Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khóa luận làng nghề truyền thống nước mắm nam ô thành phố đà nẵng trong quá tr...

Tài liệu Khóa luận làng nghề truyền thống nước mắm nam ô thành phố đà nẵng trong quá trình đô thị hóa

.PDF
55
213
138

Mô tả:

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA LỊCH SỬ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG NƯỚC MẮM NAM Ô- THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA SVTH : HOÀNG NGỌC HẢI LỚP : 14SLS GVHD : TS. NGUYỄN DUY PHƯƠNG CHUYÊN NGÀNH : SƯ PHẠM LỊCH SỬ ĐÀ NẴNG, NĂM 2018 LỜI CẢM ƠN Khóa luận là kết quả của những nỗ lực và cố gắng của em trong suốt thời gian học tập tại trường Đại học Sư phạm. Để hoàn thành khóa luận này ngoài những nỗ lực của bản thân, đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều cá nhân, đơn vị. Đầu tiên, em xin gửi lời cám ơn chân thành đến cô Nguyễn Duy Phương- Giảng viên khoa Lịch Sử đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành khóa luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý thầy cô trong khoa Lịch Sử - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng cùng các bạn lớp 14SLS, bạn bè và gia đình đã động viên, quan tâm, đóng góp những lời khuyên và ý kiến quý báu trong quá trình làm khóa luận để tôi có thể hoàn thành tốt đề tài. Cuối cùng, em cũng xin cảm ơn đến thư viện trường Đại học Sư phạm, phòng học liệu khoa Lịch Sử, thư viện Tổng hợp thành phố Đà Nẵng, các phòng ban ở phường Hòa Hiệp Nam và quận Liên Chiểu đã tạo điều kiện cho tôi có thể tìm kiếm tư liệu phục vụ cho khóa luận của mình một cách tốt nhất. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song khóa luận không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót . Em kính mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện. Đà Nẵng , Ngày 23 tháng 4 năm 2018 Người thực hiện Hoàng Ngọc Hải MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. 1 MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................... 1 3. Mục đích nghiên cứu................................................................................ 2 4. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 3 5. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 3 6. Nguồn tư liệu ............................................................................................ 3 7. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 3 8. Đóng góp của đề tài. ................................................................................. 4 9. Bố cục ........................................................................................................ 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG NƯỚC MẮM NAM Ô..................................................................................... 5 1.1. Khái quát về làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô ................. 5 1.1.1. Điều kiện tự nhiên ........................................................................... 5 1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ................................................................ 7 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô. ................................................................................................. 9 CHƯƠNG 2: BIẾN ĐỔI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG NƯỚC MẮM NAM Ô TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA .............................. 14 2.1. Khái quát về quá trình đô thị hóa ở Đà Nẵng .................................. 14 2.2. Địa giới, cảnh quan và tổ chức hành chính ...................................... 19 2.3. Qui trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm .......................................... 23 2.3.1. Hình thức tổ chức sản xuất ........................................................... 23 2.3.2. Kĩ thuật sản xuất ............................................................................ 25 2.3.3. Sản phẩm và thị trường tiêu thụ ................................................... 27 2.3.4. Nguồn lực đầu vào cho sản xuất của làng nghề .......................... 32 2.4. Biến đổi về văn hóa và xã hội ............................................................. 34 2.5. Đánh giá chung .................................................................................... 39 KẾT LUẬN .................................................................................................... 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 43 PHỤ LỤC ẢNH ............................................................................................. 45 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Các làng nghề truyền thống ở Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp cho nền kinh tế của đất nước nói chung và đối với mỗi khu vực kinh tế nói riêng. Nhiều làng nghề truyền thống hiện nay đã được phục hồi, đầu tư phát triển với qui mô và kỹ thuật cao. Hàng hóa không chỉ phục vụ trong nước mà còn được xuất khẩu với những giá trị lớn. Làng nghề truyền thống -nước mắm Nam Ô đã có từ lâu đời. Có giai đoạn làng nghề chững lại khi nghề làm pháo du nhập và phát triển mạnh tại làng Nam Ô. Tuy nhiên vẫn có nhiều hộ gia đình gắn bó và gìn giữ nghề truyền thống này. Cho đến năm 1994, với chỉ thị 406/CT.TTg của Thủ tướng Chính phủ cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo, cùng với chính sách hỗ trợ đầu tư của Quận ủy, Ủy ban Nhân dân Quận Liên Chiểu các hộ dân tiếp tục bám biển, đầu tư với nghề truyền thống của mình, làng nghề dần dần được phục hồi trở lại. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng cũng đã gây ra nhiều khó khăn, thách thức mới đối với làng nghề, mà đặc biệt là trong việc phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làng nghề. Xuất phát từ những lý do đó đã thôi thúc em thực hiện đề tài: “Làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô- Thành phố Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa” 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu đến đề tài làng nghề truyền thống Việt Nam hay làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô- Tp Đà Nẵng đến nay cũng đã có một số đề tài: Trong đó tiêu biểu như công trình nghiên cứu của Hoàng Nhân Khôi, (2009)“Phát triển làng nghề ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ “. Tác giả đã 1 nghiên cứu một cách khái quát về các làng nghề, trong đó có đề cập đến làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô. Tuy nhiên ở công trình, tác giả chỉ quan tâm đến việc giới thiệu mà chưa phân thích những tác động của quá trình đô thị hóa đối với các làng nghề. Liên quan đến đề tài này còn có tác phẩm của Hà Nguyễn, đó là tác phẩm “Tiểu vùng văn hóa xứ Quảng”(2013), Nxb Thông tin truyền thông, tác phẩm viết về những nét đẹp văn hóa của con người xứ Quảng, nói về những làng nghề truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Nhưng tác phẩm chỉ tập trung đi sâu vào mảng văn hóa, xã hội mà còn nhẹ về khai thác một cách toàn diện mọi mặt của vấn đề đô thị hóa tác động đối với các làng nghề truyền thống. Ngoài ra, cũng có rất nhiều bài viết trên các báo, tạp chí khoa học như bài viết của tác giả Trần Đức Anh Sơn , Nước mắm trong lịch sử và văn hóa của người Việt , bài đăng trên báo Sinh viên Việt Nam số Tết Nhâm Thìn 2012. Bài viết chủ yếu chỉ đề cập đến những nét cổ truyền trong ẩm thực của người Việt mà đặc biệt là nước mắm. Như vậy, đã có một số công trình nghiên cứu đến vấn đề làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô , hoặc liên quan đến một vài khía cạnh của vấn đề. Tuy nhiên nghiên cứu về vấn đề làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô- Tp Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa thì chưa có đề tài nào. Những công trình đó là cơ sở để em kế thừa và tham khảo nhằm hoàn thành tốt công trình khóa luận của mình. 3. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ biến đổi của làng nghề trong quá trình đô thị hóa, để từ đó thấy được những tác động tích cực và tiêu cực của quá trình này. Qua đó góp phần rút ra bài học kinh nghiệm và giải pháp để phát triển làng nghề trong hiện tại và tương lai. 2 4. Đối tượng nghiên cứu Làng nghề truyền thống nước mắm Nam ô trong quá trình đô thị hóa 5. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô, Quận Liên Chiểu, Thành phố Đà Nẵng Về thời gian: Từ năm 2003 đến nay 6. Nguồn tư liệu Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, khóa luận chủ yếu sử dụng các nguồn tư liệu như các báo cáo, văn bản hành chính của chính quyền địa phương, các bài báo cáo tình hình sản xuất của làng nghề, vv. Ngoài ra khóa luận còn tham khảo các tư liệu trong các bộ sử của triều Nguyễn như Quốc sử quán triều Nguyễn,Phủ biên tạp lục, cũng như là các công trình nghiên cứu công bố trên các tạp chí chuyên ngành. Bên cạnh đó nguồn tư liệu mạng internet cũng có một giá trị nhất định trong quá trình thực hiện đề tài của em. 7. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, khóa luận đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai phương pháp chủ đạo trong nghiên cứu sử học được vận dụng trong quá trình thực hiện đề tài này là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Đồng thời khóa luận còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như phân tích tổng hợp, so sánh, đánh giá, hệ thống và các phương pháp liên ngành khác. Ngoài racòn chú ý sử dụng phương pháp khảo sát thực tế tại các làng nghề, áp dụng các kỹ năng: quan sát, tham dự; phỏng vấn sâu; phỏng vấn định lượng; phân tích và tổng hợp tư liệu; phương pháp nghiên cứu so sánh. Để có được tư liệu đánh giá khách quan, trong quá trình nghiên cứu, em còn áp 3 dụng phương pháp phỏng vấn sâu đối với các nhà quản lý địa phương và đại diện của cộng đồng, người cao tuổi. 8. Đóng góp của đề tài. - Khóa luận góp phần nghiên cứu quá trình đô thị hóa ở Tp Đà Nẵng - Làm rõ sự biến đổi của làng nghề truyền thống Nam ô trong quá trình đô thị hóa. Đặc biệt là sự biến đổi của làng nghề trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, biến đổi cảnh quan, văn hóa và xã hội. - Khóa luận là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và các bạn học sinh, sinh viên quan tâm đến vấn đề các làng nghề truyền thống nói chung và làng nghề truyền thống nước mắm Nam ô nói riêng. 9. Bố cục Ngoài các phần nội dung , kết thúc và tài liệu tham khảo, đề tài được chia thành 2 chương: Chương 1: Tổng quan về làng nghề truyền thống nước mắm Nam ô Chương 2: Làng nghề truyền thống nước mắm Nam ô trong quá trình đô thị hóa 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG NƯỚC MẮM NAM Ô 1.1. Khái quát về làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô 1.1.1. Điều kiện tự nhiên - Vị trí địa lý: Làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô thuộc địa bàn Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Phía Đông giáp vịnh Đà Nẵng, phía Tây giáp xã Hòa Bắc và Hòa Liên, huyện Hòa Vang, phía Nam giáp phường Hòa Khánh Bắc của quận và phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên – Huế. Diện tích phường Hòa Hiệp Nam: 7,88km2, dân số 16.640 người, tại 03 khối phố: Nam Ô 1, Nam Ô 2, Nam Ô 3 có 120 hộ làm mắm. Diện tích phường Hòa Hiệp Bắc: 43,59 km2, dân số 13.411 người, tại khối phố Kim Liên có trên 50 hộ làm mắm.( Năm 2010) Trên địa bàn làng nghề có đường quốc lộ 1A, ga đường sắt Bắc- Nam đi qua là điều kiện thuận lợi để làng nghề giao lưu với các tỉnh và khu vực lân cận, trong nước và quốc tế . - Khí hậu: Khí hậu của làng nghề chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nền nhiệt độ cao và ít biến động, chế độ ánh sáng mưa ẩm phong phú. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 25*C, mùa đông nhiệt độ ít khi xuống dưới 12*C, mùa hè trung bình 28*C – 30*C. Độ ẩm tương đối của không khí trung bình là 82%, lượng mưa trung bình 2.066mm, giờ nắng trung bình 2.150h/năm. Khí hậu trên thích hợp cho phát triển nền nông lâm nghiệp, du lịch, chế biến nông lâm thủy sản. 5 Tuy nhiên về mùa hạ, nền nhiệt độ cao, gây hạn và cửa sông bị nhiễm mặn, về mùa mưa thường gặp bão và lũ lụt. - Tài nguyên nước: + Về nước mặt: sông Cu Đê dài 38km, nằm ở phía Tây Bắc của quận bắt đầu từ dãy núi Bạch Mã, là hợp lưu của 2 sông, sông Bắc dài 23km và sông Nam dài 47km, tổng diện tích 2 lưu vực 426km2, tổng lượng hằng năm vào khoảng 0,5tỷm3 là nguồn cung cấp nước chính phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. + Về nguồn nước ngầm: trữ lượng nước ngầm ở khu vực Hòa KhánhNam Ô khoảng 10.000 m3 / ngày đêm - Tài nguyên biển: Nam Ô là nơi tập trung khá phong phú loài động vật biển như : + San hô: phân bố phía Nam chân đèo Hải Vân, nhờ có nền đáy là đá thích hợp cho san hô bám, có nước trong và độ muối cao, ổn định tạo điều kiện cho san hô phát triển. + Cá mực, tôm, ghẹ: tập trung với trữ lượng phong phú Quận Liên Chiểu có khả năng phát triển ngành nuôi trồng, đánh bắt hải sản. Hằng năm vào tháng 3-4 âm lịch có nhiều cá cơm, cá nục và cá dò có thể khai thác để làm nước mắm. - Tài nguyên du lịch và di sản văn hóa: Với vị trí địa lý thuận lợi, Liên Chiểu có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên vô cùng phong phú, trải dài từ những đồi núi, làng mạc, sông ngòi cho đến các bãi biển hấp dẫn. Ngay tại cửa ngỏ phía bắc quận, có khu bảo tồn thiên nhiên rừng đặc dụng Hải Vân gắn liền với danh thắng hùng vĩ “ Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Nhiều bãi tắm tự nhiên đẹp như Nam Ô, Xuân Thiều, 6 Bắc Ninh ( Hòa Minh), dòng sông Cu Đê chạy dọc chân núi Hải Vân, cùng các món ăn đặc sản nổi tiếng cả nước như “ gỏi cá”, mứt ( rong biển ) và các lễ hội cầu ngư, là nơi lý tưởng để khai thác phát triển dịch vụ du lịch sinh thái. Với điều kiện tự nhiên của quận Liên Chiểu vô cùng phong phú và thuận lợi, sẽ góp phần cho việc bảo tồn và phát triển làng nghề gắn với du lịch. 1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội Trong giai đoạn 1997- 2010, kinh tế tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, trọng tâm là phát triển thương mại. Công nghiệp – tiểu thủ công phát triển với tốc độ nhanh, tổng giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp do quận quản lý thực hiện đạt 7.691,9 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 76,70%, tốc độ tăng bình quân 35,4%. Tổng giá trị thương mại – dịch vụ thực hiện được 1.943,9 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 19, 40%. Tăng từ 16,5tỷ đồng năm 1997 lên 475 tỷ đồng năm 2011, tốc độ bình quân tăng 27,1%. Tổng mức luân chuyển hàng hóa thực hiện được 16.041,3 tỷ đồng, liên tục tăng qua các năm: 1997 : 248,7 tỷ đồng; 2001: 336,5 tỷ đồng; 2006: 947,7 tỷ đồng; 2011: 3.690 tỷ đồng. Năm 2004 giá trị xuất khẩu đạt 400.000 USD , đến năm 2011 đạt 1.700.000 USD. 7 Biểu số 1: Một số chỉ tiêu kinh tế quận Liên Chiểu Chỉ tiêu Đơn vị Năm Năm Năm TĐ tăng 1997 2006 2011 BQ 15 năm(%) 1. Dân số trung bình Người - Số người trong độ tuổi Người 53.625 107.717 142.500 27.172 78.144 lao động 103.377 6,1 2.050,7 2. Các chỉ tiêu kinh tế - Công nghiệp Tỷ đồng 29,5 342,3 475,0 35,4 - Thương mại- dịch vụ Tỷ đồng 16,5 114,2 14,7 27,1 - Nông lâm thủy sản Tỷ đồng 27,5 22,4 - Công nghiệp- xây dựng % 40,1 71,5 76,7 - Thương mại- dịch vụ % 16,5 23,8 19,4 - Nông lâm thủy sản % 37,4 4,7 3,9 -4,4 3. Cơ cấu kinh tế ( Nguồn: Báo cáo tổng kết 15 năm hình thành và phát triển quận Liên Chiểu) Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế của quận đều tăng, trong đó ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm 35,4%. Thương mại- dịch vụ 27,1% vượt kế hoạch đề ra. Ngành nông nghiệp của quận tiếp tục giảm do quá trình đô thị hóa, xây dựng các khu công nghiệp, diện tích đất nông nghiệp giảm dần, tốc độ giảm bình quân 4,4%. 8 Trong những năm đến, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế theo cơ cấu : công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp. Đến năm 2015 tỷ trọng các ngành kinh tế là : công nghiệp chiếm 78,6%, dịch vụ chiếm 21% nông nghiệp giảm còn 0,4%, tốc độ tăng bình quân hằng năm của giá trị sản xuất CN- TTCN là 20%, TM-DV là 33%. 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô. Tên gọi Nam Ô chính là cửa ô phía Nam của Đại Việt thời ấy, hình thành cách ngày nay hàng trăm năm. Vì vậy Nam Ô có giá trị lịch sử của quốc gia chứ không chỉ đơn thuần là một tên làng. Nơi đây đã chứa đựng một đời sống tinh thần và tâm linh khá phong phú. Đó là hệ thống di tích lịch sử, văn hóa, tâm linh có giá trị. Trong khu vực này có các di tích mà dân làng Nam Ô đang giữ gìn như Dinh Âm hồn, Lăng Cá Ông, Miếu Bà Liễu Hạnh… Xưa, Nam Ô thuộc vương quốc Champa, về sau, vào khoảng đầu thế kỷ XIV, khi Chế Mân dâng châu Ô, châu Lý cho Đại Việt vào năm 1306 để cưới công chúa Huyền Trân, vùng đất này trở thành cửa ô phía Nam của Đại Việt nên có tên gọi Nam Ô, và từ đó, người Việt bắt đầu di cư đến sinh sống ở vùng này. Năm 1471, trong cuộc Nam tiến của vua Lê Thánh Tông, lại có thêm rất nhiều cư dân người Việt ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,... vào vùng đất "ô châu ác địa" này để sinh sống. Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Đàng Trong, các đợt di dân vào vùng đất này diễn ra ngày càng nhiều. Trải qua nhiều biến thiên và thăng trầm của lịch sử, đến nay, làng Nam Ô không còn rộng lớn như xưa, chỉ còn là một ngôi làng nhỏ nép mình bên vịnh Đà Nẵng, nhưng tên làng Nam Ô vẫn được giữ nguyên. 9 Là vùng đất được bao bọc bởi núi, sông hùng vĩ, biển cả bao la, Nam Ô được xem là nơi có phong cảnh hữu tình, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc địa phương. Theo các cụ cao niên thì trong các trận chiến chống quân Pháp đánh cửa biển Đà Nẵng vào các năm 1858, 1859, 1862, quân lính triều đình của 2 đồn Nam Ô, Cu Đê và dân binh địa phương tử trận rất nhiều, nên triều đình vua Tự Đức sau đó đã có sắc dụ cho các dân xã lập âm linh để tưởng nhớ tử sĩ trận vong. Vua Thành Thái khi lên ngôi đã sắc dụ cho các nơi lập Âm Hồn Đàn để tưởng vọng các tử sĩ đã bỏ mình trong biến cố thất thủ kinh đô 1885. Miếu Âm Linh sau này dân làng mở rộng thờ thập loại chúng sinh, cô hồn phiêu phương và các âm hồn xiêu mồ lạc nấm của chư phái tộc họ trong làng. Điều đó thể hiện tính nhân văn sâu sắc của di tích, phù hợp với tinh thần uống nước nhớ nguồn và tinh thần nhân đạo của dân tộc ta. Lăng Ông Ngư là di tích được xây dựng từ thời Vua Gia Long (1802), chính là văn hóa tâm linh thờ cá ông. Lúc đầu Lăng có kiến trúc như sườn gỗ, tường đá trác vôi vữa, mái lợp lá kè. Đến năm Tự Đức thứ 4 (1851) Lăng được tôn tạo to đẹp hơn. Năm Bảo Đại thứ 10 (1935), Lăng được làm mới, mái lợp ngói âm dương. Từ đó đến nay Lăng được sửa chữa gia cố nhiều lần nhưng vẫn giữ được vẻ cổ kính, tôn nghiêm, nằm trên khuôn viên rộng chừng 360m2, cách mép nước biển khoảng 50m để dân làng tế lễ hàng năm. Miếu Bà Liễu Hạnh gắn với tục thờ mẫu của cư dân Đại Việt trên vùng đất mới, được nhân dân làng Nam Ô lưu truyền nhiều đời. Bà Chúa Liễu Hạnh nằm trong tín ngưỡng đặc biệt của dân tộc là tục thờ "tứ bất tử" (gồm Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh). Tục thờ Bà Chúa Liễu Hạnh là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc ta. Về mặt cảnh quan tự nhiên, điều thu hút của Nam Ô là một nơi cửa sông Cu Đê tiếp biển, với rạn hay còn gọi là ghềnh đá tuyệt đẹp ẩn hiện trong làn sóng biển, bao bọc một khu rừng nguyên sinh đầy huyền tích của làng. 10 Ghềnh Nam Ô chỉ rộng khoảng hơn 2ha nhưng chứa đầy những huyền tích. Điều kỳ lạ là dân làng Nam Ô đang ở chen chúc nhau với mật độ dân cư rất cao, nhiều kiệt hẻm chỉ đủ cho một người đi nhưng dân cư không bao giờ lấn vào khu rừng thiêng hay chặt phát cây trong rừng. Chính vì vậy, ở ngay gần khu đô thị sầm uất, rừng Nam Ô vẫn giữ được vẻ nguyên sinh với màu xanh bất tận như một lá phổi của cánh Bắc quận Liên Chiểu. Du khách đến đây sẽ được chiêm ngưỡng tuyệt tác của thiên nhiên qua những dải đá ngầm phân bố dày đặc, có đá chồng lên đá, có nơi sâu khoảng vài mét tạo nên khung cảnh khá hoang sơ. Ghềnh Nam Ô xưa kia từng là ngư trường của ngư dân các quận huyện lân cận bởi đây có môi trường khá lý tưởng cho nhiều loài cá trú ẩn, cùng với đó là có nhiều rong tảo nên cung cấp một lượng thức ăn phong phú cho đủ loài cá khác nhau. Ngư dân ở vùng này xem nơi đây như một kho báu để khai thác hải sản. Vào những ngày đẹp trời, bãi rạn nước êm đềm hiền hòa như người thôn nữ e ấp nhưng khi biển động thì từng cơn sóng dội ầm ầm vào những tảng đá to tạo thành cơn thịnh nộ của cuồng phong, sóng biển sẵn sàng hất tung đến vài mét. Những ngày hè oi ả, ghềnh thu hút nhiều bạn trẻ đến đây vui chơi, hẹn hò đôi lứa hay tổ chức picnic cùng đám bạn. Nam Ô còn là làng nghề pháo cổ truyền một thời và hiện tại đây là làng nghề nước mắm nổi tiếng toàn quốc. Nước mắm là món “quốc hồn, quốc túy” của người Việt, là thứ làm cho ẩm thực Việt phân biệt với phần còn lại của ẩm thực thế giới. Nổi tiếng danh bất hư truyền về nước mắm là làng nghề Nam Ô, đã được ghi chép vào nhiều sử sách. Như Phủ biên tạp lục ghi nhận nước mắm là đặc sản của xứ Thuận Quảng, mà đặc biệt là Nam Ô. Là thứ mà các chúa Nguyễn bắt phải nộp thuế biệt nạp, thay thế cho thuế đinh, nghĩa là thay vì phải nộp thuế thân, thì các hộ dân làm nghề nước mắm, hàng năm phải nộp về cho triều đình nhà chúa một lượng nước mắm nhất định. Ở làng Nam Ô, 11 nghề làm nước mắm bắt đầu hình thành vào khoảng cuối thời chúa Nguyễn, với khoảng 50 người. Nhà nước quy định mỗi năm 30 người trong số họ phải nộp cho nhà nước mỗi người 1 thùng nước mắm, 20 người còn lại mỗi người phải nộp 2 vò mắm mòi và 1 vò mắm tép. Sang đến thời Nguyễn, nhà nước tăng thuế biệt nạp nước mắm ở Nam Ô lên 8 vò mỗi người mỗi năm, người già người ốm phải nộp một nửa định mức. Ngoài nước mắm, chủ yếu làm từ cá cơm, mỗi người mỗi năm phải nộp thêm 1 vò mắm ướp, 1 vò mắm mòi và 1 vò mắm cá thu. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thương hiệu "Nước mắm ở Nam Ô" nổi tiếng ở nhiều vùng, đến năm 2009, nhãn hiệu này được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy bảo hộ. Hiện nay, tại Nam Ô có trên 100 hộ dân sống bằng nghề làm nước mắm thủ công rất lâu đời ở quy mô hộ gia đình. Các hộ sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ, phân bố rải rác trong khu dân cư. Nghề pháo ở Nam Ô là nghề cổ truyền thủ công sản xuất ra pháo nổ và pháo hoa.Người dân Nam Ô tôn vinh cụ Cửu Mai là tổ nghề pháo Nam Ô. Cụ Cửu Mai tên thật là Ngô Mai (18?? - 1957) quê gốc tỉnh Quảng Ngãi, là người có rất nhiều tài. Trên đường “hành hóa” qua Nam Ô, nhìn thấy phong thủy nơi đây đầy vượng khí, phong cảnh tuyệt đẹp, sản vật sung túc nên cụ quyết định ở lại. Cụ chữa bệnh cứu người bằng cây thuốc và nước khoáng, biết gọi “âm binh, thiên tướng”, lại biết cách làm pháo nổ, pháo hoa. Dân làng Nam Ô xem cụ như một vị phù thủy, gọi cụ một cách tôn kính là Thầy Ngài.Năm Bảo Đại thứ mười (1934), nhà vua làm đại lễ cưới Nam Phương Hoàng hậu. Nghe tài năng của cụ Mai, vua bèn triệu cụ về kinh đô Huế để dựng giàn pháo hoa kịp trình diễn trong ngày khánh lễ. Giàn pháo đã gây sức hấp dẫn mãn nhãn tuyệt vời cho vua, quan và dân chúng kinh thành. Từ đó vua ban cho cụ Mai hàm Chánh Cửu phẩm nên dân làng gọi cụ là Cửu Mai. 12 Tiếp đó, đúng lúc vạn mành trùng tu lăng Ngư Ông của làng Nam Ô, cụ Mai phát tâm hiến cúng một giàn pháo hoa và những tràng pháo cho lễ lạc thành. Dưới sự chỉ dẫn của cụ, một giàn pháo tuyệt đẹp đã kịp trình làng cho lễ lạc thành ngày 21/5 năm Giáp Tuất. Sự kiện đặc biệt này đã thu hút đông đảo dân chúng đến xem. Tất cả mọi người có mặt đều ngỡ ngàng trước một cảnh kỳ vĩ lung linh của màu sắc pháo trên bầu trời mà trong đời lần đầu tiên được thấy. Đêm pháo hoa đó đã đặt nền móng khởi sinh nghề pháo cho làng Nam Ô. Đến năm 1994, vì yếu tố môi trường, an ninh và kinh tế, Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo. Tuy nghề pháo không còn nhưng người dân nơi này vẫn không quên người đã truyền nghề cho mình để sản xuất những dây pháo thương phẩm có chất lượng, từng vang bóng một thời. Sau khi nghề làm pháo bị cấm, bên cạnh đó chính phủ bắt đầu quan tâm hơn tới nghề truyền thống của làng. Dân làng bắt đầu quay lại với làng nghề làm nước mắm truyền thống và nghề làm mắm có cơ hội được tồn tại và phát triển cho đến bây giờ. 13 CHƯƠNG 2: BIẾN ĐỔI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG NƯỚC MẮM NAM Ô TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA 2.1. Khái quát về quá trình đô thị hóa ở Đà Nẵng Đô thị hóa là một quá trình kinh tế - xã hội mà biểu hiện của nó là sự tăng nhanh về số lượng và quy mô của các đặc điểm dân cư đô thị, sự tập trung dân cư trong các thành phố, nhất là các thành phố lớn và phổ biến rộng rãi lối sống thành thị Về đô thị hóa ở Đà Nẵng, hầu hết các nhà nghiên cứu đều lấy năm 1889 làm mốc khởi đầu cho quá trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng; đồng thời cũng là bước khởi đầu của quá trình hình thành, phát triển của đô thị cận đại ở miền Trung - Tây Nguyên với sự kiện toàn quyền Đông Dương ra Nghị định ngày 24/05/1889 thành lập thành phố Đà Nẵng.Nếu như năm 1889 là mốc đánh dấu sự khởi đầu cho quá trình đô thị hóa ở Đà Nẵng thì năm 2003 có thể coi là mốc đánh dấu đô thị hóa ở Đà Nẵng bước vào giai đoạn phát triển đột khởi. Đây là năm Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 1, và từ đó với những quyết sách táo bạo, năng động của chính quyền, sự đồng thuận chung sức của người dân thành phố, Đà Nẵng đã không ngừng đẩy mạnh tiến trình đô thị hóa, hiện đại hóa, kết quả đã tạo nên một diện mạo mới cho thành phố như ngày hôm nay. Về không gian đô thị, sau khi được công nhận là đô thị loại I cấp quốc gia, ÐàNẵng có cơ hội mới, điều kiện mở rộng không gian đô thị gấp nhiều lần so với trước. Đến nay Đà Nẵng đã mở rộng ranh giới đô thị hơn 3 lần so với trước năm 2003 theo hướng “mở rộng bờ sông, kéo dài bờ biển”, đem lại cho thành phố tầm vóc mới về cả không gian lẫn chất lượng đô thị. Trong định hướng phát triển, thành phố Đà Nẵng sẽ mở rộng về các hướng tây bắc, nam và đông nam. Theo đó, từ chỗ gần 9000 ha vào năm 2015 đến năm 2020, diện tích đất xây dựng đô thị sẽ tăng lên khoảng 20.010 ha, 14 tăng hơn 2,5 lần so với hiện nay và đến năm 2030, diện tích đất xây dựng đô thị sẽ phát triển tương ứng là 37.500 ha . Việc mở rộng đô thị đã tạo thêm không gian ở và khai thác quỹ đất, xây dựng Đà Nẵng trở thành đô thị hoàn chỉnh, có cấu trúc hài hòa. Trong những thành tựu đạt được của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa - hiện đại hóa Đà Nẵng từ năm 2003 đến nay, xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị được xem là nổi bật nhất. Trong 5 năm gần đây (2010 - 2015), riêng tổng chi đầu 76 tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 32.069 tỷ đồng (bằng 46,1% tổng chi ngân sách địa phương) . Nhiều công trình giao thông, điện lực, viễn thông, cấp thoát nước, xử lý chất thải có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp được đưa vào sử dụng. Bên cạnh đó, nhiều khu đô thị mới với hạ tầng đồng bộ, hiện đại được hoàn thành, làm cho diện mạo thành phố thay đổi rõ nét, tạo nền tảng quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện chất lượng đời sống nhân dân. Đến nay, hầu hết các kiệt hẻm đã được bê tông hóa và có điện chiếu sáng công cộng. Diện tích không gian xanh đô thị được chú trọng đầu tư, đạt 6,1m2 /người. Cùng với sự phát triển đồng bộ của cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất - kỹ thuật đô thị, kinh tế của thành phố Đà Nẵng cũng đạt được những thành tựu đáng kể, nhất là từ năm 2003 đến nay. Hướng đến mục tiêu “trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ bản trở thành một thành phố công nghiệp trước năm 2020”, thành phố đã thực hiện chính sách “đổi mới” trên nhiều lĩnh vực, nhờ đó kinh tế của thành phố đã có bước tiến mạnh mẽ với tốc độ phát triển trung bình trên 10% suốt giai đoạn 2003 - 2015. Đời sống văn hóa của nhân dân được nâng lên. Thành phố chú trọng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể; đầu tư xây dựng nhiều công trình văn hóa lớn như Nhà hát Trưng Vương, Nhà biểu diễn đa năng, Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, Trường Văn hóa - Nghệ thuật, Thư viện 15 Tổng hợp,…; nghiên cứu, phục dựng một số lễ hội dân gian. Hệ thống các thiết chế văn hóa từng bước được củng cố, góp phần tạo nền tảng tinh thần, động lực mới cho phát triển. Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ngày càng đi vào chiều sâu. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển trên diện rộng. Hoạt động văn học - nghệ thuật có nhiều chuyển biến tích cực, báo chí, phát thanh, truyền hình tiếp tục phát triển, đóng góp tích cực vào việc nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của người dân thành phố. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, sức khỏe sinh sản, dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ chăm sóc - giáo dục trẻ em, vì sự tiến bộ của phụ nữ,… được triển khai có hiệu quả trên diện rộng. Đặc biệt, chương trình “5 không” (không hộ đói, không mù chữ, không lang thang xin ăn, không ma tuý, không giết người cướp của) cơ bản được hoàn thành và chương trình “3 có” (có nhà ở, có việc làm, có lối sống văn minh đô thị) đạt kết quả tích cực, tạo nên một thương hiệu riêng của thành phố biển miền Trung này trong vấn đề an sinh xã hội. Những thành tựu về đô thị và các chương trình xã hội của thành phố đã góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về đời sống của cư dân các khu vực trong thành phố. Quá trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng đồng thời cũng làm nảy sinh và định hình lối sống đô thị. Đề án “Xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đô thị” trên địa bàn thành phố được triển khai qua các năm và được đẩy mạnh trong “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015” đã góp phần xây dựng nếp sống đô thị văn minh, lành mạnh ở thành phố Đà Nẵng. 78 Bên cạnh đó, sự phát triển của thành phố Đà Nẵng từ năm 2003 đến nay cùng với tốc độ đô thị hóa cao đã dẫn đến sự gia tăng ngày càng đông số lượng dân nhập cư và khiến số thị dân tăng đáng kể. Tương ứng với sự gia tăng số dân thành thị là sự suy giảm dân số ở nông thôn. Đáng chú ý, trong giai đoạn 2005 - 2009, tỷ suất 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan