Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam tại tỉn...

Tài liệu Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam tại tỉnh đồng tháp

.PDF
75
514
74

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT ______ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT KHÓA 38 (2012 – 2015) KHÁNG NGHỊ PHÖC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP Giảng viên hướng dẫn: THÂN THỊ NGỌC BÍCH Bộ môn: Luật Tƣ Pháp Sinh viên thực hiện: NGUYỄN HOÀNG DUY MSSV: S120005 Lớp: Luâ ̣t Hành Chính - K38 Cần Thơ, tháng 11/2014 NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................1 CHƢƠNG 1 ....................................................................................................................4 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ PHÖC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .......................................................................................4 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ...........4 1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ....................................................4 1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ...............................................5 1.1.3. Ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ..................................................6 1.2. Vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự .....................................................................................................................................7 1.2.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự...................7 1.2.2. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ..............7 1.3. Điều kiện kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ...................................................9 1.4. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự .......10 1.4.1. Cơ sở lý luận của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự .......................................10 1.4.2. Cơ sở pháp lý quy định kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ..............................12 1.5. Sơ lƣợc về quy định kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự của Viện kiệm sát nhân dân .......................................................................................................................13 1.5.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989 ........................................................................13 1.5.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến 2004 ........................................................................15 1.5.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay ...........................................................................16 CHƢƠNG 2 ..................................................................................................................18 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ KHÁNG NGHỊ PHÖC THẨM ...................................................................................................18 2.1. Phạm vi, thẩm quyền, thời hạn kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự .............18 2.1.1. Phạm vi kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ......................................................18 2.1.2. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ...............................................19 2.1.3. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự .....................................................21 2.2. Hình thức và nội dung quyết định kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ........24 2.3. Hậu quả của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ............................................26 2.4. Trình tự thủ tục kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ......................................28 2.4.1. Gửi quyết định kháng nghị cho Tòa án ...............................................................28 2.4.2. Thông báo về việc kháng nghị.............................................................................28 2.4.3. Gửi hồ sơ vụ án và kháng nghị ............................................................................29 2.5. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị phúc thẩm và hậu quả pháp lý của thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự .............................................29 CHƢƠNG 3 ..................................................................................................................34 KHÁNG NGHỊ PHÖC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP - BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN .......................................................................34 3.1. Thực tiễn thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm tại Đồng Tháp ..................34 3.1.1. Kết quả kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự của Viện kiểm sát hai cấp ............34 3.1.2. Đánh giá kết quả kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự ........................................36 3.1.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự tại tỉnh Đồng Tháp ..............................................................................................................38 3.1.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ............................................................40 3.2. Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng hiệu quả kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh Đồng tháp trong thời gian tới ......................44 3.2.1. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự tại tỉnh Đồng Tháp .............................................................................................47 3.2.2. Những kiến nghị về công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự tại tỉnh Đồng Tháp ...............................................................................................................................52 KẾT LUẬN ..................................................................................................................55 DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢO ...................................................................56 PHỤ LỤC Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kháng nghị phúc thẩm là một trong những chế định quan trọng trong tố tụng dân sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đây là cơ sở pháp lý cho Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, qua đó kịp thời phát hiện và khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới cả về nội dung cũng như hình thức tố tụng, đảm bảo sự công bằng của pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bản án, quyết định của Tòa án không chỉ có ảnh hưởng đến những người tham gia tố tụng mà còn ảnh hưởng tới sự công bằng của xã hội. Chính vì vậy, bản án, quyết định của Tòa án được tuyên ra phải đảm bảo chính xác, đúng pháp luật. Nhưng không phải trong mọi trường hợp Tòa án, đặc biệt là Tòa án cấp sơ thẩm đều đáp ứng được yêu cầu này. Cũng chính vì điều đó mà pháp luật quy định nguyên tắc hai cấp xét xử. Kháng nghị của Viện kiểm sát là một trong những cơ sở làm phát sinh thủ tục phúc thẩm và hiện thực hoá nguyên tắc hai cấp xét xử. Kháng nghị phúc thẩm là biện pháp quan trọng trong việc thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, đó là chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án. Từ khi Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 ra đời và được sửa đổi, bổ sung năm 2011, các quy định của pháp luật về tố tụng ngày càng được hoàn thiện, tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn còn những điểm chưa đầy đủ trong quy định của pháp luật về kháng nghị phúc thẩm dẫn đến việc kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân vẫn chưa đạt được kết quả tối ưu nhất, nhiều trường hợp các sai phạm của Tòa án cấp sơ thẩm vẫn chưa được khắc phục kịp thời, từ đó gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, làm cho mục đích xét xử không đạt được, làm giảm uy tín của Tòa án. Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về cải cách tư pháp trong Ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2020 theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị nhằm xây dựng nền tư pháp vững mạnh, dân chủ, công bằng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng dân sự về kháng nghị phúc thẩm là hết sức cần thiết. Từ những ý nghĩa cấp thiết nêu trên, cùng với mong muốn nghiên cứu của bản thân nên em đã chọn đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 1 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp 2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự. Do đó, tác giả tập trung trình bày những nội dung cơ bản của kháng nghị phúc thẩm về vụ án dân sự, cụ thể: đề tài tập trung nghiên cứu về các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chủ thể của quyền kháng nghị, thời hạn, thủ tục kháng nghị, việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị … đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm trong BLTTDS hiện hành. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu về thực tiễn kháng nghị phúc thẩm dân sự tại tỉnh Đồng Tháp, từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị thích hợp để nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong tiến trình cải cách và hoàn thiện hệ thống tư pháp. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, thống kê, so sánh, phương pháp lý luận kết hợp thực tiễn. 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở lý luận và thực tiễn, khóa luận đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự trong tố tụng dân sự Việt Nam. Cụ thể, để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Phân tích làm rõ khái niệm và ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự cũng như lịch sử hình thành và phát triển những quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự. - Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự. - Phân tích, đánh giá thực tiễn về hoạt động kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự (cụ thể tại tỉnh Đồng Tháp). Từ đó làm rõ những vướng mắc trong quy định của pháp luật, những tồn tại trong thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của những vướng mắc, tồn tại đó. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự. GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 2 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp 5. Cơ cấu khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự trong tố tụng dân sự. Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm. Chương 3: Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự tại tỉnh Đồng Tháp – Bất cập và giải pháp hoàn thiện. GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 3 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ PHÖC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự là quyền năng pháp lý mà pháp luật giao cho Viện kiểm sát nhân dân để kháng nghị đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật. Việc nghiên cứu hoạt động kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Để tìm hiểu về chế định kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự, dưới đây người viết trình bày một số vấn đề cơ bản về kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự trong quá trình nghiên cứu. 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự 1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng, là biện pháp pháp lý quan trọng và cần thiết để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, góp phần bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Như vậy, kháng nghị là một trong những hoạt động quan trọng thể hiện chức năng của Viện kiểm sát. Trong lịch sử tố tụng thì hoạt động kháng nghị đã xuất hiện rất lâu ở Việt Nam. Hiện nay có nhiều quan điểm và khái niệm khác nhau về hoạt động kháng nghị nói chung và kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự nói riêng. Về khái niệm “kháng nghị”, trong từ điển luật học1 có định nghĩa như sau: “Kháng nghị là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần nội dung bản án, quyết định của Tòa án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của Tòa án”. Cách định nghĩa này rất khái quát, đã nêu được chủ thể, đối tượng, thủ tục nhưng còn thiếu sót. Như trong thời gian kháng nghị phúc thẩm, bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu luật pháp luật. Vì vậy, kháng nghị không thể làm “ngưng” hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm (khoản 2 Điều 254 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011). Ngoài ra, khái niệm chưa nêu được chủ thể có quyền kháng nghị là Viện kiểm sát nhân dân. Từ phân tích trên, chúng ta thấy rằng khái niệm kháng nghị phúc thẩm phải nêu được các vấn đề như sau: 1 Từ điển Luật học, Bộ Tư Pháp, Viện Khoa học pháp lý, NXB từ điển Bách Khoa, NXB Tư Pháp, Ngày xuất bản 09/2006, trang 418. GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 4 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp - Về chủ thể có quyền kháng nghị là Viện kiểm sát nhân dân, ở đây là Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Khác với kháng nghị giám đốc thẩm, kháng nghị tái thẩm thì quyền kháng nghị chỉ dành cho Viện kiểm sát cấp trên và một số chủ thể khác. - Về đối tượng kháng nghị phúc thẩm phải là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định khi có hiệu lực pháp luật thì không phải là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm mà là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm, kháng nghị tái thẩm. Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành cũng như các văn bản pháp lý chưa có một khái niệm thống nhất về kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự. Trên cơ sở những quan điểm trình bày ở trên, người viết có khái niệm kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự như sau: “Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự là quyền mà Nhà nước giao cho Viện kiểm sát các cấp thực hiện thông qua một văn bản pháp lý, yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Thông qua việc kháng nghị phúc thẩm, Viện kiểm sát bảo vệ quan điểm, đồng thời nhằm khắc phục các vi phạm pháp luật nghiêm trọng đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật”. Tóm lại, kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự là thể hiện sự bất đồng - không thống nhất quan điểm đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm của chủ thể có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Khi có kháng nghị phúc thẩm thì việc xét xử là bắt buộc để kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, việc kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự là phù hợp với “nguyên tắc hai cấp xét xử” và đảm bảo cho nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự - Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành kiểm sát. Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 thì công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự là một trong những quyền năng được pháp luật quy định để ngành kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự. Đây thực sự là một quyền năng quan trọng và duy nhất mà pháp luật giao cho ngành kiểm sát để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp, nhằm mục đích phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, từ đó thực hiện thẩm quyền kháng nghị để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 5 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp - Kháng nghị phúc thẩm là công cụ đặc biệt và là một trong những biểu hiện rõ nhất về quyền năng của Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án. Trong quá trình Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên (cấp phúc thẩm) xét xử lại vụ án. Thông qua kháng nghị phúc thẩm, Viện kiểm sát đã thực hiện chức năng việc tuân theo pháp luật và kiểm sát trong hoạt động tư pháp của Tòa án. 1.1.3. Ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự Kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Khi Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị của mình đồng nghĩa với việc họ đã giúp Tòa án cấp trên biết những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp dưới để có sự chỉ đạo, hướng dẫn, kịp thời khắc phục những sai phạm và rút kinh nghiệm cho công tác xét xử, đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật thống nhất của Tòa án các cấp. Từ nội dung kháng nghị, các cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ thấy những vướng mắc trong quy định của pháp luật, từ đó có kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Việc quy định và thực hiện chế định kháng nghị phúc thẩm là cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục phúc thẩm. Khi có kháng nghị phúc thẩm Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành mở phiên tòa phúc thẩm xét xử lại vụ án về nội dung cũng như xét lại tính hợp pháp của bản án. Tòa án cấp phúc thẩm khi xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị và trong quá trình xét xử lại vụ án có khả năng phát hiện những sai lầm, thiếu sót trong việc xét xử sơ thẩm và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Qua đó, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Mặt khác, thông qua việc sửa chữa sai lầm của Tòa án cấp dưới, Tòa án cấp phúc thẩm hướng dẫn Tòa án cấp dưới giải thích và vận dụng đúng pháp luật. Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự còn có một ý nghĩa pháp lý quan trọng khác, là cơ sở để ghi nhận cũng như đảm bảo thực hiện một số nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự “ là cơ sở để hình thành nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. Vì vậy, kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật vừa thể hiện kết quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật vừa bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần vào việc giữ vững kỷ cương pháp luật, tăng cường pháp chế. Kháng nghị khi phát hiện thiếu sót trong bản án, quyết định của Tòa án không chỉ là quyền hạn mà còn là nhiệm vụ của Viện kiểm sát. GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 6 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp 1.2. Vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự 1.2.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự - Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự là công cụ hữu hiệu để đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động xét xử của Tòa án. Pháp chế là một chế độ và trật tự pháp luật trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh và triệt để. Viện kiểm sát thực hiện chức năng của mình, thực hiện quyền kháng nghị nói chung và quyền kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự nói riêng để đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án tuân theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh, đảm bảo mọi sai sót và mọi vi phạm đều được phát hiện và xử lý kịp thời. Đồng thời thông qua việc thực hiện quyền kháng nghị của mình, Viện kiểm sát cũng bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án được khách quan công bằng, không có sự nhân nhượng, ưu ái, xét xử phải áp dụng đúng pháp luật. - Việc thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chức năng của Viện kiểm sát là việc thực hiện tuân theo pháp luật và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử. Với vai trò là kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án xét xử lại vụ án, qua đó để Tòa án ra được một bản án chính xác, có căn cứ pháp luật. Việc thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng mà Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân. Khi Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, nếu xét thấy bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc sai phạm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật dân sự, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, xã hội và mọi quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng thì Viện kiểm sát phải có trách nhiệm yêu cầu đưa vụ án lên Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bằng quyền năng pháp lý do luật định đó là kháng nghị phúc thẩm. 1.2.2. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự được ghi nhận ngay trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 1960, văn bản Luật đầu tiên quy định về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát. Tại các Điều 17, 18, 19 Luật tổ chức VKSND năm 1960 quy định: Viện kiểm sát có quyền khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 7 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp Nhà nước và của nhân dân; kháng nghị đối với những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đã có hiệu lực pháp luật nếu thấy các bản án, quyết định đó có sai lầm. Quy định trên của pháp luật xác định thẩm quyền của Viện kiểm sát không chỉ phản ánh tầm quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích chung của xã hội mà sâu xa hơn là sự công bằng giữa các giá trị xã hội cần được bảo vệ. Tiếp sau Luật tổ chức VKSND năm 1960 đến Luật tổ chức VKSND năm 1981 và trực tiếp hơn là Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự tiếp tục được ghi nhận và quy định đầy đủ, cụ thể hơn. Đến Luật tổ chức VKSND năm 1992, tại Điều 4 quy định: “Khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, VKSND có quyền ra quyết định kháng nghị, kiến nghị…các quyết định kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của VKSND phải được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và công dân có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh theo pháp luật”. Rồi đến Luật tổ chức VKSND năm 2002 được ban hành thay thế Luật tổ chức VKSND năm 1992, nhiệm vụ kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát được quy định tại Điều 22: “Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình…và những việc khác theo quy định của pháp luật, VKSND có quyền kháng nghị ” và tại khoản 1, Điều 21 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định: “Viện KSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ, việc dân sự kịp thời đúng pháp luật”. Ta thấy, kể từ khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và được sửa đổi, bổ sung năm 2011 có hiệu lực, đặt ra nhiều vấn đề mới cho công tác kiểm sát dân sự: Viện kiểm sát các cấp phải đổi mới nhiều phương thức kiểm sát, trong khi chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự vẫn không thay đổi. Trong các phương thức kiểm sát dân sự, công tác kháng nghị phúc thẩm giữ vị trí quan trọng vì nó thể hiện được vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát. Do đó, để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự. Viện kiểm sát có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để phát hiện, yêu cầu khắc phục và phòng ngừa vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, kịp thời. Để có một quyết định kháng nghị phúc thẩm có chất lượng, đúng pháp luật, việc nắm vững quyền năng pháp lý quy định về thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát được quy định trong Luật tổ chức VKSND, Bộ luật Tố tụng dân sự là hết sức quan trọng. Chỉ có nắm vững thẩm quyền mới có điều kiện thực hiện tốt kháng nghị. Như nghiên cứu để kháng nghị phúc thẩm đối với một số loại án, trước hết phải xác định chính xác mối quan hệ tranh chấp, các đương sự tham gia vụ kiện, các thủ tục pháp lý trong tố tụng dân sự Tòa án đã áp dụng đầy đủ, đúng pháp luật chưa, trong trường hợp có GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 8 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp sai sót về thủ tục thì khi nghiên cứu để kháng nghị cần được phân tích, đánh giá để làm rõ vi phạm trong kháng nghị. Đặc biệt là về nội dung, mỗi loại việc đều có tính đặc thù riêng, phải đánh giá chính xác vi phạm của bản án, quyết định, các điều luật áp dụng, các văn bản của liên ngành quy định. Trên cơ sở đó để có nhận định, đánh giá vi phạm và đề xuất đường lối giải quyết ở trình tự phúc thẩm. Quyết định kháng nghị cần phải kiểm tra kỹ về hình thức và nội dung trước khi ban hành. Nhìn chung, kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân đối với bản án, quyết định dân sự sơ thẩm của Tòa án là một trong những biện pháp thể hiện rõ nét nhất chức năng kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc giải quyết vụ việc của Tòa án. Kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân góp phần phát hiện và khắc phục vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Vì vậy, kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự vừa là nhiệm vụ vừa là quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động của Tòa án trong việc thụ lý giải quyết các vụ, việc dân sự. Viện kiểm sát không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức mà còn bảo đảm mọi hoạt động của cơ quan xét xử, bản án, quyết định của Tòa án phải có căn cứ và đúng pháp luật. 1.3. Điều kiện kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự Để thực hiện việc kháng nghị phúc thẩm có chất lượng, đúng pháp luật việc đánh giá quyết định, bản án của Tòa án những vi phạm về nội dung là rất quan trọng, phải căn cứ vào những quy định của pháp luật về nội dung để thể hiện quan điểm trong quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát. Trước hết đó là Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác như: Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia đình…Nghị quyết của quốc hội, Uỷ ban Thường vụ quốc hội, các Nghị định của Chính phủ, các Thông tư liên tịch, Nghị quyết Hội đồng thẩm phán TANDTC và các văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền khác liên quan đến dân sự, trong đó, chú trọng vận dụng những văn bản hướng dẫn của ngành Kiểm sát hoặc liên ngành TANDTC – VKSNDTC về một số vấn đề cụ thể trong áp dụng pháp luật tố tụng, pháp luật nội dung đã được sự thống nhất của hai ngành. Những văn bản pháp luật hiện nay quy định về thủ tục, về nội dung làm căn cứ kháng nghị phúc thẩm nhiều, tuy nhiên để xây dựng thành những tiêu chí làm căn cứ kháng nghị, trên cơ sở quy định của pháp luật và hoạt động thực tiễn khi thực hiện kháng nghị phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật cần có một trong những căn cứ sau đây: - Việc điều tra vụ án không đầy đủ; GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 9 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp - Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; - Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; - Có sai lầm nghiêm trọng việc áp dụng pháp luật. Đó là tiêu chí đánh giá vụ án dân sự cần được kháng nghị phúc thẩm, trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm một trong 04 căn cứ trên thì Viện kiểm sát thực hiện kháng nghị phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi xem xét những vi phạm về thủ tục (Điểm 03 nêu trên) phải lưu ý là vi phạm đó có tính nghiêm trọng hay không (Ví dụ như: Vụ án không đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng; không tham gia hòa giải..). Cũng chính từ việc vi phạm về thủ tục đó dẫn tới nội dung vụ án có sai sót, không bảo vệ được quyền lợi của những người liên quan. Vì vậy, Viện kiểm sát cần kháng nghị để khắc phục. Trong trường hợp có vi phạm tố tụng, nhưng ít nghiêm trọng, chưa đến lúc phải kháng nghị. Ví dụ: Khi xét xử vụ án chia thừa kế, thủ tục triệu tập một đương sự là người có quyền lợi liên quan chưa hợp lệ nên họ vắng mặt tại phiên tòa, song bản án vẫn quyết định chia phần thừa kế đúng quy định pháp luật, sau đó họ cũng không kháng cáo, trong trường hợp này thì Viện kiểm sát chỉ cần kiến nghị để yêu cầu Tòa án khắc phục những vi phạm tương tự. Còn các vi phạm những căn cứ khác như: Việc điều tra không đầy đủ; Kết luận trong bản án, quyết định sai lệch với những tình tiết khách quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật thì cần thiết kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. 1.4. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự 1.4.1. Cơ sở lý luận của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự - Trong xã hội, ngoài cá nhân còn có nhiều tổ chức với quy mô, hình thức khác nhau hình thành nên trật tự xã hội. Để tồn tại và phát triển, mọi cá nhân, tổ chức đều tham gia vào các quan hệ xã hội nhằm dịch chuyển, lưu thông các giá trị vật chất, tinh thần, nó được xem là lợi ích của mỗi bên trong các quan hệ đó. Do vậy, việc pháp luật ghi nhận, bảo vệ lợi ích đó, không chỉ có ý nghĩa bảo vệ lợi ích của Nhà nước, cộng đồng mà còn nhằm giữ vững sự ổn định chung của xã hội. Về nguyên lý, pháp luật bảo hộ lợi ích của Nhà nước, cộng đồng đều theo nguyên tắc bình đẳng, nhưng xét trên phương diện vai trò tác động, ảnh hưởng chi phối của mỗi chủ thể đến trật tự xã hội thì việc bảo hộ lợi ích đối với các chủ thể này thể hiện sự nghiêm minh, chặt chẽ ở mức độ khác nhau. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, hậu quả thiệt hại đến lợi ích của chủ thể, pháp luật quy định các phương thức bảo hộ khác nhau thông qua việc áp dụng trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm dân sự. Xét riêng về trách nhiệm dân sự, việc bảo vệ lợi GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 10 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp ích hợp pháp được thực hiện trên cơ sở hoạt động xét xử của Tòa án bằng các phán quyết áp dụng hình thức trách nhiệm pháp lý cụ thể đối với người có hành vi vi phạm. Do đó, Tòa án với nhiệm vụ thực hành quyền tư pháp của Nhà nước, trong phạm vi xét xử của mình phải đảm bảo xét xử đúng pháp luật, hoạt động xét xử của Tòa án dựa trên nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; Bản án, quyết định của Tòa án không chỉ ảnh hưởng đến những người tham gia tố tụng mà còn ảnh hưởng đến sự công bằng của xã hội. Chính vì vậy, bản án, quyết định của Tòa án được tuyên ra phải đảm bảo chính xác, đúng pháp luật. Nhưng không phải trong mọi trường hợp Tòa án, đặc biệt là Tòa án cấp sơ thẩm đều đáp ứng được nhu cầu này. Cũng chính vì điều đó mà ngoài việc kháng cáo của đương sự đối với bản án phúc thẩm thì quy định về kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực của Tòa là hết sức cần thiết vì Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử tại phiên tòa nên nên quan điểm của Viện kiểm sát về hoạt động xét xử này là thể hiện sự thống nhất hay không thống nhất với đường lối xét xử của Tòa án ngay khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật. Quan điểm này không phụ thuộc vào sự chủ quan cá nhân đồng tình hay không đồng tình với phán quyết của Tòa án mà là quan điểm khách quan của cơ quan bảo vệ pháp luật đối với phán quyết của Tòa án có căn cứ. - Trong tình hình hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế, giao lưu dân sự ngày càng nhiều và rất đa dạng, tranh chấp dân sự cũng từ đó phát sinh nhiều và ngày càng phúc tạp. Pháp luật về dân sự, kinh tế tuy đã được sữa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa theo kịp sự phát triển của xã hội, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới. Nên khi có vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự phức tạp sẽ làm nảy sinh tranh chấp khiếu kiện kéo dài, nhiều trường hợp phải xử đi xử lại nhiều lần nhưng vẩn chưa kết thúc, thậm chí có những trường hợp bức xúc có những hành động gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, làm giảm lòng tin của người dân đối với pháp luật và Nhà nước. Việc kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng dân sự sẽ kịp thời phát hiện các sai sót, vi phạm trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm, sẽ mang lại kết quả thiết thực, tạo được niểm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. - Một yêu cầu cũng hết sức quan trọng trong tình hình hiện nay là việc áp dụng pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật dân sự đòi hỏi phải bảo đảm tính minh bạch và công bằng, mọi người đều được hưởng sự bình đẳng của pháp luật, nhất là trong tình hình người dân nhận thức về pháp luật còn hạn chế, chưa phân biệt được đúng sai trong quá trình giải quyết tranh chấp, nên không tự bảo vệ được mình khi quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình bị xâm phạm. Trong thực tế có không ít những trường hợp tranh GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 11 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp chấp, sau khi được Tòa án giải quyết, đương sự không biết phán quyết của Tòa án là đúng hay sai, không biết quyền lợi hợp pháp của mình có bị xâm phạm hay không nên họ không làm đơn kháng cáo. Khi bản án, quyết định có hiệu lực được đưa ra thi hành mới phát hiện những sai lầm, nghịch lý, không thể thi hành được. Ngược lại, có nhiều trường hợp đương sự phải chấp nhận thi hành những bản án sai mà họ không hề biết, nếu không có sự phát hiện và can thiệp của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Kháng nghị phúc thẩm diễn ra khi bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực nhằm giải quyết, ngăn chặn, khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong việc xét xử và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó để không gây ra những thiệt hại làm ảnh hưởng quyền lợi, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng. - Mặt khác, việc quy định kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát khi có vi phạm giúp cho Tòa án cấp phúc thẩm có điều kiện xem xét những sai lầm, thiếu sót trong việc xét xử sơ thẩm và có sự chỉ đạo, hướng dẫn, kịp thời khắc phục những sai phạm và rút kinh nghiệm cho công tác xét xử, đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật thống nhất của Tòa án các cấp. - Từ những vấn đề nêu trên, kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự còn có một ý nghĩa pháp lý quan trọng khác, là cơ sở để ghi nhận cũng như đảm bảo thực hiện một số nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự “ là cơ sở để hình thành nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. Tòa án là cơ quan được Nhà nước giao quyền xét xử, chính vì vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định khi có kháng nghị phúc thẩm đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm sự công bằng của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, cũng như đảm bảo mục đích xét xử thì thì chế định kháng nghị phúc thẩm đặt ra là yêu cầu tất yếu. 1.4.2. Cơ sở pháp lý quy định kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự Căn cứ pháp lý để Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự được quy định trong BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011, trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và được hướng dẫn trong quy chế nghiệp vụ do Viện trưởng VKSND tối cao ban hành. Điều 250 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định: “ Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”. Tiếp đó, các Điều từ 251 đến Điều 256 BLTTDS sửa đổi, bổ sung 2011 quy định về thời hạn, thủ tục kháng nghị phúc thẩm. Luật Tổ chức VKSND 2002 quy định tại Điều 6: “Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định kháng nghị, kiến GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 12 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản đó”. Điều 21 quy định: “Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình… và những việc khác theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn… yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình… và những việc khác theo quy định của pháp luật để xem xét, quyết định việc kháng nghị”; Tiếp theo, Điều 22 quy định: “Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình…và những việc khác theo quy định của pháp luật, VKSND có quyền kháng nghị”. Khoản 1, Điều 21 BLTTDS 2004 quy định: “Viện KSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ, việc dân sự kịp thời đúng pháp luật”. Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự ban hành kèm theo quyết định số 567/QĐ-VKSTC ngày 08/10/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao tại khoản 1, 2 Điều 9 đã quy định thẩm quyền và hướng dẫn quy định về thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm. Như vậy kháng nghị phúc thẩm là việc thực hiện quyền năng pháp lý của VKSND , là một trong những hoạt động rõ nhất về chức năng giám sát, kiểm tra của VKSND đối với hoạt động Tố tụng dân sự của TAND ở giai đoạn sơ thẩm. Việc kháng nghị đúng pháp luật, giúp Tòa án ra được bản án có căn cứ, hợp pháp là góp phần nâng cao hiệu lực pháp luật, tăng cường pháp chế theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. 1.5. Sơ lƣợc về quy định kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự của Viện kiệm sát nhân dân Ngày 2/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay sau khi ra đời, bộ máy Nhà nước đã nhanh chóng được thành lập để kịp thời lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ Nhà nước; Cùng với sự ra đời của Tòa án, thì hoạt động kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự của Viện kiểm sát nhân dân cũng hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn của lịch sử. 1.5.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngay sau khi giành được chính quyền,. Ngày 09/1/1946, Quốc hội ban hành Hiến pháp đầu tiên tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và quản lý bộ máy nhà nước. Các sắc lệnh về Tố tụng dân sự đã được ban hành như sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 đã quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán đã ghi nhận nguyên tắc “Tòa án thực hiện hai cấp xét xử”; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng quy định tại Điều 15: GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 13 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp “Công tố viên có quyền kháng cáo cả việc Hình và việc Hộ”. Trong tờ trình về Sắc lệnh này đã nêu rõ: “Trái với quan niệm xưa cho rằng việc hộ thường chỉ có lợi hoặc có hại riêng cho tư nhân nên xã hội không cần can thiệp đến, thì nay công tố Viện có kháng cáo các án hộ nếu xét thấy cần thiết”2. Sau năm 1954, đất nước ta bị chia cắt thành hai miền, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam vẫn chịu sự thống trị của chính quyền Ngụy Sài Gòn và đế quốc Mỹ. Vì vậy, hai miền Nam, Bắc có hai hệ thống pháp luật khác nhau. Trong hoàn cảnh mới của đất nước, bản Hiến pháp năm 1946 không còn phù hợp nên được thay thế bằng Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1959 - Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta ghi nhận sự ra đời của một loại hình cơ quan nhà nước mới trong bộ máy nhà nước, đó là cơ quan Viện kiểm sát. Tại Điều 105 Hiến pháp năm 1959 quy định “Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định”. Sự ra đời của mô hình Viện kiểm sát thay thế cho mô hình Viện công tố ở nước ta gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất - điều kiện nền tảng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới. Ngày 26/7/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã quy định: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố nhà nước, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Và quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân đã được quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Theo Điều 17 của Luật này, VKSND Tối cao và các VKSND địa phương có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cùng cấp và dưới một cấp. Đến năm 1975, đất nước ta được hoàn toàn thống nhất, mở ra thời kỳ cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội, ngành Kiểm sát được tổ chức và hoạt động trên phạm vi cả nước. Hệ thống Viện kiểm sát ở miền Nam mới được thành lập theo Sắc lệnh số 01/SL-76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định về tổ chức TAND và VKSND. Theo Điều 16 của Sắc lệnh này, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với các bản án và quyết định của TAND thấy cần xem xét lại. Cùng với sự độc lập của đất nước, Hiến pháp năm 1980 đã ra đời thay thế cho Hiến pháp 2 Xem: Bộ tư pháp, Tập luật lệ về tư pháp (theo các văn bản đã công bố đến ngày 10/7/1957), 1957, tr.10. GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 14 SVH: Nguyễn Hoàng Duy Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam tại tỉnh Đồng Tháp năm 1959. Cùng với bản Hiến pháp mới, quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát tiếp tục được quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 19813. Tóm lại, trong giai đoạn này từ khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được ban hành năm 1960, các vấn đề về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã được luật hóa cụ thể và được áp dụng thống nhất trong cả nước. 1.5.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến 2004 Đây là giai đoạn Nhà nước ta bước sang thời kỳ đổi mới, xóa bỏ nền kinh tế bao cấp, xây dựng kinh tế phát triển theo hướng cơ chế thị trường định hướng XHCN. Trên tinh thần Đại hội Đảng lần thứ VI (ngày 12/01/1986) là tăng cường quản lý bằng pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân. Ngày 29/11/1989, Hội đồng Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Tại Pháp lệnh này, kháng nghị phúc thẩm đã được quy định tại chương XI từ Điều 58 đến Điều 62, các vần đề căn bản như thẩm quyền kháng nghị, thời hạn kháng nghị… đều được quy định khá chi tiết trong Pháp lệnh. Nhằm cụ thể hóa các quy định về kháng nghị phúc thẩm, văn bản hướng dẫn đã được ban hành, cụ thể là Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phám TAND Tối cao đã hướng dẫn một số quy định về kháng nghị phúc thẩm trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Năm 1992 thì Luật tổ chức VKSND năm 1992 được ban hành thay thế Luật tổ chức VKSND năm 1981, kháng nghị phúc thẩm của VKSND được quy định tại khoản 4, Điều 17 “Khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, VKSND có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:…Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sư”. Bên cạnh đó, giai đoạn này, Nhà nước ta cũng ban hành 2 Pháp lệnh quy định về thủ tục kháng nghị phúc thẩm. Đó là Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động ngày 11/4/1996. Tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 vấn đề kháng nghị phúc thẩm được quy định tại các Điều 59 đến Điều 64; Trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, vấn đề kháng nghị phúc thẩm cũng được quy định tại các Điều 60 đến Điều 64. Hầu hết các quy định về kháng nghị phúc thẩm giải quyết vụ án kinh tế, lao động không có sự khác biệt nhiều so với những quy đinh trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Trên cơ sở kế thừa các quy định của các văn bản pháp luật trước (Luật tổ chức VKSND năm 1981, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh 3 Xem: khoản 4 Điều 13. GVHD: Thân Thị Ngọc Bích 15 SVH: Nguyễn Hoàng Duy
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan