LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này ngoài sự cổ gắng của bản thân,
tôi còn nhận đƣợc sự hƣớng dẫn giúp đỡ của nhiều ngƣời. Nhân đây, tôi xin gửi
lời cảm ơn chân thành tới thầy Tăng Chánh Tín đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ
và đóng góp ý kiến cho tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận.
Xin trân trọng cảm ơn các cán bộ phƣờng văn hóa xã An Lễ, Ban quản lý di
tích đền Đồng Bằng đã giúp đỡ nhiệt tình, cung cấp tƣ liệu cho tôi trong quá trình
điền dã, tìm hiểu lễ hội đền Đồng Bằng.
Cảm ơn quý thầy cô trong khóa Lịch Sử - Trƣờng Đại học Sƣ phạm Đà
Nẵng đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành khóa luận này. Đồng cảm ơn các bạn
đã trao đổi, đóng góp ý kiến để tôi hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng song
không thể không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong đƣuọc sự đóng
góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 4 năm 2018
Sinh Viên: Nguyễn Quang Thƣởng
Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 7
3. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 8
4. Đối tƣợng và phạm vi đề tài .............................................................................. 8
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................... 9
5.1. Nguồn tài liệu ................................................................................................. 9
5.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 9
5.2.1. Phương pháp luận ....................................................................................... 9
5.2.2. Phương pháp lịch sử logic .......................................................................... 9
5.2.3. Phương pháp thu thập tài liệu..................................................................... 9
5.2.4. Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp................................................. 9
5.2.5. Phương pháp quan sát trực tiếp.................................................................. 9
6. Đóng góp của khóa luận .................................................................................. 10
7. Bố cục của đề tài ............................................................................................. 10
NỘI DUNG ......................................................................................................... 11
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ...................................................................................................... 11
1.1. Tổng quan về lễ hội ...................................................................................... 11
1.1.1. Khái niệm lễ hội ........................................................................................ 11
1.1.2. Đặc điểm của lễ hội................................................................................... 12
1.1.2.1. Tính “Thiêng” ........................................................................................ 12
1.1.2.2. Tính cộng đồng ....................................................................................... 12
1.1.2.3. Tính địa phương ..................................................................................... 12
1.1.2.4. Tính cung đình........................................................................................ 12
1.1.2.5. Tính đương đại ....................................................................................... 13
1.1.2.6. Tính diễn xướng...................................................................................... 13
1.1.2.7. Nghệ thuật tạo hình, trang trí ................................................................ 13
1.2. Lễ hội ở Việt Nam ........................................................................................ 14
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển ........................................................... 14
1.2.2. Một số đặc trưng, giá trị cơ bản ............................................................... 16
1.2.3. Những lễ hội tiêu biểu ............................................................................... 21
1.2.4. Thực trạng lễ hội và công tác quản lý lễ hội ............................................ 26
1.3. Khái quát về xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ......................... 28
1.3.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên .................................................................. 28
1.3.2. Đôi nét về lịch sử hình thành, phát triển................................................... 29
1.3.3. Điều kiện kinh tế xã hội ............................................................................. 31
1.3.4. Đặc điểm văn hóa, dân cư......................................................................... 33
CHƢƠNG 2. LỄ HỘI ĐỀN ĐỒNG BẰNG – MỘT LỄ HỘI ĐỘC ĐÁO
CỦA TỈNH THÁI BÌNH .................................................................................. 35
2.1. Di tích lịch sử đền Đồng Bằng ..................................................................... 35
2.1.1. Vị trí địa lý................................................................................................. 35
2.1.2. Lịch sử hình thành ..................................................................................... 36
2.2.3. Đối tượng thờ phụng ................................................................................. 37
2.2.4. Giá trị của di tích ...................................................................................... 43
2.2.4.1. Giá trị lịch sử ......................................................................................... 43
2.2. Lễ hội đền Đồng Bằng................................................................................. 54
2.2.1. Thời gian, không gian của lễ hội ............................................................... 55
2.2.2. Công tác chuẩn bị lễ hội ............................................................................ 57
2.2.3. Phần lễ - Các nghi lễ chính trong lễ đền Đồng Bằng ................................ 58
2.2.4. Phần hội - Các trò chơi dân gian trong lễ hội........................................... 67
2.2.5. Nghệ thuật diễn xướng dân gian .............................................................. 72
2.2.6. Vai trò, giá trị của lễ hội đền Đồng Bằng ................................................. 77
2.2.6.1. Về văn hóa .............................................................................................. 77
2.2.6.2. Về tâm linh .............................................................................................. 78
2.2.6.3. Về kinh tế, du lịch ................................................................................... 80
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY
GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI ĐỀN ĐỒNG BẰNG NHẰM MỤC ĐÍCH PHÁT
TRIỂN DU LỊCH .............................................................................................. 82
3.1. Ý nghĩa và mục tiêu của công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đối với du
lịch. ...................................................................................................................... 82
3.2. Công tác quản lý các hoạt động tại lễ hội ..................................................... 84
3.2.1. Bên trong đền............................................................................................. 84
3.2.2. Bên ngoài đền ............................................................................................ 86
3.3. Các hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại lễ hội ............................................... 87
3.3.1. Kinh doanh ẩm thực .................................................................................. 87
3.3.2. Kinh doanh hàng lưu niệm, đặc sản .......................................................... 88
3.3.3. Các loại hình kinh doanh khác .................................................................. 89
3.4. Hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du khách ....................... 90
3.5. Công tác bảo vệ môi trƣờng của lễ hội ........................................................ 90
3.6. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị của lễ hội đền Đồng Bằng
nhằm mục đích phát triển du lịch. ....................................................................... 91
3.6.1. Giải pháp về nghiên cứu và tôn vinh ........................................................ 91
3.6.2. Giải pháp bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị lễ hội................................ 92
3.6.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý ........................................ 93
3.6.4. Giải pháp đầu tư đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ du
khách ................................................................................................................... 94
3.6.5. Giải pháp bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an ninh lễ hội .................... 95
3.6.6. Giải pháp quảng bá, truyền thông ............................................................ 97
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 101
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội của đất nƣớc,
đời sống của con ngƣời Việt Nam ngày đƣợc nâng cao, kéo theo đó là sự gia
tăng về nhu cầu tham gia sinh hoạt, hƣởng thụ văn hóa tinh thần.
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần độc đáo, phong phú,
đa dạng đáp ứng đƣợc những nhu cầu cần thiết của con ngƣời. Sau những
ngày tháng lao động vất vả mệt nhọc, đến với những dịp lễ hội là lúc con
ngƣời tìm lại chính mình, đƣợc tịnh tâm, đƣợc hòa đồng, cộng cảm với tất cả
trong một không gian, không khí linh thiêng nhƣ vậy. Tham dự vào lễ hội,
con ngƣời sẽ cảm thấy thanh thản hơn, nhẹ nhàng hơn. Đến với lễ hội cũng là
dịp để con ngƣời đƣợc giao hòa, gần gũi với thần linh hơn, kính trọng, cảm tạ
và cầu xin những điều may mắn sẽ đến với bản thân, gia đình và bạn bè. Chính
bởi lẽ đó mà lễ hội nói chung, lễ hội truyền thống nói riêng ngày nay càng
thu hút đƣợc sự quan tâm đông đảo của mọi ngƣời. Và lễ hội đền Đồng
Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình là một trong những lễ hội
truyền thống đã để lại những ấn tƣợng sâu đậm đến đông đảo mọi ngƣời.
Mảnh đất Quỳnh Phụ- Thái Bình là nơi có nhiều lễ hội diễn ra nhƣ hội
làng An Thái, hội A Sào, lễ hội đền Trần ở An Vũ… Trong đó lễ hội đền
Đồng Bằng là lễ hội nổi tiếng, khai hội chính thức từ ngày 20 đến ngày 26
tháng Tám âm lịch hàng năm với quy mô lớn, sinh động và linh thiêng đã thu
hút hàng vạn ngƣời trong tỉnh và khách thập phƣơng về dự.
Lễ hội đền Đồng Bằng đáp ứng đƣợc nhu cầu đi tìm hạnh phúc của con
ngƣời thông qua niềm tin tôn giáo. Đây còn là dịp để củng cố và phát triển
mối quan hệ cá nhân - gia đình - công đồng - quốc gia trên cơ sở một hệ giá trị
dân tộc. Đặc biệt, lễ hội đền Đồng Bằng còn làm cho diện mạo của đời sống
văn hóa của địa phƣơng thêm sinh động, đa dạng và là nguồn lực quan trọng
cho phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh những mặt tích cực thì lễn hội đền Đồng Bằng còn tồn tại
những hạn chế nhƣ sự thiếu đa dạng về nội dung, chƣa thỏa mãn đƣợc nhu cầu
thẩm mỹ, vấn đề vệ sinh môi trƣờng, vấn đề lợi dụng lễ hội để kiếm lời bất
chính, và các tệ nạn xã hội nhƣ cờ bạc, lừa đảo, móc túi, ăn xin…
Từ thực tế trên, việc quan tâm tìm hiểu, đánh giá đúng thực trạng lễ hội,
đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản
lý hoạt động lễ hội, bảo tồn, phát huy và khai thác hết giá trị của lễ hội đền
Đồng Bằng nhằm mục đích phát triển du lịch là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Đồng thời, với ý thức trách nhiệm của một ngƣời con của quê hƣơng
Quỳnh Phụ, Thái Bình trƣớc một di sản quý báu của cha công; tôi đã mạnh
dạn chọn đề tài : “Lễ hội đền Đồng Bằng xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh
Thái Bình” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong kho tàng các giá trị văn hóa Việt Nam, lễ hội truyền thống là một di
sản tinh thần vô giá mà ông cha ta đã để lại. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt
văn hóa của cộng đồng thể hiện đầy đủ bản sắc, giá trị văn hóa của một vùng
quê nói riêng và dân tộc nói chung. Theo thống kê 2009, hiện cả nƣớc Việt Nam
có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội
lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ
nƣớc ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Trong những
năm qua đã có rất nhiều tác giả đã nghiên cứu về lễ hội Việt Nam. Trƣớc hết
phải kể đến nhƣ Lê Hồng Lý, Lê Trung Vũ (2005), “ Lễ hội Việt Nam”, Nhà
xuất bản Văn hóa- Thông tin và Hoàng Lƣơng (2002), “Lễ hội truyền thống của
các dân tộc Việt Nam khu vực phía Bắc”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà
Nội, tác giả đã cung cấp một cách có hệ thống lý thuyết và đặc điểm chủ yếu của
lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam khu vực phía Bắc. Công trình phải kể
đến nữa là Nhiều tác giả (2002), “ Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam”, Nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc, với cái nhìn tổng quan về lễ hội cổ truyền gắn với
vùng văn hóa, đã có đƣợc ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định, đóng góp có
hiệu quả vào việc sƣu tầm, nghiên cứu lễ hội cố truyền văn hóa dân gian và dân
tộc…
Lễ hội đền Đồng Bằng ở xã An lễ huyện Quỳnh Phụ là một lễ hội tâm
linh lớn, có truyền thuyết liên quan đến công lao giữ nƣớc của Vua cha Bát Hải
Đồng Đình (Long cung hoàng tử Giao Long). Lễ hội là một món ăn tinh thần
không thể thiếu của ngƣời dân Xã An Lễ và khách du lịch thập phƣơng. Vì vậy
lễ hội đã thu hút khá nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu lịch sử về đây
tìm hiều và đã có nhiều công trình, bài nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này.
Lễ hội đền Đông Bằng đã xuất hiện trong một số các bài viết đăng trên các báo,
tạp chí của Thái Bình nhƣ bài viết (02/12/2014), “Đền Đồng Bằng – nơi lưu giữ
những giá trị văn hóa truyền thống cần được bảo tồn và phát huy” Cổng thông
tin điện tử Thái Bình. Đã giới thiệu cũng nhƣ cung cấp thông tin về lịch sử hình
thành và khái quát các hoạt động diễn rat rang lễ hộ và giá trị văn hóa, kiến trúc
của đền Đồng Bằng đến bạn đọc. Tuy nhiên tác phẩm này mới chỉ đề cập một
cách chung chung về lễ hội chƣa đi sâu vào nghiên cứu lễ hội và vấn đề khai
thác bảo tồn các giá trị lịch sử - văn hóa của lễ hội.
Do đó, tuy không phải là một để tài mới, song khóa luận này, tôi đi sâu tìm
hiểu cụ thể nguồn gốc hình thành, qúa trình phát triển, các bƣớc tiến hành trong
lễ hội… và đặc biệt là vấn đề khai thác và bảo tồn các giá trị lịch sử - văn hóa
của lễ hội để sử dụng vào việc phát triển du lịch tại lễ hội.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Khóa luận tìm hiểu về di tích lịch sử và lễ hội đền Đồng Bằng.
- Khảo sát và đánh giá về công tác quản lý và thực trạng phát triển du lịch
tại đền Đông Bằng
- Đồng thời đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả phát triển du
lịch tại đền Đồng Bằng.
4. Đối tƣợng và phạm vi đề tài
- Đối tượng:
- Di tích lịch sử và lễ hội đền Đồng Bằng; công tác tổ chức, quản lý lễ hội
và phát triển du lịch tại đền Đồng Bằng.
- Phạm vi nghiên cứu:
Lễ hội đền Đồng Bằng xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu đƣợc lấy từ các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Các tài liệu
cũng đƣợc lấy từ các tạp chí và các sách vở nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để cho nội dung phong phú và sát với thực tế, tôi đã kết hợp nhiều phƣơng
pháp nghiên cứu nhƣ:
Phƣơng pháp quan sát thực tiễn: quan sát thực tế công tác tín dụng, các
nghiệp vụ quy trình tín dụng tại chi nhánh để có cái nhìn thực tiễn và tổng quan
Phƣơng pháp thu thập thông tin: thu nhập thông tin cần thiết về tín dụng tại chi
nhánh, đồng thời thu thập thêm thông tin trên báo, internet…
Phƣơng pháp phân tích, so sánh số liệu theo chỉ tiêu tuyệt đối và tƣơng đối
và so sánh.
5.2.1. Phương pháp luận
Đây là đề tài liên quan đến đời sống văn hóa tình thân, tâm linh của con
ngƣời và việc phát triển du lịch. Do vậy tôi dựa trên quan điểm của Đảng về văn
hóa và việc vận dụng văn hóa dân tộc để phát triển du lịch.
5.2.2. Phương pháp lịch sử logic
Thông qua phƣơng pháp này đề phân tích có cái nhìn đúng đắn hơn các vấn
đề có liên quan đến lịch sử của một vùng đất, những tài liệu, câu chuyện có liên
quan đến lịch sử dân tộc.
5.2.3. Phương pháp thu thập tài liệu
Sử dụng phƣơng pháp này vào việc thu thập các tài liệu có liên quan đến lễ
hội. các tài liệu có liên quan tới đề tài đƣợc thu thập từ nhiều nguồn khác nhau
5.2.4. Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp
Tiến hành so sánh đối chiếu các tài liệu, số liệu… sau đó phân tích và tổng
hợp các tài liệu dựa trên mục đích nghiên cứu làm cơ sở cho việc hoàn thành
khóa luận.
5.2.5. Phương pháp quan sát trực tiếp
Vận dụng phƣơng pháp này để quan sát công trình kiến trúc của di tích.
Đồng thời tôi sử dụng phƣơng pháp này vào việc quan sát công việc chuẩn bị lễ
hội của chính quyền và ngƣời dân, diễn trình của lễ hội, các trò chơi, cuộc thi
diễn ra ở lễ hội…
6. Đóng góp của khóa luận
Góp phần tìm hiểu một lễ hội truyền thống ở quê hƣơng – Lễ hội Đền
Đồng Bằng. Kết quả nghiên cứu về lễ hội giúp hiểu rõ hơn về lễ hội, giá trị
truyền thống, văn hóa của một vùng đất mình đang sống, tinh thần cố kết cộng
đồng đƣợc thể hiện qua nhiều sinh hoạt văn hóa trong lễ hội. Trên cơ sở đó giúp
nhìn nhận một các khách quan nhất thực trạng khai thác và bảo tồn các giá trị
văn hóa lịch sử - văn hóa của lễ hội. Đề xuất một số giải pháp để phát triển du
lịch tại lễ hôi Đền Đồng Bằng.
7. Bố cục của đề tài
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
CHƢƠNG 2. LỄ HỘI ĐỀN ĐỒNG BẰNG – MỘT LỄ HỘI ĐỘC ĐÁO CỦA
TỈNH THÁI BÌNH
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ
TRỊ CỦA LỄ HỘI ĐỀN ĐỒNG BẰNG NHẰM MỤC ĐÍCH PHÁT TRIỂN DU
LỊCH
KẾT LUẬN
DANH MỤC THAM KHẢO
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về lễ hội
1.1.1. Khái niệm lễ hội
Gs. Hoàng Phê (2016) trong “Từ điển tiếng Việt”, Nxb Hồng Đức có định
nghĩa về “Lễ hội” nhƣ sau:
“Lễ” là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của
con ngƣời đối với thần linh, phản ánh những ƣớc mơ chính đáng của con ngƣời
trƣớc cuộc sống mà bản thân họ chƣa có khả năng thực hiện.
“Hội” là sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát
từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho
từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự
sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ
niềm mơ ƣớc chung vào bốn chữ "nhân khang, vật thịnh".
Trong cuốn “Hội hè Việt Nam” (2017), Nxb Thế giới, tác giả Nguyễn Văn
Huyên cho rằng “Hội” và “Lễ” là một sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc
Việt Nam. Hội và lễ có sức hấp dẫn, lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội cũng
tham gia để trở thành một nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều
thập kỷ.
Trong cuốn “Lễ hội cổ truyền” (1993) của Phan Đăng Nhật, Nxb Khoa học
xã hội cho rằng “ Lễ hội là một pho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vố số những
phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện xã hội, lịch sử
quan trọng của dân tộc”.
Lễ hội còn là nơi bảo tồn, tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời
kỳ lịch sử trong quá khứ dồn nén lại cho tƣơng lai”.
Nhƣ vậy ta thấy “Lễ hội” là một thể thống nhất không thể tách rời. “Lễ”
là phần đạo đức tín ngƣỡng, phần tâm linh sâu xa trong mỗi con ngƣời. “Hội”
là các trò diễn mang tính nghi thức, gồm các trò chơi dân gian phản ánh cuộc
sống thƣờng nhật của ngƣời dân và một phần đời sống cá nhân nhằm kỷ niệm
một sự kiện quan trọng với cả cộng đồng.
1.1.2. Đặc điểm của lễ hội
1.1.2.1. Tính “Thiêng”
Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra đƣợc một lý do mang
tính "thiêng" nào đó. Đó là ngƣời anh hùng đánh giặc bị tử thƣơng, ngã xuống
mảnh đất ấy, lập tức đƣợc mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một ngƣời anh hùng
bỗng dƣng hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm ngày
sinh, ngày mất của một ngƣời có công với làng với nƣớc, ở lĩnh vực này hay
lĩnh vực khác (có ngƣời chữa bệnh, có ngƣời dạy nghề, có ngƣời đào mƣơng, có
ngƣời trị thủy, có ngƣời đánh giặc... ). Song, những ngƣời đó bao giờ cũng đƣợc
"thiêng hóa" và đã trở thành "Thần thánh" trong tâm trí của ngƣời dân.
1.1.2.2. Tính cộng đồng
Lễ hội chỉ đƣợc sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự
nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. Bởi
thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nƣớc.
1.1.2.3. Tính địa phương
Lễ hội đƣợc sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế
lễ hội ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phƣơng của lễ hội chính
là điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp
ứng những nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân, không chỉ ở nội dung lễ
hội mà còn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở
trang phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng...
1.1.2.4. Tính cung đình
Đa phần các nhân vật đƣợc suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội của
ngƣời Việt, là các ngƣời đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xƣa. Bởi thế
những nghi thức diễn ra trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hƣơng, đến rƣớc kiệu... đều
mô phỏng sinh hoạt cung đình. Sự mô phỏng đó thể hiện ở cách bài trí, trang
phục, động tác đi lại... Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy
hơn. Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho ngƣời tham gia cảm thấy đƣợc
nâng lên một vị trí khác với ngày thƣờng, đáp ứng tâm lý, những khao khát
nguyện vọng của ngƣời dân.
1.1.2.5. Tính đương đại
Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch
sử, cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đƣơng đại. Những trò chơi mới, những
cách bài trí mới, những phƣơng tiện kỹ thuật mới nhƣ rađio, cassete, video, tăng
âm, micro... đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội đƣợc thuận lợi
hơn, đáp ứng nhu cầu mới. Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều phải dần dần qua
sự sàng lọc tự nguyện của nhân dân, đƣợc cộng đồng chấp nhận, không thể là
một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý...
1.1.2.6. Tính diễn xướng
Có thể nói rằng, toàn bộ lễ hội là một sân khấu đặc biệt. Tại sân khấu này,
có ba nhân vật chính. Một nhân vật là ông Thầy cúng (Thầy Đồng đền ở Đền,
Ông chủ tế ở đình...) ngƣời có khả năng thông qua các Thần linh, sự nhập vai
của các Thần linh (các hiện tƣợng lên đồng). Nhân vật thứ hai là quần chúng
nhân dân, những tín đồ của tôn giáo hay tín ngƣỡng, những ngƣời đã có sẵn
những cảm xúc tôn giáo, tín ngƣỡng nhạy bén, sẵn sàng tham gia, nhập cuộc vào
cuộc trình diễn này. Nhân vật thứ ba tuy không xuất hiện trên sân khấu, nhƣng
lại có vai trò rất quan trọng trong lễ hội, chính nhân vật này tạo ra cảm hứng
xuyên suốt cuộc lễ hội, là động lực của lễ hội. Đó là các Thần linh, đối tƣợng
thờ cúng của các lễ hội.
1.1.2.7. Nghệ thuật tạo hình, trang trí
Nghệ thuật tạo hình và trang trí tồn tại trong Lễ hội nhƣ một yếu tố tất yếu.
Cờ hội với năm sắc ngũ hành - năm màu tƣơng ứng với năm yếu tố cơ bản của
vũ trụ theo quan niệm triết học cổ sơ, đặt cạnh nhau rất tƣơng phản, gây sự chú
ý. Các loại kiệu sơn son thếp vàng lộng lẫy, chạm trổ tinh vi. Tƣợng gỗ với cách
tạo hình dân gian và truyền thống.
Trong ngày hội làng, các đội tế với cách ăn mặc đặc biệt, đã gây ấn tƣợng
đối với ngƣời dự hội. Thực ra, trang phục của đội tế, từ chủ tế đến các thành
viên của đội, là sự mô phỏng sắc phục của quan lại khi lâm triều. Đó cũng là yếu
tố tâm lý hấp dẫn đối với những ngƣời trong đội tế. Dƣờng nhƣ trong trang phục
đó, họ cảm thấy một vinh dự đặc biệt dành cho họ và họ đƣợc đứng ở một vị trí
khác hẳn ngày thƣờng. Ở các đền phủ, nghệ thuật trang trí đặc biệt đƣợc coi
trọng. Màu sắc và các đồ trang sức của ngƣời lên đồng chính là yếu tố quan
trọng để phân biệt các giá đồng. Nếu Cô Bé Thƣợng Ngàn chỉ dùng trang phục
sắc xanh (miền núi) với các loại trang sức nhƣ vòng bạc, hoa tai thƣờng đƣợc
đồng bào các dân tộc thiểu số ƣa dùng thì Ông Hoàng Mƣời, một vị quan văn
hào hoa, phong nhã, lại ăn mặc kiểu quan văn... Cách bài trí điện thờ cũng đặc
biệt. Khác với chùa chiền thƣờng trang trí giản dị, gợi cảnh thú nhàn, xa lánh thế
tục, các đền phủ ƣa trang hoàng lộng lẫy, rực rỡ gần với cảnh lộng lẫy của các
cung điện thế tục.
Trong điện thờ, các vị Thánh đƣợc thờ ở một vị trí riêng, vừa phù hợp với
thứ bậc của họ trong hệ thống Thần linh của Đạo Mẫu, vừa phù hợp với tính
cách của các vị theo quan niệm truyền thống.
1.2. Lễ hội ở Việt Nam
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Lễ hội truyền thống là hiện tƣợng lịch sử, hiện tƣợng văn hóa có mặt ở
Việt Nam từ lâu đời và có vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội. Những năm
gần đây, trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của
nƣớc ta, văn hóa truyền thống nói chung, trong đó có lễ hội truyền thống đã
đƣợc phục hồi và phát huy, làm phong phú hơn đời sống văn hóa của Việt Nam.
Lễ hội là một trong những “hoạt động văn hoá cao”, “hoạt động văn hoá
nổi trội” trong đời sống con ngƣời. Hoạt động lễ hội là hoạt động của cộng đồng
hƣớng tới “xử lý” các mối quan hệ của chính cộng đồng đó. Hoạt động này diễn
ra với những hình thức và cấp độ khác nhau, nhằm thoả mãn và phục vụ lợi ích
đa dạng trƣớc mắt và lâu dài của các tầng lớp ngƣời; thoả mãn những nhu cầu
của các cá nhân và tập thể trong môi trƣờng mà họ sinh sống.
Môi trƣờng của lễ hội truyền thống Việt Nam về cơ bản chính là nông
thôn, làng xã Việt Nam. Lễ hội là môi trƣờng thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn
hoá truyền thống đƣợc bảo tồn và phát triển. Những yếu tố văn hoá truyền thống
đó không ngừng đƣợc bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển
lịch sử của mỗi địa phƣơng trong lịch sử chung của đất nƣớc. Nó chính là hệ quả
của cả quá trình lịch sử của không chỉ một cộng đồng ngƣời. Đây chính là tinh
hoa đƣợc đúc rút, kiểm chứng và hoàn thiện trong dọc dài lịch sử của bất cứ một
cộng đồng cƣ dân nào.
Lễ hội có sức lôi cuốn, hấp dẫn và trở thành nhu cầu, khát vọng của ngƣời
dân cần đƣợc đáp ứng và thoả nguyện qua mọi thời đại. Bản chất của lễ hội là sự
tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của ngƣời dân trong xã
hội ở từng giai đoạn của lịch sử.
Lễ hội ở Việt Nam có quá trình hình thành và phát triển lâu đời, qua nhiều
thời kỳ lịch sử. Những bằng chứng lịch sử đã chứng minh, lễ hội của ngƣời Việt
đã có từ thời đại văn minh Văn Lang – Âu Lạc, gắn liền với đời sống của cƣ dân
làm nông nghiệp với nhu cầu trị thủy và đoàn kết chống ngoại xâm. Qua các
triều đại phong kiến, lễ hội tiếp tục đƣợc nuôi dƣỡng và trau dồi gắn với quá
trình phát triển của văn hóa dân tộc. Đặc biệt, qua hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, lễ hội Việt Nam nhiều lúc bị gián đoạn, mai một. Tuy nhiên,
sau năm 1986, khi đất nƣớc đổi mới, các lễ hội có điều kiện để phục sinh và phát
triển mạnh mẽ.
Hiện tại ở nƣớc ta có nhiều loại lễ hội, bên cạnh lễ hội cổ truyền còn có Lễ
hội mới, (lễ hội hiện đại, gắn với các sự kiện lịch sử hiện đại, cách mạng), lễ hội
sự kiện (gắn với du lịch quảng bá du lịch, Lễ hội nhân kỷ niệm những năm chẵn
thành lập thành phố, tỉnh, huyện)…, trong đó lễ hội cổ truyền thống có số lƣợng
nhiều nhất (khoảng trên 7000 lễ hội trong tổng số gần 9000 lễ hội), phạm vi
phân bố rộng (cả nông thôn, đô thị, vùng núi các dân tộc), có lịch sử lâu đời
nhất.
Ngƣời ta có thể phân loại lễ hội cổ truyền theo thời gian các mùa trong
năm, trong đó quan trọng nhất là mùa xuân, mùa thu (xuân thu nhị kỳ), phân
chia theo phạm vi lớn nhỏ: Lễ hội làng, lễ hội vùng, lễ hội quốc gia. Phân loại
theo tính chất của lễ hội: Lễ hội nghề nghiệp (nông, ngƣ, nghề buôn…), lễ hội
tôn vinh anh hùng dân tộc, ngƣời có công với quê hƣơng, đất nƣớc, lễ hội gắn
với các tôn giáo tín ngƣỡng cụ thể nhƣ lễ hội của Phật, Kitô, Tín ngƣỡng dân
gian…
Lễ hội cổ truyền là những mốc đánh dấu chu trình đời sống sản xuất và đời
sống xã hội của mỗi cộng đồng ngƣời, mà một khi cái mốc mang tính lễ nghi đó
chƣa đƣợc thực hiện thì các quá trình sản xuất và quá trình xã hội đó sẽ bị đình
trệ, sự sinh tồn và các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Do vậy, một nghi lễ, lễ hội
bao giờ cũng mang tính chuyển tiếp của một chu trình sản xuất vật chất hay xã
hội nhất định.
Trong số hơn 7000 lễ hội cổ truyền của nƣớc ta, xét về nguồn cội đều là lễ
hội nông nghiệp, quy mô ban đầu là hội làng. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử,
các lễ hội nông nghiệp này dần biến đổi, làm phong phú hơn bằng những nội
dung lịch sử (nhất là lịch sử chống ngoại xâm), nội dung xã hội (nhất là các
quan hệ cộng đồng), nội dung văn hóa tạo nên diện mạo vô cùng phong phú và
đa dạng nhƣ ngày nay.
1.2.2. Một số đặc trưng, giá trị cơ bản
- Một số đặc trưng
So với các loại lễ hội khác, lễ hội cổ truyền mang 3 đặc trƣng cơ bản sau:
Lễ hội cổ truyền gắn với đời sống tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng, nó mang
tính thiêng, do vậy nó thuộc thế giới thần linh, thiêng liêng, đối lập với đời sống
trần gian, trần tục. Có nhiều sinh hoạt, trình diễn trong lễ hội nhìn bề ngoài là
trần tục, nhƣ các trò vui chơi giải trí, thi tài, các diễn xƣớng mang tính phồn
thực, nên nó mang tính “tục”, nhƣng lại là cái trần tục mang tính phong tục, nên
nó vẫn thuộc về cái thiêng, nhƣ tôn sùng sinh thực khí mà hội Trò Trám (Phú
Thọ) là điển hình.
Tính tâm linh và linh thiêng của lễ hội nó quy định “ngôn ngữ” của lễ hội
là ngôn ngữ biểu tƣợng, tính thăng hoa, vƣợt lên thế giới hiện thực, trần tục của
đời sống thƣờng ngày. Ví dụ, diễn xƣớng ba trận đánh giặc Ân trong Hội Gióng,
diễn xƣớng cờ lau tập trận trong lễ hội Hoa Lƣ, diễn xƣớng rƣớc Chúa gái (Mỵ
Nƣơng) trong Hội Tản Viên… Chính các diễn xƣớng mang tính biểu tƣợng này
tạo nên không khí linh thiêng, hứng khởi và thăng hoa của lễ hội.
Lễ hội cổ truyền là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống tính phức
hợp, một hiện tƣợng văn hóa dân gian tổng thể, bao gồm gần nhƣ tất cả các
phƣơng diện khác nhau của đời sống xã hội của con ngƣời: sinh hoạt tín
ngƣỡng, nghi lễ, phong tục, giao tiếp và gắn kết xã hội, các sinh hoạt diễn xƣớng
dân gian (hát, múa, trò chơi, sân khấu…), các cuộc thi tài, vui chơi, giải trí, ẩm
thực, mua bán… Không có một sinh hoạt văn hóa truyền thống nào của nƣớc ta
lại có thể sánh đƣợc với lễ hội cổ truyền, trong đó chứa đựng đặc tính vừa đa
dạng vừa nguyên hợp này.
Chủ thể của lễ hội cổ truyền là cộng đồng, đó là cộng đồng làng, cộng
đồng nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngƣỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn
cả là cộng đồng quốc gia dân tộc. Nói cách khác không có lễ hội nào lại không
thuộc về một dạng cộng đồng, của một cộng đồng nhất định. Cộng đồng chính là
chủ thể sáng tạo, hoạt động và hƣởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội.
Ba đặc trƣng trên nó quy định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ
chức, thái độ và hành vi, tình cảm của những ngƣời tham gia lễ hội, phân biệt
với các loại hình lễ hội khác nhƣ lễ hội sự kiện, các loại Festival...
- Một số giá trị
Giá trị cố kết và biểu dƣơng sức mạnh cộng đồng
Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng ngƣời nhất định, đó có
thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng
đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền
Hùng - quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, nhƣ gia tộc, dòng họ... chính lễ hội
là dịp biểu dƣơng sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết
cộng đồng.
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn
kết, nhƣ gắn kết do cùng cƣ trú trên một lãnh thổ (cộng cƣ), gắn kết về sở hữu
tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối
của một lực lƣợng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng
cảm trong các hoạt động sáng tạo và hƣởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ hội là
môi trƣờng góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức
mạnh cộng đồng.
Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con ngƣời càng ngày càng
khẳng định “cái cá nhân”, “cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng”
bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con ngƣời vẫn phải nƣơng
tựa vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện nhƣ vậy, lễ
hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tƣợng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố
kêt cộng đồng ấy.
Giá trị hướng về cội nguồn
Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hƣớng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên
mà con ngƣời vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội
cộng đồng nhƣ dân tộc, đất nƣớc, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá... Hơn
thế nữa, hƣớng về nguồn đã trở thành tâm thức của con ngƣời Việt Nam - “uống
nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội bao giờ
cũng gắn với hành hƣơng - du lịch.
Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn
cầu hóa, con ngƣời bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự
nhiên, môi trƣờng; với lịch sử xa xƣa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị
mai một. Chính trong môi trƣờng tự nhiên và xã hội nhƣ vậy, hơn bao giờ hết
con ngƣời càng có nhu cầu hƣớng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình,
hoà mình vào với môi trƣờng thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái
nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá
nhân loại. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một
biểu tƣợng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng chính là tính nhân bản
bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con ngƣời ở mọi thời
đại.
Giá trị cân bằng đời sống tâm linh
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tƣ tƣởng còn hiện hữu đời
sống tâm linh. Đó là đời sống của con ngƣời hƣớng về cái cao cả thiêng liêng chân thiện mỹ - cái mà con ngƣời ngƣỡng mộ, ƣớc vọng, tôn thờ, trong đó có
niềm tin tôn giáo tín ngƣỡng. Nhƣ vậy, tôn giáo tín ngƣỡng thuộc về đời sống
tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngƣỡng.
Chính tôn giáo tín ngƣỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về
đời sống tâm linh của con ngƣời, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái
“thăng hoa” từ đời sống trần tục, hiện hữu.
Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con ngƣời
dƣờng nhƣ đƣợc “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng
thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội nhƣng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống
nhƣ vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhƣng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và
tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi mở, xô bồ,
“tháo khoán”... Tất cả những cái đó hạn chế khả năng hoà đồng của con ngƣời,
làm thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời
sống nhƣ vậy không có “thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự
“bùng cháy” và “thăng hoa”.
Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con ngƣời hiện đại dƣờng
nhƣ đƣợc tắm mình trong dòng nƣớc mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận
hƣởng những giây phút thiêng liêng, ngƣỡng vọng những biểu tƣợng siêu việt
cao cả - chân thiện mỹ, đƣợc sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần
cộng đồng, con ngƣời có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của
bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức
ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thƣờng... Tất cả đó là trạng thái “thăng
hoa” từ đời sống hiện thực, vƣợt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ
hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân
bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực.
Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngƣỡng - văn hoá cộng đồng của
nhân dân ở nông thôn cũng nhƣ ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng
ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và
hƣởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm
đƣợm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh”
của lễ hội, khi mà tất cả mọi ngƣời chan hoà trong không khí thiêng liêng, hứng
khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân ngày thƣờng dƣờng nhƣ đƣợc xoá
nhoà, con ngƣời cùng sáng tạo và hƣởng thụ những giá trị văn hoá của mình.
Điều này có phần nào đối lập với đời sống thƣờng nhật của những xã hội
phát triển, khi mà phân công lao động xã hội đã đƣợc chuyên môn hoá, nhu cầu
sáng tạo và hƣởng thụ văn hoá của con ngƣời đã phần nào tách biệt.
Đấy là chƣa kể trong xã hội nhất định, một lớp ngƣời có đặc quyền có
tham vọng “cƣớp đoạt” các sáng tạo văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích
riêng của mình. Đến nhƣ nhu cầu giao tiếp với thần linh của con ngƣời cũng tập
trung vào một lớp ngƣời có “khả năng đặc biệt”. Nhƣ vậy, con ngƣời, đứng từ
góc độ quảng đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của quá trình sáng
tạo và hƣởng thụ các giá trị văn hoá một cách bình đẳng nữa. Xu hƣớng đó phần
nào xói mòn tinh thần nhân bản của văn hoá, làm tha hoá chính bản thân con
ngƣời. Do vậy, con ngƣời trong xã hội hiện đại, cùng với xu hƣớng dân chủ hoá
về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra quá trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền
văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là môi trƣờng tiềm ẩn những
nhân tố dân chủ trong sáng tạo và hƣởng thụ các giá trị văn hoá ấy.
Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa
Lễ hội không chỉ là tấm gƣơng phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là
môi trƣờng bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy.
Cuộc sống của con ngƣời Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội,
mà trong chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi
“xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn
quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, ngƣời ngƣời tụ hội nơi đình
chùa mở hội. Nơi đó, con ngƣời hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến đổi
con ngƣời, một “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc đƣợc hồi sinh, sáng tạo và
trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh
văn hoá truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lƣợc và đồng
hoá. Trong cái làng xã nghèo nàn ấy, ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó
là lễ hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nôi văn hoá đó. Không
có làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam.
1.2.3. Những lễ hội tiêu biểu
Lễ hội truyền thống là dịp để con ngƣời giao lƣu, truyền lại những đạo đức,
luân lý về khát vọng cao đẹp; đồng thời nhắc lại nhiều câu chuyện về các đối
tƣợng đƣợc suy tôn nhƣ những vị anh hùng chống giặc ngoại xâm, những ngƣời
có công chống thiên tai, diệt thú dữ, cứu nhân độ thế… hay những ngƣời có
công truyền nghề.
Lễ hội truyền thống giúp gột rửa những điều lo toan thƣờng nhật, giúp con
ngƣời tìm đƣợc sự thanh thản nơi chốn tâm linh. Và đó cũng là lý do các lễ hội
truyền thống ở Việt Nam thƣờng thu hút rất đông ngƣời dân địa phƣơng và du
khách gần xa tham gia.
Một số lễ hội tiêu biểu ở các vùng miền
- Những lễ hội tiêu biểu vùng Tây Bắc
+ Lễ hội Lồng Tồng:
Là lễ hội truyền thống đặc trƣng của cộng đồng ngƣời Tày, đƣợc tổ chức
thƣờng niên vào tháng Giêng, tháng Hai âm lịch theo từng địa phƣơng. Lễ hội là
dịp để bà con khắp nơi cầu phúc lộc, mùa màng bội thu, cuộc sống bình yên, no
ấm hạnh phúc. Nhiều trò chơi dân gian cổ truyền nhƣ ném còn, bịt mắt bắt dê,
hát lƣợn… đƣợc tổ chức trong lễ hội này.
+ Lễ hội hoa ban:
Hay còn đƣợc gọi là hội Xên bản, Xên mƣờng – một lễ hội của đồng bào
dân tộc Thái. Lễ hội đƣợc tổ chức vào mùa hoa ban nở trắng núi rừng Tây Bắc,
tức là vào dịp tháng Hai âm lịch. Lễ hội hoa ban đƣợc mệnh danh là ngày hội
của tình yêu đôi lứa, ngày hội của hạnh phúc gia đình, hội cầu mùa màng tƣơi
tốt, cuộc sống no ấm nơi bản mƣờng, và cũng là dịp để bà con và du khách tham
gia các trò chơi, thi tài, hát giao duyên trong những đêm trăng sáng.
- Những lễ hội tiêu biểu vùng châu thổ Bắc Bộ
+ Lễ hội Đền Hùng (Giỗ tổ Hùng Vương) – Phú Thọ:
Hẳn chúng ta đều đã quá quen thuộc với câu ca dao: “Dù ai đi ngƣợc về
- Xem thêm -