ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ TÂN HƢƠNG
KHẢO SÁT TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
TÀY- NÙNG XỨ LẠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ TÂN HƢƠNG
KHẢO SÁT TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
TÀY- NÙNG XỨ LẠNG
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Huế
THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Huếngười thầy đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Em xin cảm ơn quý thầy, cô tổ Văn học dân gian, Ban chủ nhiệm Khoa
Ngữ văn, Bộ phận quản lý Khoa học- Sau đại học trường Đại học sư phạm
Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các cô chú, anh chị ở Thư viện tỉnh Lạng
Sơn, ở Phòng Văn hoá, thư viện huyện Bình Gia cùng những người dân Tày,
Nùng ở Bình Gia- Lạng Sơn đã nhiệt tình cung cấp những tư liệu quý báu để
giúp em hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục và Đào tạo Lạng Sơn,
trường THPT Bình Gia, bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia
đình đã luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho em trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng em xin cảm ơn các thầy cô giáo đã đọc và chỉ rõ những
thành công cũng như hạn chế trong luận văn tốt nghiệp này.
Thái Nguyên, ngày.....tháng....năm 2012
Tác giả
Nguyễn Thị Tân Hƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nxb
: Nhà xuất bản
KHXH
: Khoa học xã hội
H
: Hà Nội
TPHCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
PGS
: Phó giáo sư
TS
: Tiến sĩ
VHTT&DL : Văn hoá thể thao và du lịch
[X; Y]
: Tài liệu tham khảo
X
: Số thứ tự tài liệu tham khảo
Y
: Trang tài liệu tham khảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung thực
và chưa từng được ai công bố ở bất kì công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Tân Hƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục ................................................................................................................ i
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 10
Chƣơng 1. VÙNG ĐẤT, CON NGƢỜI XỨ LẠNG VỚI SỰ HÌNH
THÀNH, TỒN TẠI VÀ LƢU TRUYỀN TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
TÀY - NÙNG .................................................................................................. 10
1.1. Vùng đất, con người xứ Lạng ................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm xứ Lạng ........................................................................... 10
1.1.2. Về điều kiện tự nhiên ........................................................................ 12
1.1.3. Về điều kiện xã hội và lịch sử tộc người Tày- Nùng xứ Lạng ........ 15
1.2. Văn hóa, văn học dân gian dân tộc Tày –Nùng xứ Lạng........................ 26
1.2.1. Văn hóa, văn học dân gian xứ Lạng nói chung ................................ 26
1.2.2. Văn hóa, văn học dân gian dân tộc Tày – Nùng xứ Lạng: .............. 28
Chƣơng 2. CÁC THỂ LOẠI TRUYỆN KỂ DÂN GIAN TÀY – NÙNG
XỨ LẠNG ....................................................................................................... 34
2.1. Khái niệm truyện kể dân gian ................................................................. 34
2.2. Hiện trạng nguồn truyện kể Tày- Nùng xứ Lạng .................................... 34
2.3. Phân loại .................................................................................................. 35
2.4. Một số thể loại truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng ......................... 39
2.4.1. Thần thoại Tày- Nùng xứ Lạng ....................................................... 40
2.4.2. Truyền thuyết Tày- Nùng xứ Lạng ................................................... 45
2.4.3. Truyện cổ tích Tày- Nùng xứ Lạng .................................................. 50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ii
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN KỂ DÂN GIAN TÀY - NÙNG XỨ
LẠNG TRÊN MỘT SỐ BÌNH DIỆN .......................................................... 65
3.1. Về nhân vật, môtíp .................................................................................. 65
3.1.1. Nhân vật ............................................................................................ 65
3.1.2. Một số môtif trong truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng ............ 79
3.2. Sự đồng dạng và tính dị biệt trong truyện kể dân gian Tày, Nùng xứ Lạng ..... 87
3.2.1. Sự đồng dạng .................................................................................... 87
3.2.2. Tính dị biệt ........................................................................................ 92
3.3. Truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng với tín ngưỡng và lễ hội ......... 97
3.3.1. Tín ngưỡng tiêu biểu. ........................................................................ 99
3.3.2. Một số lễ hội liên quan. .................................................................. 102
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do xã hội
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Bên cạnh tộc người Kinh(Việt) là
tộc người đa số, nước ta còn có năm mươi ba dân tộc anh em khác cùng
chung sống, gắn bó như Tày, H’Mông, Dao, Thái....Do vậy, Việt Nam có
nhiều ngữ hệ và bản sắc văn hoá tộc người khác nhau. Trải qua nhiều thế kỷ,
cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống, kiên cường, ý chí để giữ
gìn từng thước đất của quê hương, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc yêu dấu. Trong
quá trình đó, Việt Nam đã hình thành một cộng đồng văn hoá vừa thống nhất,
vừa đa dạng. Mỗi một tộc người anh em lại có nghĩa vụ giữ gìn và phát triển bản
sắc, phát huy phong tục tập quán, vốn văn nghệ truyền thống của tộc người mình
Nằm trong dải đất địa đầu của Tổ quốc Việt Nam, xứ Lạng (Lạng Sơn)
là nơi quần cư của nhiều dân tộc anh em và cũng là vùng đất có người Tày –
Nùng cư trú đông nhất cả nước. Trong cộng đồng các tộc người Việt Nam,
người Tày, Nùng có số dân đông thứ hai sau người Việt (Kinh). Nhiều nghiên
cứu khoa học từ trước đến nay đã khẳng định người Tày- Nùng có vốn văn
hóa văn học dân gian chỉ phát triển sau người Kinh (Việt).
Chính vì vậy việc tìm hiểu văn học dân gian xứ Lạng đặc biệt là văn học
dân gian của người Tày- Nùng chính là để tăng cường sự hiểu biết về vốn văn
hóa dân gian của hai tộc người này, đồng thời để tăng cường sự tin cậy, đoàn
kết giữa các tộc người anh em là một việc có ý nghĩa lớn lao và dài lâu đối
với sự nghiệp xây dựng một đất nước Việt Nam giàu đẹp và văn minh, một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hơn thế, xứ Lạng
không chỉ là vùng đất giàu giá trị văn hóa mà còn là vùng đất cửa ngõ của
giao thương quốc tế quan trọng, văn hóa thương nhân đang dần lấn át đi văn
hóa truyền thống. Những giá trị cội nguồn đang dần bị mất đi bởi cuộc sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
mưu sinh cơm áo gạo tiền. Vì vậy, đang đặt ra những vấn đề cấp thiết và
mang tính thời sự trong việc gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc. Việc khai
thác, giữ gìn và phát huy nguồn mạch văn hóa dân tộc- văn học dân gian của
xứ Lạng - chính là một việc làm thiết thực để giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc Việt Nam.
1.2. Lý do nghệ thuật
1.2.1. Trải qua nhiều thế kỷ, trong quá trình lao động sản xuất và đấu
tranh xã hội, dân tộc Tày, Nùng nói chung và người Tày, Nùng ở xứ Lạng nói
riêng đã xây dựng cho mình một kho tàng văn học dân gian truyền thống
mang đậm bản sắc văn hóa tộc người, nhưng cũng không phá vỡ tính thống
nhất chung của văn hóa Việt Nam. Nói cách khác văn học dân gian của tộc
người Tày –Nùng ở xứ Lạng với những nét đặc sắc riêng đã góp phần làm nên
bộ mặt phong phú, đa dạng nhưng thống nhất chung của văn học dân gian
Việt Nam.
1.2.2. Truyện kể dân gian Việt Nam nói chung và truyện kể dân gian các
dân tộc thiểu số nói riêng đang là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học xã hội và nhân văn trong đó có khoa học văn học dân gian. Việc nghiên
cứu truyện kể nói chung và truyện kể xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng nói
riêng có thể nói là một hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng.
1.2.3. Việc chú trọng khai thác những di sản văn học của các dân tộc ít
người cùng với nhiệm vụ nghiên cứu, khai thác những di sản văn học quý báu
của dân tộc Kinh chính là việc góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng
nền văn hóa mới Xã hội chủ nghĩa ở một quốc gia đa dân tộc với nền văn hóa
“Thống nhất trong đa dạng”.
Xứ Lạng là một trong những cái nôi của văn hoá dân gian Tày, Nùng. Ở
đó hội tụ đầy đủ các loại hình văn học dân gian trong đó có truyện kể dân gian
là một di sản vô cùng phong phú, quý giá. Nó được xem là thể loại ổn định,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
phản ánh rõ nét đặc điểm địa lý, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ và bản sắc con
người nơi đây. Nó vừa mang tính loại hình vừa mang tính đặc thù chưa từng
được nghiên cứu một cách hệ thống .
Hơn nữa hiện nay việc nghiên cứu học tập văn học dân gian địa
phương vào chương trình phổ thông vẫn chưa được chú trọng. Là giáo viên
THPT, tôi nghĩ nghiên cứu về truyện kể dân gian xứ Lạng của dân tộc TàyNùng là một việc làm cần thiết để gìn giữ di sản phi vật thể của dân tộc Việt
Nam nói chung và của dân tộc Tày- Nùng ở xứ Lạng nói riêng.
Chính vì những lẽ trên và trên cơ sở tiếp tục kế thừa thành tựu của các
nhà nghiên cứu, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là: Khảo sát truyện kể dân
gian Tày- Nùng xứ Lạng với mong muốn đóng góp ý kiến của mình vào
công cuộc nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc ít người hiện nay đặc biệt
là thể loại truyện kể. Đồng thời cũng là người công tác và gắn bó với bà con
dân tộc Tày- Nùng một thời gian dài, tôi muốn góp tiếng nói tri ân của mình
với vùng đất, con người xứ Lạng. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng bài
giảng trong nhà trường và làm tài liệu cho những người quan tâm đến truyện cổ
Việt Nam nói chung và truyện kể xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện kể dân gian thuộc
loại hình tự sự bằng văn xuôi dân gian bao gồm các thể loại: Thần thoại,
truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười và giai thoại. Theo
tài liệu mà chúng tôi thu thập được, việc sưu tầm và tìm hiểu thể loại truyện
cổ dân gian Việt Nam đã được các học giả quan tâm và tiến hành nghiên cứu
từ khá sớm.
Truyện cổ dân gian, hơn mọi thể loại khác có một sức hấp dẫn kì lạ và
vốn có một đời sống học thuật phong phú và sớm hơn rất nhiều so với các thể
loại khác của văn học dân gian.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
2.1. Trong công trình “ Tổng tập văn học dân gian người Việt” do GS.TS
Kiều Thu Hoạch chủ biên, các tác giả đã chỉ ra rằng “Truyện cổ dân gian Việt
Nam vốn được ghi chép, sưu tầm từ rất sớm trong các tác phẩm khởi đầu của
nền văn học như Báo cực truyện, Giao Chỉ Kí (Thế kỷ XII), Việt điện u linh
của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú (Thế kỉ
XIV-XV); rồi những tập như Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Thiên Nam vân
lục (Nguyễn Hành), Công dư tiệp kí (Vũ Phương Đề), Truyền kì tân phả
(Đoàn Thị Điểm), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Tang thương ngẫu lục
(Phạm Đình Hổ- Nguyễn Án)...
Vào những thế kỷ sau như thế kỷ XIX và thời kỳ cận đại của thế kỷ
XX, việc sưu tầm, biên soạn truyện cổ dân gian ngày càng được nhiều người
chú trọng. Cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã có nhiều bộ sưu tập truyện cổ
ra đời do các văn sĩ có ý thức lưu tâm đến vốn văn học cổ truyền của nước
nhà đã ghi chép và xuất bản như Chuyện khôi hài (1882), Chuyện đời xưa
(1886) của Trương Vĩnh Ký, Chuyện giải buồn (1880: tập 1, 1885: tập 2) của
Huỳnh Tịnh Của, Nam Hải dị nhân (1920) của Phan Kế Bính, Truyện cổ nước
Nam (1932-1934) của Nguyễn Văn Ngọc v. v...
Từ sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt từ những năm 50 của thế kỷ XX,
vốn văn hóa dân gian nói chung và truyện cổ dân gian nói riêng lại càng được
coi trọng và việc sưu tầm, biên soạn, nghiên cứu chúng được xem như những
hoạt động khoa học, một ngành khoa học độc lập, được nâng lên ở một cấp độ
mới. Kết quả của ngành nghiên cứu văn học dân gian và truyện cổ dân gian đã
đạt được là những kết quả khả quan, với một loạt công trình có tầm cỡ ra đời liên
tiếp như: Truyện cổ tích Việt Nam (1955) của Vũ Ngọc Phan, Lược khảo về thần
thoại Việt Nam (1956) của Nguyễn Đổng Chi, Lược thảo lịch sử văn học Việt
Nam (1957) của Nguyễn Đổng Chi, Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong v.v...
2.2. Cùng với văn học dân gian của người Kinh, bộ phận văn học dân gian
của người Tày, Nùng- cư dân bản địa và là chủ thể ở vùng Đông Bắc (Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Bắc) với bản sắc riêng của một tộc người miền núi, đã góp phần làm nên bộ
mặt phong phú đa dạng của văn học dân gian Việt Nam... Tuy nhiên, việc
nghiên cứu văn học dân gian Tày- Nùng đến thời điểm này vẫn còn nhiều
khoảng trống. Ngoài một số công trình sưu tầm và giới thiệu văn bản truyện
kể như Truyện kể Việt Bắc (1963), Truyện cổ Tày- Nùng (1974), Truyện cổ
các dân tộc ít người Việt Nam (1978), Truyện cổ Bắc Kạn (2000)... thì các
công trình chuyên biệt về truyện kể dân gian Tày- Nùng lại có phần ít ỏi, chỉ
có vài ba công trình. Cụ thể như Sưu tập và khảo cứu truyện cổ Tày của hai
tác giả Vũ Anh Tuấn và Vi Hồng (tài liệu đánh máy 257 trang- Khoa ngữ văn
Đại học sư phạm Thái Nguyên). Tìm hiểu một cặp mẫu kể dân gian miền núi
dưới góc độ loại hình của tác giả Vũ Anh Tuấn (Tạp chí Văn học số 4- 1991),
Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa một số típ truyện kể dân gian Tày vùng Đông
Bắc Việt Nam của tác giả Vũ Anh Tuấn (Luận án PTS- 1991), Tìm hiểu quan
niệm về cái đẹp và nghệ thuật trong văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số
Việt Nam của Hoàng Minh Lường (Luận văn Thạc sĩ Đại học sư phạm Hà Nội
1987-71 trang), Truyện thơ Nôm Tày- Đặc điểm nổi bật trong văn hóa dân
gian và văn hóa Tày của Hà Thị Bích Hiền (Luận văn Thạc sĩ Đại học sư
phạm Hà Nội 2000-98 trang). Hiện tượng vượt biển (Khảm Hải) trong đời
sống văn hóa dân gian Tày của Nguyễn Thị Nhin (Luận văn Thạc sĩ Đại học
sư phạm Hà Nội 2003- 100 trang), Khảo sát và so sánh một số típ truyện kể
dân gian Tày- Việt của Lương Anh Thiết (Luận văn thạc sĩ Đại học sư phạm
Thái Nguyên 2003- 122 trang), Khảo sát những đặc điểm truyền thuyết của
người Tày ở Bắc Kạn của Mai Thu Thuỷ (Luận văn thạc sĩ Đại học sư phạm
Hà Nội 2005- 100 trang)....
2.3. Người Tày- Nùng là chủ thể văn hoá chính ở xứ Lạng. Văn hoá, văn
học dân gian của tộc người Tày- Nùng xứ Lạng là mảnh đất ẩn tàng những
“nguồn lợi” quý giá đòi hỏi phải có sự nhọc công tìm hiểu. Nghiên cứu về văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
học dân gian đặc biệt là khảo sát diện mạo chính của truyện kể dân gian TàyNùng xứ Lạng cho đến thời điểm này theo khảo sát của chúng tôi thì chưa có
một công trình chuyên biệt nào. Chỉ có một số công trình nhỏ, lẻ riêng biệt về
văn học dân gian như công trình Đặc điểm dân ca đám cưới Tày, Nùng xứ
Lạng của Lộc Bích Kiệm (Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn 2004- 138 trang),
giới thiệu Truyện kể Tày, Nùng xứ Lạng của nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn
(Chủ biên), Phạm Nguyên Long, Lâm Mai Lan... trong công trình Địa chí
Lạng Sơn- Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội- 1999), Bước đầu tìm hiểu
thơ ca dân gian của người Tày, Nùng xứ Lạng của tác giả Thái Vân (Tạp chí
văn học số 11- 1996) ...
Tôi không có tham vọng là luận văn sẽ bao quát được hết vẻ đẹp lấp lánh
của văn hóa dân tộc Tày –Nùng, đời sống tâm tư, tình cảm mà đồng bào gửi
gắm trong kho tàng truyện kể xứ Lạng. Nhưng kế thừa các nghiên cứu đi
trước, đề tài của chúng tôi hy vọng bước đầu giải quyết được những vấn đề cụ
thể của truyện kể xứ Lạng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn của chúng tôi có tên là Khảo sát truyện kể dân gian
Tày -Nùng xứ Lạng. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi sẽ là truyện
kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng đã được sưu tầm, biên soạn và xuất bản.
Tài liệu chúng tôi chọn làm tài liệu khảo sát chính là tập Truyện cổ xứ
Lạng của dân tộc Tày và Nùng do Nguyễn Duy Bắc, Hoàng An, Hoàng Tuấn
Cư, Hoàng Nam, Vi Hồng Nhân, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997. Cùng
với một số truyện sưu tầm trong công trình Lễ hội dân gian Lạng Sơn của
Hoàng Páo, Hà Văn Thanh, Bế Kim Loan, Vũ Kiều Oanh, Sở văn hoá thông
tin Lạng Sơn sưu tầm, giới thiệu và một số truyện trong Ai lên xứ Lạng của
Hà Văn Thư, Hoàng Nam, Vi Hồng Nhân, Vương Toàn, NXB Văn hoá dân
tộc, Hà Nội, 1994.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
Ngoài ra chúng tôi còn mở rộng thêm biên độ khảo sát các truyện cổ của
các dân tộc Tày và Nùng ở các địa phương khác và một số dân tộc khác để
làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan. Nguồn tư liệu chủ yếu được trích
trong các công trình :
* Truyện cổ Bắc Kạn, tập 1+ 2+ 3, Sở Văn hóa TTTT Bắc Kạn, 2000.
* Truyện cổ Tày – Nùng, Nxb Văn học, H, 1974.
* Truyện cổ Việt Bắc, Nxb Văn hoá - Viện văn học, H, 1963.
* Tổng tập văn học dân gian người Việt, Nxb Khoa học xã hội- H, 2009.
* Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, H, 2009.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu bao trùm của luận văn là tìm hiểu đặc điểm truyện kể dân gian
xứ Lạng của dân tộc Tày, Nùng trên bình diện thể loại, qua góc nhìn bản sắc
văn hoá tộc người, chỉ ra sự tác động của môi trường tự nhiên, văn hoá xã hội
hình thành nên những sáng tạo tinh thần đó, cụ thể là:
4.1. Tìm hiểu vùng đất xứ Lạng- nơi hình thành, lưu truyền những truyện
kể dân gian để cố gắng đi tìm lý do vì sao vùng đất và tộc người Tày, Nùng ở
đây lại lưu giữ một số lượng truyện kể dân gian phong phú, đặc sắc như vậy
4.2. Tiến hành khảo sát phân loại truyện kể dân gian xứ Lạng của đồng
bào Tày, Nùng theo tiêu chí thể loại mà các nhà foklore học đã đề xuất. Qua
đó làm sáng tỏ những đặc điểm tư tưởng -thẩm mỹ của truyện kể xứ Lạng của
dân tộc Tày- Nùng trong đời sống tâm hồn, tình cảm Tày, Nùng- hai dân tộc
có vị trí đứng thứ hai sau người Kinh- hai dân tộc có vai trò chủ thể văn hóa
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc Việt Nam để làm
sáng tỏ một giá trị văn hóa lâu đời và đặc thù, góp phần bảo tồn và gìn giữ di
sản văn hóa dân tộc, phát huy tác dụng giáo dục tốt đẹp của nó trong cuộc
sống hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp
có tính phổ biến trong nghiên cứu khoa học như:
* Phương pháp sưu tầm, khảo sát: Văn học dân gian ra đời sớm và được lưu
lại trong trí nhớ của nhân dân bằng con đường truyền miệng. Vì vậy để có
thêm tư liệu trong quá trình khảo sát chúng tôi sử dụng phương pháp sưu tầm.
* Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp đưa ra được những số liệu
cụ thể, chính xác về vấn đề cần khảo sát. Từ đó dẫn đến những kết luận khách
quan.
* Phương pháp tổng hợp, hệ thống tư liệu : Phương pháp hệ thống là cách
đặt truyện cổ xứ Lạng của dân tộc Tày Nùng trong cùng một hệ thống như
truyện kể Bắc Kạn, truyện kể Việt Bắc, truyện kể Tày, Nùng để thấy được nét
chung cũng như nét riêng của nó
* Phương pháp phân tích, so sánh: phương pháp này tìm ra những điểm
giống và điểm khác của truyện cổ xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng và truyện
cổ dân tộc Tày- Nùng của các địa phương khác nói riêng và truyện cổ của các
dân tộc khác nói chung. Người viết phải phân tích, đối chiếu truyện cổ xứ
Lạng của dân tộc Tày- Nùng với truyện cổ của các địa phương, các dân tộc
khác.
* Phương pháp nghiên cứu liên ngành: phương pháp này dùng để lý giải
cho những đặc điểm của truyện cổ xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng. Kiến thức
của nhiều ngành khác nhau như : lịch sử, địa lý, dân tộc học, văn hóa học... sẽ
rất hữu ích trong việc nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn:
- Phác họa diện mạo chung của truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng.
- Làm rõ đặc điểm nội dung, nghệ thuật của truyện kể dân gian TàyNùng xứ Lạng và qua đó hiểu thêm đời sống văn hóa, tinh thần của con người
dân tộc Tày- Nùng nói riêng và xứ Lạng nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
- Góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần của văn
học dân gian xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng nói riêng và văn học dân gian cả
nước nói chung. Từ đó khẳng định sự bền vững của bản sắc văn hóa dân tộc
của địa phương và của đất nước Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận. Phần Nội dung gồm ba chương:
Chƣơng I : Vùng đất, con người xứ Lạng với sự hình thành, tồn tại và
lưu truyền truyện kể dân gian Tày- Nùng.
Chƣơng II: Các thể loại truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng.
Chƣơng III: Đặc điểm truyện kể dân gian Tày – Nùng xứ Lạng trên một
số bình diện.
Phụ lục: Phần này của Luận văn bao gồm: Hệ thống những tác phẩm truyện
kể đã được sưu tầm và sưu tầm thêm (có thể có), được sắp xếp theo thể loại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
VÙNG ĐẤT, CON NGƢỜI XỨ LẠNG VỚI SỰ HÌNH THÀNH, TỒN TẠI
VÀ LƢU TRUYỀN TRUYỆN KỂ DÂN GIAN TÀY - NÙNG
Trong phạm vi cho phép của đề tài, chúng tôi không có tham vọng đi sâu
vào mọi vấn đề thuộc điều kiện, tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội của xứ
Lạng mà chỉ đi vào tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự hình thành và lưu
truyền truyện kể Tày- Nùng xứ Lạng. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu chúng tôi tập trung vào hai phương diện cụ thể: Vùng đất, con người và
văn hoá văn học dân gian xứ Lạng. Đặc biệt chúng tôi đi sâu vào các khía
cạnh về điều kiện tự nhiên, lịch sử tộc người Tày, Nùng và văn hoá văn học
dân gian của người Tày- Nùng xứ Lạng- đây chính là những yếu tố có tác
động sâu sắc đến đối tượng nghiên cứu.
1.1. Vùng đất, con ngƣời xứ Lạng
Qúa trình nảy sinh, tồn tại và phát triển của văn học dân gian nói chung
và truyện kể dân gian nói riêng bao giờ cũng gắn liền với điều kiện lịch sử,
văn hoá, xã hội và tâm lý của con người. Do vậy, trước khi khảo sát các thể
loại truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng, cần phải có những tìm hiểu về
vùng đất, con người xứ Lạng.
1.1.1. Khái niệm xứ Lạng
“... Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mảng vui quên hết lời em dặn dò...”
Câu ca ấy có từ rất xa xưa vọng mãi cho đến muôn đời nay như đã đã đi
vào tiềm thức con người xứ Lạng nói riêng và con người Việt Nam yêu quê
hương, đất nước nói chung, nó như một lời mời tha thiết của người xứ Lạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
đối với khách muôn phương hãy đến với xứ Lạng và cũng như một cách giới
thiệu về xứ Lạng rất thơ, rất đậm sắc thái dân gian.
Vậy tại sao lại gọi là xứ Lạng và xứ Lạng có từ bao giờ ?
Sách Cơ sở văn hoá Việt Nam giải thích: tên “xứ” là một khái từ được
sử dụng khá linh hoạt trong dân gian. Có khi nó được dùng để chỉ một không
gian hẹp như xứ đồng, hay một xóm nào đó. Có khi từ này lại được dùng chỉ
một không gian rộng hơn: xứ Đông, xứ Đoài, xứ Nam, xứ Bắc, tức là bốn xứ
xung quanh kinh thành Thăng Long thời nhà Trần, nhà Lê; hoặc dùng chỉ các
xứ như xứ Lạng, xứ Nghệ... Các từ này, khi thì tương đương với một trấn như
các phân chia địa giới phong kiến, nhưng có khi lại không, mà tương đương
với một tỉnh... Dù thế nào, “xứ” vẫn là từ dùng để biểu đạt sự khác biệt giữa
các vùng đất, chứng tỏ sự phân biệt trong tâm thức dân gian. Điều đáng quan
tâm là, khi phân biệt các xứ, người dân từ trong lịch sử đã có ý thức phân biệt
sự khác nhau về văn hoá.
Theo các tác giả Nguyễn Cường, Đoàn Mạnh Phương, Hoàng Văn
Nghiệm, Đặng Đình Trấn, Trần Anh Tuấn trong cuốn Lạng Sơn nơi địa đầu
tổ quốc khi nghiên cứu về văn hóa xứ Lạng cho rằng “Xứ Lạng được coi là
một tiểu vùng văn hóa riêng biệt nằm trong vùng văn hóa Việt Bắc- Đông
Bắc. Ngay từ xứ Lạng(trước chỉ tỉnh Lạng Sơn) cũng đã hàm nghĩa đây là
một vùng văn hóa dân gian (FOLKLORE) và xứ là một từ chỉ một vùng có thể
rộng mà có thể hẹp, rất hẹp và thường do dân gian gọi mà thành và xứ cũng
thường ứng với một đơn vị hành chính nhất định mà thường gọi là một tỉnh.
Từ xứ ngày nay chỉ để gọi trong dân gian trong văn hóa văn nghệ, nó không
được coi là một đơn vị hành chính quốc gia. Từ xứ gọi là một vùng xứ để gây
một ấn tượng cảnh quan nào đó của một vùng có cái gì đó nổi bật và riêng
biệt. Ngày nay vẫn có các vùng quê hương được gọi là xứ, trong đó có xứ
Lạng, nhưng không nhiều chẳng hạn như xứ Huế, xứ Nghệ, xứ Lạng, xứ
Thanh, xứ Quảng” .[ 5, 33-34 ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
Còn trong cuốn Ai lên xứ Lạng của nhóm tác giả Hà Văn Thư, Hoàng
Nam, Vi Hồng Nhân, Vương Toàn thì “Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà
văn hoá, nhà thơ đặt câu hỏi vì sao gọi là xứ Lạng? Xứ Lạng có nghĩa là gì ?
Cái tên gọi xưa nay nó quen thuộc, nó gần gũi thân thương đến mức như tên
gọi của chính ta, như cơm ăn nước uống và không khí thở hàng ngày. Nhưng
hồ dễ mấy ai đã giải thích được một cách thấu đáo dù là người sống rất lâu ở
xứ Lạng chăng nữa! Để lý giải được hai từ đó và một số vấn đề khác nữa,
năm 1985, Sở văn hoá thông tin tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức một cuộc hội thảo
khoa học về xứ Lạng- Lạng Sơn. Nhiều nhà nghiên cứu đã thử lý giải nó
nhằm làm sáng tỏ nhiều vấn đề còn chưa xác định, đất nước ta có bao nhiêu
vùng gọi là xứ ? xứ Quảng, xứ Huế, xứ Nghệ, xứ Thanh và xứ Lạng...
Tổng hợp các nghiên cứu thì xứ Lạng theo các nhà nghiên cứu đã đưa ra
giả thiết từ Lạng là một từ Hán- Việt cổ kết hợp với từ Lũng trong ngôn ngữ
Tày, Nùng dưới dạng ngữ âm Hán- Việt cổ, theo ngữ nghĩa cổ để chỉ địa danh
các điểm cư trú Tày, Nùng. Xứ Lạng là xứ sở gồm có nhiều lũng. Và như vậy,
Lạng có nghĩa là “Núi cao đẹp” như hình dáng núi Lạng đã được miêu tả. Xứ
Lạng là xứ sở của những lũng, là xứ sở núi non hùng tráng lâu đời, mang
nặng mối tình gắn bó Việt- Tày- Nùng lịch sử, thấm sâu ngay trong bản thân
địa danh” [48, 7-8].
Như vậy, xứ Lạng được định nghĩa theo cách nào đi chăng nữa thì đến
với xứ Lạng ngay trong bản thân địa danh đã gợi cho ta biết bao điều phải
khám phá về một vùng đất giàu bản sắc văn hoá. Một vùng đất là không gian
sinh tồn cho những truyện kể dân gian mang hương sắc hoa hồi, chất men say
của rượu nồng và tình người đằm thắm nơi xứ Lạng
1.1.2. Về điều kiện tự nhiên
Trong dải đất nước hình chữ S Việt Nam duyên dáng, mềm mại thì xứ
Lạng chính là dải đất địa đầu của Tổ Quốc. Xứ Lạng là một điểm nút giao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
thông, kinh tế quan trọng, phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Nam giáp tỉnh
Bắc Giang, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Cạn. Phía Đông Bắc giáp khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây
Trung Quốc. Xét về địa lý hành chính thì xứ Lạng là mảnh đất biên cương có
đường biên giới dài với Trung Quốc, là điểm xuất phát của trục đường giao
thông Bắc- Nam- Quốc lộ 1A, là điểm gặp gỡ của các quốc lộ 1A, 1B, 4B
chạy dọc theo biên giới Việt- Trung. Chính vì thế xứ Lạng được coi là vùng
đất “ phên giậu”, là “cửa ngõ chính” trong những cuộc đối thoại và đối đầu
với Trung Quốc qua nhiều thời kỳ lịch sử. Đồng thời thì đó cũng là điều kiện
cho “ sự giao lưu văn hoá hằng xuyên Nam- Bắc” của xứ Lạng. Với vị trí địa
lý thuận lợi như vậy tự bản thân xứ Lạng đã tạo cho mình những tiềm năng
thương mại du lịch và giao lưu kinh tế quốc tế và văn hóa làm nên bộ mặt đa
sắc trong vườn hoa văn hóa nghìn sắc của đất nước Việt Nam.
Xứ Lạng là nơi có địa hình riêng biệt. Là miền núi, nhưng xứ Lạng có
dòng sông Kỳ Cùng thơ mộng bắt nguồn từ Đình Lập qua Lộc Bình, Cao Lộc,
qua thành phố Lạng Sơn, xuôi về Văn Quan, Văn Lãng, Tràng Định và lại đổ
về Trung Quốc. Và đây là một trong hai con sông ở nước ta chảy hướng Bắc,
đổ vào sông Long Châu bên Trung Quốc rồi đổ ra Trung Biển Đông, tạo
thành một thung lũng dài với những cánh đồng lòng chảo nổi tiếng trong xứ
như cánh đồng Thất Khê, cánh đồng Lộc Bình, cánh đồng Na Sầm màu mỡ,
phù sa. Ở về phía Tây, xứ Lạng có dãy núi đá vôi hùng vĩ- dãy Kai Kinh nằm
trong cánh cung Bắc Sơn, Ngân Sơn rộng lớn, hùng tráng và lại tạo thành một
lòng máng khác hướng nước chảy về Đông Bắc Bộ, chính dãy núi này cũng là
một yếu tố tác động đến lối sống, tập quán canh tác, phong tục... của đồng bào
xứ Lạng.
Cùng với cánh đồng khác trong xứ như cánh đồng Bình Gia, cánh đồng
Ba Xã, Yên Bình Phúc, Chi Lăng...Xứ Lạng không chỉ có núi đất, thung lũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -