp với nguyên tắc pháp luật quốc tế. Như vậy, về cơ bản tương trợ tư pháp hình sự tuân theo hai nhóm nguyên tắc: các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, và các nguyên tắc riêng biệt về tương trợ tư pháp hình sự. 1.2.2.1. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế Việc định hướng nội dung, hình thức hợp tác,... của hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự sẽ được xác định thông qua các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động này. Dưới góc độ lý luận, nguyên tắc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp được hình thành từ nhu cầu, mục đích hợp tác và do chính sách đối ngoại của mỗi Nhà nước quyết định. Trong quan hệ quốc tế, các quốc gia luôn phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia. 11 Nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia: Trong quan hệ quốc tế, sự khác biệt về chế độ chính trị, sự bất đồng về văn hóa, cũng như sự phát triển không đồng đều về kinh tế giữa các quốc gia đã dẫn đến những mâu thuẫn và xung đột ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, việc tình hình tội phạm có tính chất quốc tế ngày càng gia tăng cả về số lượng, tính chất, và mức độ nghiêm trọng, đã đặt ra một nhu cầu tất yếu về việc hợp tác giữa các quốc gia để phòng, chống loại hình tội phạm này. Việc hợp tác này chỉ có thể hiệu quả khi các quốc gia nghiêm túc tuân thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia,... Mỗi quốc gia khi thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự không được phép lợi dụng việc tương trợ này để dùng vũ lực hay các thủ đoạn nhằm xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổcủa quốc gia khác. Nguyên tắc không can thiệp vào những công việc thuộc thẩm quyền nội bộ của nhau: Xuất phát từ tính toàn vẹn lãnh thổ, các quốc gia không được phép trực tiếp hay gián tiếp, với bất kỳ lý do nào, can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Trong quá trình tương trợ tư pháp hình sự, các quốc gia, các quốc gia không được phép lợi dụng quá trình hợp tác quốc tế để can thiệp vào các vấn đề nội bộ của quốc gia khác. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế: Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện với sự thiện chí những nghĩa vụ của mình trong những thỏa thuận có hiệu lực theo những nguyên tắc và quy phạm được pháp luật quốc tế thừa nhận chung. Các quốc gia tham gia điều ước song phương và đa phương về tương trợ tư pháp hình sự phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc này thì mục đích hợp tác quốc tế mới có thể đạt được. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác: Mọi quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác để giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, duy trì hòa bình 12 và an ninh quốc tế. Bên cạnh đó, việc tương trợ tư pháp phải được quy định và thực hiện phù hợp với Hiến pháp, pháp luật quốc gia, nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên. Hiến pháp là đạo luật gốc của mỗi quốc gia, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tương trợ tư pháp cũng phải phù hợp và tuân theo tinh thần của Hiến pháp. Khi quốc gia tham gia, ký kết các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp, thì trong quá trình nội luật hóa và thực hiện các điều ước quốc tế, các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia phải nghiêm túc tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật quốc tế và các quy định của các điều ước này. Trong trường hợp có xung đột giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia, thì điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng. 1.2.2.2. Nguyên tắc riêng biệt của tương trợ tư pháp hình sự Nguyên tắc có đi có lại: Có nguồn gốc xuất phát từ thực tiễn khách quan trong lịch sử quá trình hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới. Nguyên tắc này không trái với nguyên tắc chủ quyền quốc gia, do đó được chấp nhận và áp dụng một cách phổ biến. Về mục đích, theo nguyên tắc này, khi một quốc gia được yêu cầu tương trợ tư pháp cho quốc gia khác thì quốc gia này sẽ chỉ đáp ứng thực hiện yêu cầu đó khi quốc gia được yêu cầu có cơ sở chắc chắn rằng khi xảy ra trường hợp tương tự, quốc gia đưa ra yêu cầu sẽ đáp ứng thực hiện yêu cầu của quốc gia này. Luật pháp các quốc gia và các điều ước quốc tế song phương, đa phương đều ghi nhận nguyên tắc có đi có lại. Khoản 10 Điều 3 Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự ASEAN quy định: “Các quốc gia thành viên, theo quy định pháp luật liên quan của nước mình, phải tương trợ trên cơ sở có đi có lại đối với tội phạm tương ứng mà không tính đến hình phạt được áp dụng”. Khoản 1 Điều 1 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga quy 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan