ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI ANH DŨNG
KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ
CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN – 2013
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI ANH DŨNG
KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ
CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: Vũ Anh Tuấn
THÁI NGUYÊN – 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố
trong một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013
Tác giả luận văn
Mai Anh Dũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa
Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, cùng toàn thể các thầy cô
giáo đã tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho tập thể lớp
Cao học K19 - Văn học Việt Nam; Sở Giáo dục và Đào tạo Yên Bái; Phòng
Giáo dục và Đào tạo huyện Văn Yên; Ban Giám hiệu và tập thể giáo viên
trường THCS Lương Thế Vinh huyện Văn Yên đã tạo điều kiện để tôi có cơ
hội học tập và nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn thầy giáo - nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa
các dân tộc Hoàng Việt Quân - Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên
Bái đã tạo điều kiện giúp đỡ nhiệt tình trong suốt quá trình tôi tập hợp tư liệu
và tìm hiểu về con người, văn học - văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái; đồng
bào dân tộc Mông ở huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải đã giúp đỡ tôi rất
nhiều trong những chuyến đi thực địa.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS Vũ Anh
Tuấn - người thầy rất nghiêm khắc, tận tình trong công việc đã truyền thụ cho
tôi nhiều kiến thức quý báu cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa học trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013
Tác giả luận văn
Mai Anh Dũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ ...................................................................................................
Lời cam đoan....................................................................................................
Lời cảm ơn .......................................................................................................
Mục lục ........................................................................................................... i
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
NỘI DUNG ....................................................................................................7
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA
DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI...........................7
1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội và đời sống văn hóa
của dân tộc Mông ở Yên Bái .................................................................7
1.1.1. Đặc điểm địa - chính trị Yên Bái ......................................................7
1.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái ..........................8
1.2. Truyện cổ tích, truyện cổ tích thần kỳ ..................................................11
1.2.1. Truyện cổ tích.................................................................................11
1.2.2.Truyện cổ tích thần kỳ .....................................................................13
1.3. Tình hình sưu tầm và khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc
Mông lưu hành ở Yên Bái ...................................................................18
1.3.1. Trước Cách mạng tháng Tám - 1945 ..............................................18
1.3.2. Sau Cách mạng tháng Tám - 1945 ..................................................19
1.4. Khảo sát văn bản ..................................................................................23
1.4.1. Đặc điểm bản kể .............................................................................23
1.4.2. Tính dị bản .....................................................................................25
1.5. Phân nhóm truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái....27
Chương 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG TRONG TRUYỆN CỔ
TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở
YÊN BÁI...................................................................................30
2.1. Những phương diện cơ bản về mặt nội dung ........................................30
2.1.1. Truyện về người mồ côi..................................................................30
2.1.2. Truyện về người em........................................................................38
i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.1.3. Truyện về người con riêng..............................................................43
2.1.4. Truyện về người mang lốt...............................................................46
2.1.5. Truyện về người dũng sĩ .................................................................52
2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt về nội dung phản ánh giữa
truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái với
truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Kinh ...............................................57
2.2.1. Những điểm tương đồng......................................................................57
2.2.2. Những điểm khác biệt..........................................................................58
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH
THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI ..60
3.1. Kết cấu truyện ......................................................................................60
3.1.1. Phần mở đầu...................................................................................60
3.1.2. Phần nội dung.................................................................................62
3.1.3. Phần kết thúc ..................................................................................65
3.2.1. Đặc điểm xây dựng nhân vật chính. ................................................66
3.2.1.1. Nghệ thuật giới thiệu nhân vật. ...............................................66
3.2.1.2. Nghệ thuật sử dụng yếu tố thần kỳ..........................................67
3.2.2. Đặc điểm nhân vật người kể chuyện. ..............................................68
3.2.2.1. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật
thuần túy.................................................................................69
3.2.2.2. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật
xen với ngôn ngữ đối thoại của nhân vật chính .......................71
3.3. Không gian - thời gian nghệ thuật. .......................................................74
3.3.1. Không gian nghệ thuật....................................................................74
3.3.2. Thời gian nghệ thuật.......................................................................75
3.4. Một số biểu tượng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông
lưu hành ở Yên Bái.............................................................................77
KẾT LUẬN..................................................................................................82
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................85
PHỤ LỤC.........................................................................................................
ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1 Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Mỗi dân tộc lại có những
nét riêng về bản sắc văn hóa cũng như phong tục tập quán. Điều đó phần lớn
được thể hiện trong những lời ru, câu hò, điệu hát… và cả trong những câu
chuyện cổ tích được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Trong những năm
gần đây, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về việc chăm lo phát triển
văn hóa dân tộc, những người làm công tác văn hóa tư tưởng, văn nghệ dân
gian cùng những người yêu thích văn học dân tộc đã tiến hành sưu tầm truyện
dân gian trên khắp mọi miền đất nước. Số lượng các truyện cổ tích nói riêng
và truyện dân gian nói chung được sưu tầm ngày càng nhiều, góp phần làm
cho kho tàng văn học dân tộc ngày càng phong phú và giàu đẹp hơn. Song để
có được cái nhìn toàn diện, có cách đánh giá đúng đắn về giá trị truyện cổ tích
của mỗi dân tộc, khi tiến hành khảo cứu chúng ta phải tìm hiểu thêm về vị trí
địa lý, địa hình, lịch sử, lễ hội, phong tục tập quán… để thấy được các yếu tố
bên ngoài tác động, chi phối đến sự hình thành, phát triển của mỗi tác phẩm
văn học; thấy được sức sống bền bỉ của văn học dân tộc trong không gian,
thời gian. Việc khảo sát truyện cổ tích của mỗi dân tộc sẽ đánh giá được một
cách chính xác giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong mỗi truyện dân gian
của từng dân tộc. Qua việc khảo sát, ta sẽ thấy được nguồn gốc tộc người, đặc
điểm tính cách cũng như lối sống của từng dân tộc trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam.
1.2 Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa
miền Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ của Việt Nam. Ở vị trí cửa ngõ miền Tây
Bắc của Tổ quốc, đây còn là điểm dừng chân của các dòng người thiên di từ
đồng bằng Bắc Bộ lên, từ phương Bắc xuống sinh cư lập nghiệp. Hiện nay,
vùng đất Yên Bái là nơi quần cư của hơn 30 dân tộc anh em với dân số gần 70
vạn người, trong đó dân tộc Mông chiếm 8,1%. Hầu hết người Mông ở Yên
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bái sống ở các triền núi cao. Họ cư trú tập trung chủ yếu ở Trạm Tấu và Mù
Cang Chải. Là một người con được sinh ra trên mảnh đất Yên Bái anh hùng,
ngay từ thời ấu thơ tôi đã biết đến người Mông qua điệu múa khèn; được nghe
tiếng đàn Môi, lời hát giao duyên mộc mạc nhưng đằm thắm; được xem ném
Còn, đánh Pao trong lễ hội Gầu tào; được nghe những câu chuyện cổ tích
thần kỳ của người Mông. Qua đó, tôi nhận thấy rằng bản sắc văn hóa của
người Mông vô cùng phong phú, độc đáo. Đó là những nét riêng để phân biệt
văn hóa Mông với văn hóa các dân tộc anh em trên địa bàn cư trú. Truyện cổ
tích thần kỳ là một trong những yếu tố làm nên bản sắc văn hóa của người
Mông ở Yên Bái nói riêng và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung.
Người Mông luôn coi những câu chuyện cổ tích thần kỳ của dân tộc mình như
một báu vật để truyền lại cho con cháu đời sau.
1.3 Năm học 2002 - 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phát hành
bộ sách giáo khoa mới. Nhằm giúp học sinh tăng cường sự hiểu biết về văn
học của từng địa phương, qua đó bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương
đất nước, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn ở bậc học THCS đã dành ra
thời lượng 5 tiết/lớp/năm học để mỗi tỉnh (thành phố) giới thiệu về văn học
của địa phương mình cho học sinh. Năm học 2008 - 2009, Sở Giáo dục và
Đào tạo Yên Bái đã biên soạn công trình Ngữ văn địa phương trung học cơ
sở nhằm cung cấp tài liệu giảng dạy và học tập cho giáo viên và học sinh
THCS trong toàn tỉnh. Qua công trình trên, đội ngũ tác giả đã giới thiệu về
văn học các dân tộc tỉnh Yên Bái như: dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc
Dao, dân tộc Cao Lan và dân tộc Mông. Nhờ đó độc giả có thể thấy được
truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông cũng như truyện cổ tích của các dân
tộc anh em khác lưu hành ở Yên Bái có một vị trí rất quan trọng trong kho
tàng văn học dân gian.
1.4 Là giáo viên dạy Ngữ văn ở trường THCS Lương Thế Vinh
(huyện Văn Yên – tỉnh Yên Bái), tôi nhận thấy rằng việc khảo sát truyện dân
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
gian của dân tộc nói chung và truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên
Bái nói riêng sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn đầy đủ hơn về truyện dân gian
của dân tộc Mông ở Yên Bái. Với những lý do trên, chúng tôi đã quyết định lựa
chọn đề tài Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên
Bái để làm đề tài nghiên cứu. Việc lựa chọn đề tài này mặc dù gặp rất nhiều khó
khăn và vất vả, song nếu thành công chắc chắn nó sẽ có nhiều hữu ích.
2. Lịch sử vấn đề.
Tìm hiểu về văn hóa cũng như truyện cổ tích của mỗi dân tộc trong
mấy thập kỷ gần đây đã được những người làm công tác văn hóa tư tưởng,
văn nghệ dân gian cùng những người yêu thích văn học dân tộc lưu tâm. Xét
riêng ở tỉnh Yên Bái, việc sưu tầm nghiên cứu về văn hóa Mông cũng như
truyện kể dân gian Mông đã được chú ý. Cho đến nay, văn học cũng như
truyện cổ tích của dân tộc Mông ở Yên Bái mới chỉ được sưu tầm, dịch và
giới thiệu trên một số công trình hay tạp chí của địa phương và trung ương.
Qua quá trình khảo sát, chúng tôi chưa thấy có công trình nào giới thiệu
đầy đủ về truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Bên
cạnh đó, việc khảo sát các giá trị về nội dung và nghệ thuật của các truyện cổ
tích thần kỳ cũng chưa được tiến hành. Có thể những điều đó chưa phải là
mục đích của các công trình đã nghiên cứu. Về truyện dân gian của dân tộc
Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi mới chỉ thấy luận văn Khảo sát truyền
thuyết các dân tộc lưu hành ở Yên Bái của Thạc sĩ Phùng Thị Phương Hạnh
đề cập đến vấn đề này. Một số công trình khác của Lò Ngân Sủn, Trần Hữu
Sơn, Doãn Thanh, Minh Khương, Đinh Sơn, Hoàng Hạc, Hoàng Việt Quân
lại tập trung vào nghiên cứu văn hóa, dân ca, lịch sử mang tính tổng hợp chứ
không phải là công trình nghiên cứu văn học.
Chúng tôi nhận thấy rằng số lượng truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc
Mông lưu hành ở Yên Bái không những phong phú về số lượng mà còn đa
dạng trong việc thể hiện nội dung. Bên cạnh những điểm tương đồng trong
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
một vài truyện kể thì truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên
Bái có nhiều điểm khác biệt so với truyện cổ tích của các dân tộc anh em
khác. Chính điều đó đã làm nên sức hấp dẫn của truyện cổ tích thần kỳ của
dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
Trên cơ sở kế thừa thành tựu của những người đi trước, chúng tôi mong
muốn trong một giới hạn nhất định đề tài Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của
dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái sẽ là cơ hội để mình tiến hành tìm hiểu
các giá trị về nội dung và nghệ thuật làm nên giá trị của truyện dân gian dân
tộc Mông trên tinh thần khoa học và toàn diện nhất có thể, từ đó hướng tới
một cách hiểu và cách lý giải thuyết phục về cái hay, cái độc đáo và hấp dẫn
của truyện cổ tích dân tộc Mông ở Yên Bái. Hy vọng rằng việc nghiên cứu đề
tài này là một đóng góp của người viết trong việc phát hiện về bản sắc văn
hóa của dân tộc.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Khi thực hiện công việc, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm vào đối tượng
chính: Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái được sưu
tầm và giới thiệu trên các sách, báo, tạp chí; các phương tiện thông tin đại
chúng của trung ương và địa phương. Tiêu biểu là các công trình sau:
- Nàng Nu - truyện cổ dân tộc Mông do Minh Khương sưu tầm, Nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc (1997).
- Suối nước mắt - Tập truyện dân gian vùng Văn Chấn do Phạm Đức
Hảo sưu tầm, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc (1996).
- Ông vua ngốc - truyện cổ các dân tộc Hoàng Liên Sơn do Lò Ngân
Sủn biên tập, in tại xí nghiệp in Hoàng Liên Sơn (1989).
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong giới hạn của đề tài luận văn, chúng tôi sẽ tập trung vào việc khảo
sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Qua đó chỉ
ra những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong các truyện.
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.3. Mục đích nghiên cứu:
Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông là một tiểu loại đặc sắc, đậm
đà màu sắc văn hóa Mông. Qua việc nghiên cứu đề tài Khảo sát truyện cổ tích
thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi muốn góp phần gìn
giữ, bảo tồn và giới thiệu những nét đặc sắc trong truyện cổ tích của dân tộc
Mông ở Yên Bái đến độc giả và những người quan tâm đến vấn đề này.
4. Những đóng góp mới của luận văn.
4.1 Về lý luận:
- Thống kê và phân loại được truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông
lưu hành ở Yên Bái.
- Hiểu được mối quan hệ hữu cơ giữa văn học và các yếu tố ngoài văn
học: lịch sử tộc người, quan niệm sống, vùng đất, địa bàn cư trú, văn hóa…
Đó là những nhân tố quan trọng góp phần làm nên sức sống của truyện cổ tích
thần kỳ của dân tộc Mông.
4.2 Về nhận thức:
Kết quả mà luận văn đạt được chính là những giá trị nội dung cũng như
những giá trị nghệ thuật làm nên sự hấp dẫn trong truyện cổ tích thần kỳ của
dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
Mặt khác, kết quả mà luận văn nghiên cứu sẽ là nguồn tư liệu hữu ích
cho việc nghiên cứu và giảng dạy của giáo viên đứng lớp sau này khi giảng
dạy về văn học địa phương ở Yên Bái cũng như văn học các dân tộc thiểu số
ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích đề ra trong
phạm vi tự giới hạn, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng phối hợp
một số phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Từ việc khảo sát, thống kê, phân
loại, chúng tôi tiến hành tìm hiểu các giá trị về nội dung và nghệ thuật làm nên
nét riêng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Phương pháp đối chiếu, so sánh: Để làm nổi bật tính địa phương trong
truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi có so
sánh, đối chiếu với truyện cổ tích thần kỳ của người Việt và các thể loại tự sự
dân gian khác.
- Phương pháp điền dã: Chụp hình, ghi chép các thông tin có liên quan
đến truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
Trong các phương pháp nghiên cứu trên thì thống kê phân loại là
phương pháp được áp dụng tích cực trong quá trình xử lí tư liệu. Các tư liệu
được thống kê phân loại là cơ sở để đưa ra những phân tích, so sánh khoa học
có sức thuyết phục của đề tài. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu liên
ngành cũng được chúng tôi sử dụng trong cả quá trình nghiên cứu nhằm giải
mã văn hóa với một số biểu tượng trong văn học dân tộc Mông, từ đó làm
sáng tỏ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật. Điều này cũng phù hợp
với xu hướng nghiên cứu hiện nay.
Song song với việc vận dụng phối hợp các phương pháp trên, chúng tôi
còn vận dụng những kiến thức đã học được về các khoa học liên ngành như:
lý luận văn học, thi pháp học, phong cách học, phương pháp luận nghiên cứu
văn học… để phục vụ hiệu quả cho việc nghiên cứu cụ thể các vấn đề người
viết đã chọn làm đề tài cho luận văn.
6. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn được
thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu
hành ở Yên Bái.
Chương 2: Những đặc điểm về nội dung trong truyện cổ tích thần kỳ
của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
Chương 3: Những đặc điểm về nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kỳ
của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC
MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI
1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội và đời sống văn
hóa của dân tộc Mông ở Yên Bái
1.1.1. Đặc điểm địa - chính trị Yên Bái
Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa. So với các tỉnh
miền núi khác, Yên Bái có một vị trí địa lý khá đặc biệt. Phía Bắc giáp với
tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp tỉnh Tuyên Quang,
phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Yên Bái nằm giữa hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc,
nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ. Vì vậy
mà cả đặc điểm tự nhiên và kinh tế văn hóa xã hội của tỉnh có mối quan hệ
giao lưu và mang dấu ấn của cả ba vùng. Yên Bái là tỉnh giữ vị trí trọng yếu
về kinh tế và quân sự của Việt Nam và có lợi thế trong quá trình giao lưu với
các tỉnh bạn.
Yên Bái có diện tích tự nhiên là 6.888 km2 với ¾ là núi đồi; 01 thành
phố (Yên Bái), 01 thị xã (Nghĩa Lộ) và 07 huyện (Yên Bình, Lục Yên, Trạm
Tấu, Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Yên, Mù Cang Chải). Về địa hình, Yên Bái
cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo với ba dãy núi lớn đều có
hướng chạy là Tây Bắc - Đông Nam. Phía Tây của Yên Bái có dãy núi Hoàng
Liên Sơn - Pú Luông kẹp giữa sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ
Con Voi nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Chảy. Phía Đông có dãy núi đá vôi
kẹp giữa sông Chảy và sông Lô. Địa hình của Yên Bái tuy có phức tạp nhưng
vẫn được chia thành hai vùng lớn: vùng cao và vùng thấp. Vùng cao có độ
cao trung bình từ 600m trở lên (chiếm 67,56%). Vùng thấp có độ cao dưới
600m là phần diện tích còn lại.
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Do điều kiện khách quan và chủ quan mà địa giới của tỉnh Yên Bái
trước kia và ngày nay có nhiều thay đổi, song từ bao đời nay Yên Bái vẫn là
một vùng đất quan trọng của Tổ quốc. Dưới thời Hùng Vương, Yên Bái thuộc
Bộ Tân Hưng. Dưới thời Lý, Yên Bái thuộc châu Đăng. Dưới thời Trần, Yên
Bái thuộc lộ Quy Hóa. Từ thời Lê đến thời Nguyễn, Yên Bái nằm trong phủ Quy
Hóa, tỉnh Hưng Hóa. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Yên Bái đã sáp nhập với tỉnh
Lào Cai và Nghĩa Lộ lấy tên là Hoàng Liên Sơn. Từ tháng 8 năm 1991 cho đến
nay, Yên Bái được tách thành tỉnh riêng (bao gồm cả Nghĩa Lộ).
Với đặc điểm vị trí thuận lợi như thế, Yên Bái đã trở thành điểm thu
hút với các tộc người, các dòng người di cư đi tìm những vùng đất mới để
khai hoang và thiết lập lãnh địa của mình. Tỉnh Yên Bái đã thu hút được cả
những tộc người di cư từ phương Bắc xuống, từ phía Đông và từ phía Tây
sang. Từ đồng bằng lên. Chính vì vậy mà Yên Bái rất phong phú các thành
phần dân tộc, số dân tương đối đông và họ định cư ở đây từ rất sớm. Điều này
rất quan trọng đối với sự hình thành lịch sử văn hóa, văn học, truyền thống và
phong tục tập quán của từng dân tộc trên địa bàn cư trú.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái
Dân tộc Mông còn được gọi với tên khác là dân tộc Mèo (hay Miêu).
Theo công trình nghiên cứu Một số nét đặc trưng các dân tộc tỉnh Yên Bái
do Ban Dân vận và dân tộc tỉnh Yên Bái xuất bản vào tháng 6 năm 2000 thì
người Mông ở Yên Bái có 4 ngành: Mông hoa (Mông lềnh, ở Mù Cang Chải
gọi là Mông linh), Mông đen (Mông dú, ở Mù Cang Chải gọi là Mông đu),
Mông trắng (Mông đư, ở Mù Cang Chải gọi là Mông đơ), Mông đỏ (Mông
si). Trong đó người Mông đen chiếm số lượng đông hơn cả.
Người Mông ở tỉnh Yên Bái có khoảng 55.000 người, cư trú tập trung
tại 40 xã thuộc 5 huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn Yên, Trấn
Yên. Theo công trình nghiên cứu Tìm hiểu dân ca dân tộc Mông của tác giả
Hoàng Việt Quân (N.X.B Văn hóa Dân tộc, 2004) thì người Mông có 5
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngành: Mông hoa (Mông lềnh), Mông đen (Mông dú), Mông xanh (Mông
chúa), Mông trắng (Mông đư), Mông đỏ (Mông si). Các nhóm Mông trên tuy
có sự khác nhau đôi chút về tiếng nói nhưng lại cùng thuộc nhóm ngôn ngữ
Mông - Dao. Cả bốn nhóm Mông đều mặc vải lanh nhuộm chàm, riêng váy
của ngành Mông trắng để nguyên vải mộc. Chính chất liệu lanh đã tạo nên sự
khác biệt giữa trang phục của người Mông với trang phục của các dân tộc
khác. Đàn ông Mông thường mặc quần đũng thấp, áo cài vạt sang một bên,
thân áo lưng ngắn để hở một khoảng bụng. Phụ nữ mặc váy nhiều lớp, phủ
ngoài tạp dề trước và sau, áo ngắn cài khuy một bên, trên ống tay áo có khoác
nhiều khoang vải. Trên nền y phục, sắc độ các màu nguyên: đỏ, vàng, xanh,
đen cùng với kĩ thuật dệt, thêu, ghép màu vải, vẽ sáp ong, dân tộc Mông đã
tận dụng, sử dụng phương tiện tạo hình trên y phục.
Theo các nhà nghiên cứu thì người Mông có nguồn gốc chung với
người Dao. Từ thế kỉ VII đến thế kỉ IX sau công nguyên, Mông với Dao mới
tách ra thành hai cộng đồng riêng biệt. Những nhóm Mông đầu tiên di cư đến
Việt Nam cách đây chừng hơn 300 năm. Người Mông từ Quý Châu (Trung
Quốc) vào Lào Cai cách ngày nay hơn 200 năm. Trong đợt thiên di từ Quý
Châu đến Lào Cai vào đợt thứ 2 (từ năm 1840 đến năm 1869), có một đoàn từ
Bắc Hà xuống Phố Lu lên SaPa đi Than Uyên và tới Mù Cang Chải của Yên
Bái. Những người Mông chọn Mù Cang Chải làm điểm dừng chân lập kế sinh
nhai, lấy tên là “Xáo Mông”, sau đó họ mở rộng địa bàn sinh sống sang các
huyện lân cận như Trạm Tấu và Văn Chấn (Yên Bái). Đầu những năm 2000,
một phần đồng bào Mông mới đã di chuyển từ Lào Cai, Hà Giang và Sơn La
sang Yên Bái để định cư. Dân tộc Mông cư trú ở vùng đất cao nhất của tỉnh
Yên Bái. Dù có sống xen cư với các dân tộc khác nhưng họ vẫn quần tụ với
nhau thành cộng đồng và ở sống chủ yếu ở độ cao từ 700m - 1800m. Cuốn
Lịch sử Đảng bộ huyện Mù Cang Chải (1957 - 2002) xuất bản năm 2002
ghi rõ: “Đầu thế kỉ XVIII, người Mông từ Lào Cai vượt dãy Hoàng Liên Sơn
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
vào cư trú tại Nậm Kim và phát triển lên Mù Cang Chải (Lồng Cống, Lồng
Mù). Người Mông coi Lồng Cống, Lồng Mù là “vùng đất tổ” khi chết phải chỉ
đường cho về đây. Nhóm đầu tiên đến thuộc họ Vàng rồi đến các họ Thào,
Giàng, Sùng, Cứ, Hờ, Hảng, Mua, Lý, Phàng, Lầu… trong đó họ Giàng là
đông nhất”.
Về văn hóa, có thể khẳng định văn hóa của dân tộc Mông là văn hóa di
cư. Trong quá trình thiên di từ Quý Châu (Trung Quốc) sang Việt Nam, người
Mông đã mang theo những phong tục tập quán, lối sống, tín ngưỡng. Tuy đến
định cư tại vùng đất mới song người Mông vẫn luôn bị ám ảnh bởi những gì
đã diễn ra trong quá khứ của họ. Điều đó được thể hiện rõ qua các bài dân ca
Mông, các câu chuyện cổ mà họ mang theo trong quá trình thiên di tới vùng
đất mới. Người Mông ở Yên Bái có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Nói
đến văn hóa lễ hội dân tộc Mông, các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng
Gầu tào là lễ hội quan trọng nhất. Trong những ngày diễn ra lễ hội Gầu tào,
điệu múa khèn luôn là nghi lễ mở hội “chù Gầu tào”, sau đó là các trò chơi:
đám hát gầu plềnh (giao duyên trai gái), đám đánh tù lú (đánh quay), tâu tí
(cầu lông gà), đánh mảy pao. Trong lễ hội Gầu tào, những nghệ nhân điêu
luyện người Mông thường thổi khèn múa tua tài với nhiều động tác khá phức
tạp như trồng cây chuối, đi qua đòn ống bắc trên chảo thắng cố…
Về văn học, người Mông ở Yên Bái có một kho tàng văn học dân gian
rất phong phú, gồm nhiều thể loại: thần thoại, truyện cổ tích, các thể loại dân
ca và tục ngữ… Có loại được kể như văn xuôi, có loại kể dưới dạng truyện
thơ, bài ca mang tính chất li kì, hấp dẫn. Có thể nói rằng dòng đời của người
Mông luôn tắm mình trong các lễ nghi phong tục tập quán, các hoạt động đời
sống thực tiễn gắn liền với sinh hoạt văn hóa truyền thống mang đậm tính
nguyên hợp. Trong cộng đồng của mình, người Mông vẫn kể chuyện cổ tích
cho con cháu của mình nghe. Có thể nói truyện cổ tích đóng một vai trò quan
trọng góp phần làm nên sức hấp dẫn của văn học dân tộc Mông ở Yên Bái nói
riêng và của văn học Việt Nam nói chung.
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Người Mông cũng có chữ viết riêng. Chữ của người Mông ngày nay có
được là do cha đạo Sanina (cha đạo thuộc dòng thừa sai Paris vào truyền đạo
ở Việt Nam tạo nên bằng cách Latinh hóa theo mẫu chữ quốc ngữ). Những
con chữ cũng đã góp phần lưu giữ lại những nét văn hóa cổ truyền đặc sắc của
dân tộc Mông (trong đó có truyện cổ tích thần kỳ).
1.2. Truyện cổ tích, truyện cổ tích thần kỳ
1.2.1. Truyện cổ tích
Kể từ khi truyện cổ tích được quan tâm nghiên cứu, nhiều nhà nghiên
cứu đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích theo quan niệm và cách hiểu của
họ. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (NXB Giáo dục Việt Nam, 2011),
nhóm tác giả PGS. Lê Bá Hán - PGS.TS Trần Đình Sử - GS. Nguyễn khắc
Phi đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích như sau: “Truyện cổ tích là một thể
loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy nhưng chủ yếu phát triển
trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải những vấn
đề xã hội, những số phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu
muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là gia đình
phụ quyền), có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt” [18.368].
Trong cuốn Giáo trình Văn học dân gian (NXB Giáo dục Việt Nam,
2012), nhóm tác giả PGS.TS. Vũ Anh Tuấn - PGS.TS. Phạm Thu Yến - TS.
Nguyễn Việt Hùng - ThS. Phạm Đặng Xuân Hương lại đưa ra định nghĩa:
“Truyện cổ tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng
yếu tố nghệ thuật kì ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời
sống, bộc lộ quan niệm về đạo đức cũng như về công lí xã hội và ước mơ một
cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân lao động” [82.116].
Trong công trình nghiên cứu khoa học Truyện cổ tích trong con mắt
các nhà khoa học, GS. Chu Xuân Diên cho rằng sẽ thật khó khăn khi phải
xác định cho khái niệm truyện cổ tích một nội dung thật chặt chẽ, theo ông thì
truyện cổ tích có ba nội dung sau:
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
“1. Truyện cổ tích đã nảy sinh từ trong xã hội nguyên thủy, do đó có
những yếu tố phản ánh quan niệm thần thoại của nhân dân về các hiện tượng
tự nhiên, xã hội và có ý nghĩa ma thuật (…) chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề
xã hội, phản ánh nhận thức của nhân dân về cuộc sống xã hội muôn màu,
muôn vẻ với những xung đột đặc trưng cho các thời kỳ lịch sử (…).
2. Truyện cổ tích nói lên những quan điểm đạo đức, những quan niệm về
công lí xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn về cuộc sống hiện tại.
3. Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân
dân” [06.204].
Với tinh thần thâu tóm các đặc điểm chung của truyện cổ tích, trong cuốn
Văn học dân gian, Hoàng Tiến Tựu đã khái quát về thể loại này như sau:
“Truyện cổ tích là một loại truyện gắn liền với quá trình tan rã của chế
độ công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp.
Nó đặc biệt nói về các xung đột giữa người với người trong phạm vi gia đình
và xã hội. Nó dùng một thứ tưởng tượng hư cấu riêng, kết hợp các thủ pháp
nghệ thuật đặc thù khác để phản ánh đời sống và mơ ước của nhân dân, đáp
ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ, giáo dục giải trí của họ” [84.42]. Đây được
coi là khái niệm tương đối đầy đủ và sáng rõ về truyện cổ tích. Theo cách
hiểu này, ta có thể nắm bắt nội dung cơ bản và hình thức sáng tạo một cách
chung nhất của truyện cổ tích.
Qua việc tìm hiểu khái niệm về truyện cổ tích trong các công trình
nghiên cứu cũng như trực tiếp đọc các truyện cổ tích của Việt Nam và thế
giới, chúng tôi nhận thấy một số điểm cơ bản về thể loại cổ tích như sau:
Truyện cổ tích ra đời trong xã hội có sự phân chia giai cấp, đề cập và quan
tâm trước hết đến những nạn nhân xấu số cho nên chức năng chủ yếu của nó
là nhằm an ủi, động viên, bênh vực cho thân phận, phẩm chất của con người.
Chính vì thế mà thông qua mỗi câu chuyện, nhân dân lao động thường gửi
gắm ước mơ về một thế giới tốt đẹp, về sự công bằng, về sự thưởng phạt công
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
minh. Từ chức năng thể loại đó, ta có thể thấy truyện cổ tích có những đặc
trưng cơ bản như:
- Truyện cổ tích xây dựng một thế giới hư cấu, kì ảo.
- Truyện cổ tích là câu chuyện đã hoàn tất trong quá khứ, đã trọn vẹn
về cốt truyện, nhưng đồng thời cũng mang tính mở đặc trưng của văn bản văn
học dân gian ở cấp độ chi tiết, môtip.
- Truyện cổ tích mang tính giáo huấn cao, mỗi câu chuyện là một bài
học về đạo đức, ứng xử, về lẽ công bằng, thưởng phạt công minh.
Về việc phân loại, có rất nhiều cách phân loại truyện cổ tích, song hiện
nay chúng ta thấy phổ biến nhất là phân chia ra làm ba tiểu loại: truyện cổ
tích loài vật, truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt. Ở Nga, cách
phân chia này đã có từ năm 1865 do Ô. Mi lơ đề xuất. Cách phân loại này
được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Đây cũng là cách phân loại hợp
lí, vì ngoài tiêu chí chính là đề tài thì những yếu tố nghệ thuật khác (nhân vật,
tính kì ảo) cũng được tính tới trong khi phân loại. Chúng tôi thống nhất với
cách phân loại trên và trên cơ sở đó tìm hiểu về truyện cổ tích thần kỳ như
một tiểu loại nổi bật và đặc sắc của thể loại tự sự dân gian này.
1.2.2.Truyện cổ tích thần kỳ
Có thể nói truyện cổ tích thần kỳ là một sản phẩm sáng nghệ thuật độc
đáo và có ý thức của người xưa. Tuy ra đời, tồn tại và phát triển trong một
thời gian dài, hòa chung với mạch nguồn của văn học dân tộc song cho tới
nay các nhà nghiên cứu văn học dân gian vẫn chưa đưa ra một thuật ngữ
thống nhất về tiểu loại này. Hiện nay, các nhà nghiên cứu khoa học đã tìm tòi,
phân định bản chất, đặc điểm của truyện cổ tích thần kỳ.
Trong công trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập 1), Nguyễn
Đổng Chi đã đưa ra quan niệm: “Cổ tích thần kỳ là loại truyện tương đối có
nhiều nhân tố ảo tưởng nhất. Những truyền thuyết thần bí, kỳ quái, những
truyện người, truyện vật nhưng bên trong đầy dẫy những sự can thiệp của
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
huyền diệu đều có thể xem là cổ tích thần kỳ” [04.53]. Chính nhân tố ảo
tưởng đã tạo nên bao tình tiết kì thú, hấp dẫn mạnh mẽ trí tưởng tượng của
người nghe, thế giới không thực trong truyện cổ tích thần kỳ giúp người ta
thực hiện hóa những ước muốn không tưởng. Một phần của truyện cổ tích
thần kỳ là tàn dư của những tưởng tượng gắn liền với mê tín, ma thuật và các
hình thức tôn giáo thời nguyên thủy.
Nguyễn Đổng Chi còn cho rằng tác giả của truyện cổ tích thần kỳ nhiều
khi đã sử dụng lực lượng siêu nhiên để thắt nút, mở nút câu chuyện mà không
cần biết điều đó có hợp lý hay không.
Khi bàn luận về “Tinh thần phê phán xã hội và lý tưởng dân chủ - nhân
đạo trong truyện cổ và các thể tài dân gian khác ở giai đoạn đầu của chế độ
phong kiến”, nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh cũng phân tích đặc điểm của
truyện cổ tích thần kỳ. Từ khái niệm chung “truyện cổ về xã hội”, nơi phản
ánh xung đột xã hội diễn ra trong phạm vi gia đình phụ quyền và sự nảy sinh
của lý tưởng dân chủ - nhân đạo của nhân dân, tác giả đã tìm ra đặc điểm
chung của truyện cổ tích thần kỳ. Theo Cao Huy Đỉnh thì truyện cổ tích thần
kỳ vẫn mang đậm nội dung về hiện thực xã hội, tình cảm tự nhiên, đạo đức
thực tiễn và ước mơ lãng mạn của nhân dân lao động. Khi “yếu tố thần kỳ
(…) trở thành những biện pháp nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn và chủ
nghĩa tượng trưng rất đậm đà và phổ biến trong hàng loạt truyện cổ xã hội.
Có thể gọi chung đó là truyện cổ tích thần kỳ” [11.56].
Cao Huy Đỉnh đã kết luận: “truyện cổ tích thần kỳ có nội dung dân chủ
và tính chất dân tộc”. Như vậy, có thể nói rằng nội dung phản ánh của truyện
cổ tích thần kỳ xoay quanh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người
tốt và kẻ xấu, và cuối cùng bao giờ cái ác, cái xấu cũng bị tiêu diệt. Truyện cổ
tích thần kỳ bao giờ cũng kết thúc có hậu, đó chính là quan điểm thẩm mĩ tích
cực, lạc quan của nhân dân lao động. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra được một
định nghĩa ngắn gọn, súc tích và trọn vẹn về truyện cổ tích thần kỳ.
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -