Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam hiện ...

Tài liệu Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam hiện nay từ thực tiễn quận đống đa, thành phố hà nội

.PDF
84
451
129

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ PHƯƠNG TÚ KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ PHƯƠNG TÚ KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Kinh Tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. Trần Quang Huy HÀ NỘI – 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn Vũ Thị Phương Tú MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................................................................... 6 1.1 Khái niệm thi hành án dân sự...................................................................... 6 1.2 Khái niệm kê biên và kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự 8 1.3 Khái quát chung lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự ở nước ta. .................................. 18 Chương 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................. 28 2.1 Thực trạng pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất trong Thi hành án dân sự ..................................................................................................................... 28 2.2 Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về kê viên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự tại quận Đống Đa, Hà Nội. ............................................... 41 Chương 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH TẠI QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................................. 66 3.1 Những kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự. ... 66 3.2 Những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ............................................................................................ 71 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 76 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT THADS Thi hành án dân sự QSDĐ Quyền sử dụng đất XHCN Xã hội chủ nghĩa TAND Tòa án nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Bảng tổng hợp kết quả thi hành án dân sự của Chi cục THADS quận Đống Đa, thành phố Hà Nội từ năm 2012 – 2016 và 7 tháng đầu năm 2017 (Về việc) ................................................................................................................. 43 Bảng 2.2: Bảng tổng hợp kết quả thi hành án dân sự của Chi cục THADS quận Đống Đa, thành phố Hà Nội từ năm 2012 – 2016 và 7 tháng đầu năm 2017 (Về tiền) .................................................................................................................. 44 Bảng 2.3: Bảng tổng hợp việc ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án của Chi cục THADS quận Đống Đa, thành phố Hà Nội từ năm 2012 – 2016 và 7 tháng đầu năm 2017 .................................................................... 44 Bảng 2.4: Bảng tổng hợp việc ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án của Chi cục THADS quận Đống Đa, thành phố Hà Nội từ năm 2012 – 2016 và 7 tháng đầu năm 2017 .................................................................... 45 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn thế giới có chiều hướng giảm xuống điều này ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Suy thoái kinh tế thế giới chính phủ ra chính sách thắt lưng buộc bụng nền sản xuất không phát triển, toàn nền kinh tế rơi vào tình trạng đình trệ thiếu vốn dẫn đến hàng loạt doanh nghiệp, cá nhân lâm vào tình trạng phá sản hoặc tiếp tục cầm chừng không đẩy mạnh đầu tư. Do đó việc khơi thông dòng vốn, xử lý nợ xấu đã trở thành một vấn đề bức thiết hơn bao giờ hết. Chính vì lẽ đó số lượng các vụ việc tranh chấp dân sự phải khởi kiện ra tòa án các cấp tăng lên một cách nhanh chóng kéo theo sự tăng lên của các việc Thi hành án dân sự. Để thi hành dứt điểm bản án đã có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, trong các biện pháp đó có biện pháp cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất nhằm giải quyết dứt điểm bản án có hiệu lực của Tòa án. Kê biên quyền sử dụng đất là biện pháp nghiêm khắc nhất mà Chấp hành viên áp dụng khi tổ chức thi hành án dân sự đòi hỏi rất cao về mặt chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo đức Chấp hành viên. Vì việc tổ chức kê biên quyền sử dụng đất có thuận lợi hay không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất hay không tùy thuộc vào việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế của Chấp hành viên. Mặt khác, việc kê biên quyền sử dụng đất sự phối hợp của các ban ngành các cấp là điều không thể thiếu nếu thiếu một thành phần theo quy định thì việc cưỡng chế kê biên không thể diễn ra đúng luật dẫn đến phải dừng, hoãn buổi kê biên, gây tổn hại rất lớn về kinh tế, tài sản của các bên. 1 Hơn nữa trong thực tế diễn ra khi cơ quan thi hành án dân sự tiến hành các biện pháp cưỡng chế thi hành án đặc biệt là cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất thì các quy định pháp luật về việc này còn thiếu, nhiều vướng mắc gây khó khăn khi tiến hành trong thực tế. Vì vậy việc nghiên cứu biện pháp kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng, nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Từ những lý do đó tác giả lựa chọn đề tài “Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” là đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Với xu hướng phát triển không ngừng của xã hội và nhu cầu khách quan của công tác thi hành án, trong những năm vừa qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án nói chung trong đó có liên quan đến vấn đề kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự nói riêng. Nó được thể hiện trong các công trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau như Đề tài: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001” do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số công trình nghiên cứu khác như Luận văn thạc sĩ luật học: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Phan Huy Hiếu năm 2011, Luận văn thạc sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về “Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam”. Bên cạnh đó là một số bài viết đăng trên các tạp chí như: “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề THADS năm 2010; Bài viết “Vì sao cưỡng chế thi hành án khó khăn” của tác giả Trần Đại Sỹ trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật Số 7/2008; Bài viết “Cưỡng chế thi hành án kê biên, kê biên khẩn cấp tạm thời, giải toả kê biên” của tác giả Đỗ Văn Thịnh trên tạp 2 chí Dân chủ và Pháp luật Số 12/2010; “Vấn đề cưỡng chế đối với người thứ ba” của tác giả Bùi Văn Yên và “Cần xử lý triệt để hành vi chiếm lại đất sau cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Hoàng Đoán trong số chuyên đề về THADS của Tạp chí dân chủ và pháp luật tháng 5 năm 2012; “Những điểm mới về cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS tháng 5 năm 2015. Mỗi công trình nghiên cứu ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Tuy nhiên tất cả đều có một điểm chung là hướng đến hoàn thiện pháp luật thi hành án nói chung nhằm nâng cao hiệu quả chung trong công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Dựa trên những ý tưởng gợi mở từ các công trình nêu trên, luận văn được xem như là một công trình nghiên cứu độc lập và có tính hệ thống về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án án dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về kê biên quyền sử dụng đất; các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên quyền sử dụng đất và thực tế việc thực hiện biện pháp cưỡng chế này trên địa bàn quận Đống Đa. Qua việc nghiên cứu nêu ra những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên quyền sử dụng đất và thực tế việc thực hiện kê biên quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Đống Đa từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao hiệu quả công tác kê biên quyền sử dụng đất. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về kê biên quyền sử dụng đất, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến thực tiễn áp dụng pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng kê 3 biên. Từ đó rút ra những giải pháp thiết thực để hoàn thiện pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả chung trong công tác thi hành án dân sự trong điều kiện mới của nước ta ngày nay. Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự cũng như áp dụng pháp luật trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến nay. Về không gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động và áp dụng pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để thi hành án dân sự trên phạm vi quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, tuy nhiên do giới hạn của luận văn thạc sỹ việc nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về kê biên quyền sử dụng đất như khái niệm, đặc điểm kê biên quyền sử dụng đất, ý nghĩa kê biên quyền sử dụng đất; các quy định của Luật THADS về kê biên quyền sử dụng đất và thực tiễn thực hiện biện pháp này trong những năm gần đây trên địa bàn quận Đống Đa. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ biến để làm sáng tỏ mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài như: Phương pháp trừu tượng hoá khoa học và phương pháp phân tích hệ thống: việc nghiên cứu hoạt động kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự được thực hiện một cách đồng bộ, gắn với từng giai đoạn, từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước về điều kiện phát triển kinh tế. Phương pháp thống kê, thu thập thông tin định lượng: luận văn đã sử dụng các số liệu tài liệu thống kê thích hợp để phục vụ cho việc phân tích, 4 đánh giá toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội trong 3 năm vừa qua. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có một số đóng góp mới như sau: - Phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành về kê biên quyền sử dụng đất. - Góp phần đánh giá đầy đủ, khách quan về thực trạng pháp luật và hiệu quả áp dụng pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất ở Việt Nam hiện nay. - Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật THADS Việt Nam hiện hành về kê biên quyền sử dụng đất và thực tiễn thực hiện trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội - Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật THADS Việt Nam về kê biên quyền sử dụng đất. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Chương 2: Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự và nâng cao hiệu quả thi hành án tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. 5 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1 Khái niệm thi hành án dân sự Theo đại từ điên tiếng Việt, thi hành là “Thực hiện điều đã chính thức quyết định”[14]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế. Bản án quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có hiệu quả, một mặt đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại. Thi hành án là hoạt động tư pháp bởi những lý do sau: Thi hành án là giai đoạn diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử và các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành hoạt động thi hành án. Song không thể nói đây là cơ sở pháp lý duy nhất, mà mới chỉ là điều kiện cần. Để tiến hành hoạt động thi hành án có hiệu quả, phải có các điều kiện đủ là có cơ quan thi hành án, các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành án được quy định cụ thể trong pháp luật thi hành án. Cho nên, hoạt động thi hành án không chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà chịu sự điều chỉnh của pháp luật thi hành án. Thi hành án không mang tính chất hành chính, bởi hành chính là hoạt động chấp hành, điều hành, các quyết định hành chính được đưa ra trên cơ sở mệnh lệnh có tính bắt buộc thi hành của cấp trên đối với cấp dưới. Hoạt động của cơ quan hành chính chủ yếu xoay quanh người đứng đầu là Thủ trưởng cơ 6 quan hành chính, trong khi đó thi hành án là hoạt động tư pháp có những điểm khác cơ bản. Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án như sau: Thi hành án là hoạt động tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Thi hành án dân sự là giai đoạn kết thúc của tố tụng dân sự mà trong đó cơ quan thi hành án đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành ra thi hành nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Bản chất của thi hành án dân sự là thi hành các quyết định của Tòa án tuyên trong bản án, quyết định mà không giải quyết lại nội dung vụ án và là giai đoạn bảo vệ quyền lợi cho các đương sự về mặt thực tế. Thi hành án dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng đó là bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thực tế trong cuộc sống, bảo đảm quyền lợi của đương sự bên cạnh đó thông qua việc thi hành án, Cơ quan thi hành án phát hiện sai sót của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật từ đó kiến nghị Tòa án có thẩm quyền kịp thời chỉ đạo công tác xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và kiến nghị trong việc lập pháp. Dưới góc độ lý luận, xung quanh khái niệm "dân sự" trong thi hành án dân sự hiện nay được hiểu là những bản án, quyết định liên quan đến quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Phạm vi của thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: bản án, quyết định về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự (phạt tiền, tịch thu tài sản, án phí); quyết định về tài sản và quyền tài sản trong bản án, quyết định hành chính; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành ở Việt Nam. Điều này cũng 7 hoàn toàn phù hợp với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới: việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (Luật dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động), được thực hiện theo một thủ tục chung mà không có sự tách bạch căn bản việc thi hành án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại hay lao động. Các bản án, quyết định được thi hành án không chỉ là các bản án, quyết định được ban hành bởi tòa án, của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và của trọng tài thương mại trong nước mà còn là những phán quyết được ban hành bởi Tòa án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài nhưng được tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ Việt Nam. Tóm lại, thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành những bản án, quyết định về phần dân sự của các cơ quan có thẩm quyền được thực hiện bởi cơ quan thi hành án dân sự theo trình tự thủ tục chặt chẽ theo qui định của pháp luật về thi hành án dân sự, nhằm đảm bảo quyền và lơi ích hợp pháp theo các quyết định trong các bản án, quyết định đã tuyên. 1.2 Khái niệm kê biên và kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự 1.2.1 Khái niệm kê biên Cưỡng chế là một tính chất cơ bản của pháp luật. Tính chất cưỡng chế làm cho pháp luật khác với đạo đức và phong tục. Theo Lênin thì pháp luật sẽ không còn là gì nữa "nếu không có một bộ máy có đủ sức cưỡng bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng như không". Các quy tắc đạo đức, phong tục được con người tuân thủ, chủ yếu nhờ vào sự tự giác, lòng tin, trình độ hiểu biết và lên án của xã hội; còn quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thi hành, nếu ai không chấp hành thì Nhà nước cưỡng chế thi hành. Sự cưỡng chế của pháp luật không phải đơn thuần nhằm mục đích trừng trị mà trước hết là răn đe, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, 8 giáo dục người vi phạm. Sự cưỡng chế ở đây được thực hiện trên cơ sở pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Nhà nước XHCN không thừa nhận các hành vi bạo lực trái với pháp luật trong việc xử lý các vi phạm pháp luật. Tính chất cưỡng chế của pháp luật không chỉ là răng đe, ngăn chặn, trừng trị, mà còn là sự giáo dục sâu sắc đối với các chủ thể pháp luật. Bản thân quy phạm pháp luật là chuẩn mực để con người rèn luyện ý thức công dân, hình thành ý thức pháp luật, tạo ra cho mỗi công dân một khả năng tư duy pháp lý, tránh được những ngẫu nhiên, tùy tiện, coi thường pháp luật Nhà nước. Tựu chung lại cưỡng chế được hiểu là Nhà nước dùng quyền lực của mình buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện một hành vi hoặc nghĩa vụ nhất định, theo quy định của pháp luật hoặc là quyền lực xã hội buộc mọi người phải tuân theo luật, lệ ... đã đặt ra. Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là một trong những phương pháp chủ yếu trong hoạt động quản lý nhà nước. Trong nhà nước Pháp quyền, việc cưỡng chế nhằm mục đích thi hành pháp luật của nhà nước, duy trì trật tự xã hội [9,tr.194]. Nhà nước thực hiện cưỡng chế thông qua nhiều biện pháp cưỡng chế, những biện pháp cưỡng chế này được Nhà nước trao quyền cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện như: cưỡng chế hành chính, cưỡng chế trong hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và cơ quan tòa án và cưỡng chế thi hành án. Trong hoạt động quản lý hành chính và xử lý vi phạm hành chính, cưỡng chế hành chính được UBND và các cơ quan hành chính thực hiện như: cưỡng chế hành chính đối với những đối tượng chống đối không di dời tài sản để giải phóng mặt bằng phục vụ cho quốc phòng hoặc các cá nhân, cơ quan, tổ chức vi phạm hành chính thì các cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật xử lý vi phạm hành chính như kê biên tài sản, khấu trừ tài khoản của cá nhân, tổ chức ...[19]. 9 Các biện pháp cưỡng chế của cơ quan điều tra được trao quyền cho thủ trưởng cơ quan điều tra thực hiện được quy định tại Khoản 2 Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự như: quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, kê biên tài sản ...[15]. Trong hoạt động tố tụng cơ quan tòa án cũng được Nhà nước trao quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự về các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: kê biên tài sản tranh chấp, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác ...[17]. Ngoài ra cơ quan THADS cũng được Nhà nước trao quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong THADS được quy định tại Điều 71 Luật THADS trong đó có biện pháp kê biên, xử lý tài sản …. [18] Theo Giáo trình kỹ năng về thi hành án dân sự của Học viện Tư pháp viết cưỡng chế THADS là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan THADS, do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định. Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc chốn tránh viện thi hành án.[9, tr.215] Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế: Để áp dụng được biện pháp cưỡng chế thi hành án, cần phải hội đủ các điều kiện sau đây: Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải thực hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án. Cho thấy, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ được áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ và hành vi phải thực hiện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, nhất là có thái độ và hành vi không tự nguyện thi hành án khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Theo khoản 6, Điều 3 Luật 10 THADS năm 2008, có điều kiện thi hành án là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Công tác THADS chỉ là một bộ phận của thi hành án nói chung. Ở nước ta hiện nay được phân ra làm hai bộ phận, thi hành án hình sự và THADS. Thi hành án hình sự được Chính phủ giao cho Bộ công an quản lý, công tác THADS được Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp quản lý. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án hình sự hà khắc hơn biện pháp cưỡng chế THADS. Sự khác biệt giữa thi hành án hình sự và THADS được thể hiện ở căn cứ và tính chất của cưỡng chế thi hành án. Nếu như căn cứ cưỡng chế thi hành án hình sự là phần hình phạt được tuyên trong quyết định của bản án hình sự đó là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và hình phạt tử hình. Thì căn cứ cưỡng chế trong thi hành án dân sự lại là: Theo Điều 70 Luật THADS năm 2008, căn cứ tổ chức cưỡng chế gồm có: bản án quyết định, quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp bản, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Về tính chất cưỡng chế hình sự có hiệu lực thi hành án ngay sau khi bản án hình sự có hiệu lực pháp luật, tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự đối với người phải thi hành án, họ không có thời gian tự nguyện thi hành án. Ngay sau có quyết định thi hành án, người phải thi hành án hình sự phải chấp hành ngay tức khắc, nếu không cơ quan công an tiến hành cưỡng chế bằng việc bắt hoặc dẫn giải người phải thi hành án đến các trại giam để thi hành án. Nhưng đối với việc cưỡng chế THADS chỉ đặt ra khi đương sự có đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS ra quyết định thi hành án, giao cho Chấp hành viên thực hiện, Chấp hành viên chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với người phải thi hành án sau khi đã hết thời hạn tự nguyện thi hành án ( theo khoản 1 điều 45 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 là 10 ngày) 11 trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Ngoài ra, cơ quan thi hành án dân sự không không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án. Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam, “Kê” nghĩa là tính toán, còn “biên” có nghĩa là ghi chép lại theo một trật tự nhất định[12]. Vậy kê biên có nghĩa là tính toán và ghi chép lại theo một trật tự nhất định. Thuật ngữ kê biên tài sản được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý của nước ta như Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993, 2004, Luật thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014… Do đó, có thể thấy rằng đây là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng nhiều trong pháp luật tố tụng dân sự. Trong từ điển pháp lý thông dụng có định nghĩa kê biên tài sản như sau: “Kê biên tài sản là việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu tán, phá hủy, để đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án”[13]. Như vậy, kê biên tài sản là một thuật ngữ pháp lý chỉ việc tính toán và ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ thể. 1.2.2 Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự Quyền sử dụng đất: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng đối với con người. Ở Việt Nam, khi nói đến quyền sở hữu đất đai, chúng ta thấy với tư cách chủ sở hữu, nhà nước có đầy đủ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai. Trong các quyền năng đó, quyền sử dụng là quyền có ý nghĩa thực tế lớn nhất, trực tiếp đem lại lợi ích cho chủ sở hữu. Nhưng Nhà nước không trực tiếp sử dụng mà giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sử dụng để khai thác lợi ích từ đất dưới các hình thức giao đất, cho thuê và bảo hộ việc nhận chuyển quyền sử dụng đất giữa người sử dụng với nhau. Như vậy, quyền sử dụng đất trước hiết được hiểu là một quyền tự nhiên, khi con người chiếm hữu đất đai thì họ sẽ thực hiện hành vi sử dụng 12 đất mà cụ thể là khai thác tính năng sử dụng đất mà không quan tâm đến hình thức sở hữu của nó. Thông qua hành vi sử dụng đất mà con người có thể thỏa mãn những nhu cầu của minh trong cuộc sống cũng như tạo ra của cải cho xã hội. Ngoài ra, quyền sử dụng đất được xem như một quyền năng pháp lý tức quyền năng này được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền sử dụng đất là một loại quyền đặc trưng của người sử dụng đất, nó được phái sinh từ quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Đây là loại quyền phát sinh trên cơ sở kết hợp một cách đặc thù quyền tài sản của chủ sở hữu với yếu tố quyền lực nhà nước. Yếu tố quyền lực nhà nước được thể hiện ở chỗ Nhà nước ban hành các quy định pháp luật một cách chặt chẽ về hình thưc, thủ tục, điều kiện, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ sử dụng đất đai. Quyền sử dụng đất là một trong loại tài sản có thể bị cưỡng chế kê biên đảm bảo thi hành các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Kê biên quyền sử dụng dất để thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng chế với người phải thi hành án sau khi đã hết thời gian tự nguyện thi hành án, do chấp hành viên tiến hành tính toán và ghi chép lại những quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người phải thi hành án theo một trật tự nhất định theo quy định pháp luật nhằm đảm bảo thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Kê biên quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự là một trong những biện pháp khó khăn và phức tạp nhất trong các biện pháp cưỡng chế hiện nay, đặc biệt là thực hiện kê biên đối với người phải thi hành án là cá nhân. Bởi vì như chúng ta đã biết đất đai là những tài sản lớn và vô cùng quan trọng của mỗi người, đó là nơi sinh hoạt, sản xuất của mỗi gia đình hay là nơi thiêng liêng, nơi có mộ phần ông bà, cha mẹ của người phải thi hành và cũng là nơi mà nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ họ đã sống nơi đó. Nên việc cưỡng chế, tước đi quyền năng của họ đối với tài sản này, buộc họ phải rời bỏ mảnh đất đó thì có sự chây ỳ không muốn thưc hiện, thậm chí là kháng cự, chống đối là điều không tránh khỏi. 13 Chính vì vậy, khi áp dụng biên pháp này phải đáp ứng đủ các điều kiện như: Theo bản án, quyết định của tòa án, người phải thi hành án phải có nghĩa vụ trả tiền cho người phải thi hành án; người phải thi hành án phải có tài sản để thi hành nghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án. Tài sản bị kê biên có thể là tài sản thuộc sử hữu chung, sở hữu riêng của người phải thi hành án, tài sản này có thể do người phải thi hành án hoặc do người thứ ba quản lý, sử dụng; đã hết thời gian tự nguyện do Chấp hành viên ấn định nhưng người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian tự nguyện, nhưng cần phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản [30, tr.211]. Ngoài ra kê biên QSDĐ cần phải lưu ý một số điểm được quy định tại Mục 8 Luật THADS[25] như: - Trước khi kê biên QSDĐ phải thông báo với Phòng đăng ký QSDĐ biết. Đồng thời Chấp hành viên yêu cầu Phòng đăng ký QSDĐ cung cấp thông tin về QSDĐ bị kê biên để làm cơ sở xử lý theo quy định của pháp luật. - Chấp hành viên chỉ được kê biên QSDĐ của người phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp về đất đai. - Khi kê biên QSDĐ, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản lý giấy tờ về QSDĐ phải nộp các giấy tờ đó cho cơ quan THADS. - Trường hợp kê biên QSDĐ có tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án thì Chấp hành viên kê biên cả QSDĐ và tài sản gắn liền với đất. Trường hợp tài sản gắn liền với đất không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án thì Chấp hành viên chỉ kê biên QSDĐ và thông báo cho người có tài sản gắn liền với đất biết để tháo dỡ, di rời. Kê biên QSDĐ là một trong nhiều biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án trong THADS như: kê biên hoa lợi, kê biên phương tiện giao thông, kê biên vốn góp, kê biên tài sản là đồ vật đang bị khóa hay đóng gói ...Tuy nhiên kê biên QSDĐ hiện nay là một trong những biện pháp kê biên 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan