Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khóa luận nho sĩ thăng bình, quảng nam dưới triều nguyễn qua tư liệu văn bia...

Tài liệu Khóa luận nho sĩ thăng bình, quảng nam dưới triều nguyễn qua tư liệu văn bia

.PDF
97
128
53

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Chúng tôi xin chân thành bày tỏ sự biết ơn đến các giảng viên, cán bộ khoa Lịch Sử - Trường ĐH Sư phạm, ĐH Đà Nẵng đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức lý luận và thực tiễn quý hóa và giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong quá trình học tập. Xin gửi lời cảm ơn đến thư viện trường ĐH Sư phạm, ĐH Đà Nẵng; thư viện Thăng Bình; Uỷ ban nhân dân huyện Thăng Bình đã nhiệt tình cung cấp tài liệu tạo điều kiện để tôi hoàn thành công trình. Đặc biệt, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến TS. LÊ THỊ MAI, người cô, người mẹ đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện công trình này. Cuối cùng tôi xin dành tình cảm yêu thương và biết ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã quan tâm, ủng hộ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành công trình này. Đà Nẵng, ngày 25 tháng 4 năm 2018 Tác giả Nguyễn Thị Vũ DANH MỤC BẢNG Bảng 2.2.1 Số người Thăng Bình đỗ đạt trong các khoa thi dưới triều Nguyễn (1813- 1918) và khoa thi Tân học 1936. ................................................................ 35 Bảng 2.2.2 Quê quán của những người đỗ đạt của huyện Thăng Bình dưới triều Nguyễn ........................................................................................................... 42 Bảng 2.2.3: Thống kê phẩm hàm và chức quan cao nhất của những người đỗ đạt dưới triều Nguyễn ............................................................................................ 45 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN DANH MỤC BẢNG MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................3 3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................................3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................4 4.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................4 4.2. Phạm vi nghiên cứu ..............................................................................................4 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................4 5.1. Nguồn tài liệu .......................................................................................................4 5.2. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................5 6. Đóng góp của đề tài.................................................................................................5 7. Cấu trúc đề tài .........................................................................................................5 NỘI DUNG ................................................................................................................6 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT THĂNG BÌNH, QUẢNG NAM VÀ NHO SĨ THĂNG BÌNH TRƯỚC TRIỀU NGUYỄN .....................................6 1.1. Khái quát về vùng đất và con người Thăng Bình ................................................6 1.1.1. Điều kiện tự nhiên .............................................................................................6 1.1.2. Cư dân .............................................................................................................13 1.1.3. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ...................................................................18 1.1.4. Khái quát về lịch sử vùng đất Thăng Bình ......................................................20 1.2. Khái quát về tình hình giáo dục - khoa cử và nho sĩ huyện Thăng Bình trước triều Nguyễn ..............................................................................................................26 1.3. Khái quát về tình hình giáo dục - khoa cử dưới triều Nguyễn ...........................28 CHƯƠNG 2: ĐỘI NGŨ NHO SĨ HUYỆN THĂNG BÌNH, QUẢNG NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN QUA TƯ LIỆU VĂN BIA ...........................................32 2.1. Khái quát về nguồn tư liệu văn bia của huyện Thăng Bình, Quảng Nam .........32 2.1.1. Hiện trạng .......................................................................................................32 2.1.2. Số lượng ..........................................................................................................33 2.1.3. Niên đại ...........................................................................................................33 2.1.4. Nội dung ..........................................................................................................34 2.2. Đội ngũ Nho sĩ Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn qua tư liệu văn bia ...................................................................................................................................34 2.2.1. Số lượng và chức danh ....................................................................................34 2.2.2. Quê quán và nguồn gốc xuất thân ..................................................................42 2.2.3. Sự nghiệp quan trường ....................................................................................44 2.2.4. Đặc điểm, cốt cách ..........................................................................................47 2.3. Đóng góp của nho sĩ Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn ...................51 2.3.1. Về phương diện chính trị - ngoại giao ............................................................51 2.3.1.1. Trị an ............................................................................................................51 2.3.1.2. Ngoại giao ....................................................................................................56 2.3.1.3. Quân sự ........................................................................................................58 2.3.2. Về phương diện văn hóa - giáo dục ................................................................63 2.3.2.1. Dạy học ........................................................................................................63 2.3.2.2. Xây dựng và trùng tu Văn miếu....................................................................65 2.3.2.3. Sáng tác thơ văn ...........................................................................................67 2.3.2.4. Một số đóng góp khác ..................................................................................68 2.3.3. Về phương diện kinh tế - xã hội ......................................................................70 2.4. Một số nhận xét, đánh giá và bài học kinh nghiệm............................................76 2.4.1. Một số nhận xét, đánh giá ...............................................................................76 2.4.2. Bài học kinh nghiệm ........................................................................................81 KẾT LUẬN ..............................................................................................................85 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................87 87 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ xưa đến nay, trí thức là “vốn liếng quý báu của dân tộc”, là “niềm tự hào vĩ đại của nhân loại”. Đây chính là đội ngũ đắc lực tham gia vào quá trình kiến thiết đất nước. Mỗi một bước tiến của quốc gia luôn cần một nền giáo dục vững chắc và đội ngũ trí thức đông đảo. Hơn hết, đầu tư cho giáo dục và bồi dưỡng nhân tài là nhân tố xuyên suốt để thúc đẩy sự phồn vinh của đất nước, đem lại những đổi thay căn bản và toàn diện nhằm theo kịp xu thế xã hội, nhất là trong môi trường hội nhập quốc tế. Lịch sử Việt Nam trải qua các vương triều đều luôn coi trọng hiền tài. Sự phát triển của đội ngũ trí thức luôn gắn liền với sự thịnh suy của các triều đại. Nhận thức được tầm quan trọng của hiền tài đối với đất nước cũng như kinh nghiệm từ các triều đại trước, vương triều Nguyễn đã sớm chăm lo đến việc giáo dục, thi cử trong cả nước. Bằng những chính sách phát triển giáo dục và bổ dụng người tài, triều Nguyễn đã đào tạo được một đội ngũ trí thức phục vụ cho nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền. Xét trong phạm vi một tỉnh, tầng lớp trí thức tập trung trí tuệ của tỉnh nhà. Vùng đất Quảng Nam nói chung và Thăng Bình nói riêng vẫn được biết đến truyền thống hiếu học, học giỏi, thành đạt. Sử triều Nguyễn cũng đã nhận xét Quảng Nam là vùng đất “Học trò chăm học hành, quân tử giữ phận mà hổ thẹn việc bôn cạnh” [9, tr.395 ]. Để đời nay tận mắt chứng thực công lao của các bậc nho sĩ, đồng thời khuyến khích sự học của nhân dân trong vùng, người Thăng Bình xưa đã lập ra Văn miếu. Văn miếu ra đời minh chứng cho giá trị tinh thần và tinh hoa của con người nơi mảnh đất nắng gió miền Trung này; đồng thời cũng là dấu ấn văn hóa Nho học của vùng đất Thăng Hoa. Cùng với thời gian, Văn miếu vẫn giữ nguyên giá trị, soi vào hôm nay niềm tự hào về truyền thống học vấn của tiền nhân; bồi bổ, nuôi dưỡng tâm hồn con người, nêu gương cho thế hệ mai sau gắng sức học tập. Đồng thời để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho những nhà giáo dục và hoạch định chính sách hiện nay của huyện Thăng Bình nói riêng và tỉnh Quảng Nam nói chung về bổ dụng và đãi ngộ nhân tài nhằm đưa huyện nhà phát triển đi lên. 1 Hệ thống văn bia của Văn thánh Thăng Bình hiện được lưu giữ tại di tích đình làng Hà Lam đã được nhóm các nhà nghiên cứu và Uỷ ban nhân dân huyện Thăng Bình dày công sưu tập, giới thiệu, dịch thuật. Đó là nguồn sử liệu quan trọng cho đến nay, chưa có nhà nghiên cứu nào khảo sát cụ thể, có hệ thống về nho sĩ huyện Thăng Bình qua nguồn sử liệu này. Xuất phát từ những lí do trên, tôi tìm hiểu đề tài: “Nho sĩ Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn qua tư liệu văn bia” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về nho sĩ Quảng Nam dưới triều Nguyễn, trong đó có huyện Thăng Bình. Liên quan đến đề tài: “Nho sĩ Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn qua tư liệu văn bia đã có một số công trình nghiên cứu. Có thể chia thành các nhóm vấn đề sau: Thứ nhất, nhóm các sử tịch viết về Quảng Nam dưới triều Nguyễn, trong đó có huyện Thăng Bình như: “Tổng tập dư địa chí Việt Nam, tập III (Dư địa chí địa phương)” của Bùi Văn Vượng; “Đồng Khánh địa dư chí”; Đại Nam liệt truyện, tập 4; “Đại Nam nhất thống chí”- Tập 2 hay “Đại Nam thực lục” của Quốc sử quán triều Nguyễn; “Quốc triều hương khoa lục” của Cao Xuân Dục. Nhóm tác phẩm này đã đề cập đến lịch sử hình thành, tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa - giáo dục của vùng đất Quảng Nam, trong đó có huyện Thăng Bình. Thứ hai, có một số công trình viết về giáo dục, khoa cử Việt Nam trước năm 1945: Việt sử: Xứ Đàng Trong (1558 - 1777) - (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam) của Phan Khoang, Khoa cử và giáo dục Việt Nam của Nguyễn Quang Thắng, Lịch sử nhà Nguyễn - một cách tiếp cận do Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình, Nguyễn Ngọc Cơ chủ biên, … Thứ ba, một số tác giả đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống nhân vật lịch sử Quảng Nam nói chung và các nhà khoa bảng Thăng Bình (tiểu sử, sự nghiệp quan trường), như: “Quảng Nam đất nước và nhân vật” của Nguyễn Quang Thắng, “Hà Đình Nguyễn Thuật - Tác phẩm” của Nguyễn Quang Thắng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hà Đình Nguyễn Thuật - Danh nhân văn hóa” do Sở văn hóa - thông tin, 2 du lịch Quảng Nam và Uỷ ban nhân dân huyện Thăng Bình phối hợp tổ chức hay“Danh nhân Thăng Bình” của Uỷ ban nhân dân huyện Thăng Bình. Thứ tư, gần đây, nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp đề cập đến vấn đề nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn như: “Bia văn thánh và một số văn bia Hán Nôm tại huyện Thăng Bình” của Uỷ ban nhân dân huyện Thăng Bình năm 2015. Tác phẩm này đã ghi chép vắn tắt họ tên và lý lịch của các nhà khoa bảng huyện Thăng Bình từ khoa thi năm 1813 đến khoa thi cuối cùng năm 1918. Tất cả các công trình trên đều có giá trị to lớn khi chúng ta nghiên cứu về nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn. Mặc dù vậy, các công trình đó vẫn chưa đề cập một cách có hệ thống và toàn diện về nho sĩ Thăng Bình giai đoạn này. Trên cơ sở tiếp nhận nguồn tài liệu phong phú, kế thừa kết quả nghiên cứu của các bậc tiền bối, tôi muốn nghiên cứu toàn diện và đưa ra những nhìn nhận, đánh giá về nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài là nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về: - Đội ngũ Nho sĩ, đặc điểm và đóng góp của Nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn. - Qua nghiên cứu, đề tài rút ra bài học kinh nghiệm, đề xuất các kiến nghị cho việc bồi dưỡng và phát triển đội ngũ tri thức hiện nay của huyện Thăng Bình, Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, chúng tôi sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu về huyện Thăng Bình, Quảng Nam trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục. - Làm sáng tỏ hệ thống đội ngũ Nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn, chú trọng các bậc danh khoa, các nhà khoa bảng tiêu biểu. 3 - Phân tích đặc điểm và những đóng góp của Nho sĩ Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn. - Nhận xét, đánh giá về Nho sĩ Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn để rút ra bài học kinh nghiệm cho việc bồi dưỡng và phát triển đội ngũ tri thức hiện nay của huyện Thăng Bình, Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn qua văn bia ở một số khía cạnh như: tiểu sử, quá trình tham gia khoa cử, sự nghiệp quan trường, … và những đóng góp của họ đối với triều Nguyễn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1945. Về không gian: Phù hợp với thời gian nghiên cứu, đề tài giới hạn phạm vi là các nhà khoa bảng có xuất thân từ huyện Lễ Dương (về sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, được đổi tên thành huyện Thăng Bình), tương ứng với địa bàn thành phố Tam Kì và các huyện Thăng Bình, Duy Xuyên, Hiệp Đức hiện nay. 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu Để phục vụ việc nghiên cứu, tôi sử dụng nhiều nguồn tài liệu thành văn khác nhau. Có thể phân chia thành các nhóm tư liệu sau: - Tài liệu chính yếu mà tác giả khai thác để thực hiện đề tài này là tư liệu văn bia: Bia văn thánh và một số văn bia Hán Nôm tại huyện Thăng Bình. Công trình đã xuất bản năm 2015. - Các công trình cổ sử viết về nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn như: Tổng tập dư địa chí Việt Nam, tập III (Dư địa chí địa phương), Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam thực lục, Quốc triều hương khoa lục. 4 - Các công trình NCKH, tạp chí, các khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án có liên quan đến vấn đề nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn. - Các bài viết trong các tạp chí và những bài viết trên mạng Internet. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Với đề tài này, tôi dựa trên quan điểm sử học Macxit để tiến hành nghiên cứu phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Đồng thời, trên cơ sở các tài liệu thành văn đã được thu thập, tôi tiến hành chọn lọc, phân loại và xử lí tư liệu sau đó sử dụng kết hợp nhiều phương pháp, cụ thể: phương pháp thống kê phân loại, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp điền dã thực tế, phương pháp so sánh, đối chiếu. 6. Đóng góp của đề tài Đề tài “Nho sĩ Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn qua tư liệu văn bia” là một công trình nghiên cứu có hệ thống, cung cấp cái nhìn tổng quát nhất về nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam nói riêng và triều Nguyễn nói chung cũng như những đóng góp của họ cho địa phương, cho đất nước. Bên cạnh đó, qua nghiên cứu, đề tài rút ra bài học kinh nghiệm cho việc bồi dưỡng niềm tự hào quê hương và phát triển đội ngũ tri thức hiện nay của huyện Thăng Bình, Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Ngoài ra đề tài này, có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và học tập của sinh viên và những ai muốn đi sâu vào vấn đề này. 7. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bố cục của đề tài gồm có hai chương: Chương 1: Tổng quan về vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam và nho sĩ Thăng Bình trước triều Nguyễn Chương 2: Đội ngũ nho sĩ huyện Thăng Bình, Quảng Nam dưới triều Nguyễn qua tư liệu văn bia 5 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT THĂNG BÌNH, QUẢNG NAM VÀ NHO SĨ THĂNG BÌNH TRƯỚC TRIỀU NGUYỄN 1.1. Khái quát về vùng đất và con người Thăng Bình 1.1.1. Điều kiện tự nhiên Thăng Bình là một huyện phía Đông tỉnh Quảng Nam, huyện lỵ là thị trấn Hà Lam. Phía bắc giáp huyện Quế Sơn và Duy Xuyên, phía nam giáp huyện Phú Ninh và thành phố Tam Kỳ, phía tây giáp huyện Hiệp Đức, Tiên Phước, phía đông giáp biển Đông. Thăng Bình ở toạ độ 15030’ đến 15059’ vĩ độ Bắc và từ 10807’ đến 108030’ kinh độ Đông. Địa hình huyện thấp dần từ tây sang đông, hình thành nên các dạng địa hình của tỉnh Quảng Nam: miền núi; vùng đồng bằng trung du bán sơn địa và vùng ven biển. Vùng đất phía Tây gồm các xã Bình Lãnh, Bình Trị, Bình Định, Bình Phú, Bình Quế..., có địa hình đồi núi và bán sơn địa, có độ dốc lớn, đất đai bạc màu hoặc bị laterit hóa. Đây là nơi tập trung các ngọn núi của huyện Thăng Bình như: La Vang (nay là Chóp Chài), La Nga, Cẩm Yên, Hà Lam, Chử Dương, Xuân Mỹ, Gia Phúc, An Thái, Khánh Sơn, Lâm Phu, … có hướng chủ yếu là tây đông, độ cao trung bình khoảng 500 m. Quốc Sử quán triều Nguyễn đã ghi chép rất tỉ mỉ các ngọn núi này trong Đại Nam nhất thống chí như sau: “Núi La Vang: ở cách huyện Lễ Dương 24 dặm về phía Tây, tục gọi núi Chóp Chài. Phía Tây Bắc có nhiều ngọn núi, đầu ngọn này cao hơn cả, gọi là chợ Gò Mi. Núi Cẩm Yên: ở phía Tây huyện Lễ Dương, thế núi dăng dài, cây cối xanh tốt, quanh núi có dân cư. Núi Hà Lam: ở cách huyện Lễ Dương một dặm về phía Tây. Núi Chử Dương: An Nam chí chép là địa phận huyện Lê Giang, nay là huyện Lễ Dương, tên núi ngày nay không rõ. 6 Núi Xuân Mỹ: ở cách huyện Lễ Dương 8 dặm về phía Tây, phía Đông là núi Bình Yên, núi Phú, phía Tây Bắc là núi Xuân Sơn. Núi Gia Phúc: ở cách huyện Lễ Dương 13 dặm về phía tây nam, thế núi chạy dài, gần đấy có núi Phượng Sơn, núi Đồ Sơn, núi An Tây, núi Tây Mỹ và núi Ân Xá. Núi An Thái: ở cách huyện Lễ Dương 23 dặm về phía nam, giữa cánh đồng cát nổi vọt lên, thế núi cao vót, cây cối um tùm. Núi Khánh Sơn: ở cách huyện Lễ Dương 23 dặm về phía nam, giữa cánh đồng cát nổi vọt lên, thế núi cao vót, trên núi có chùa gọi là chùa Khánh Sơn, gần đấy có núi Ấn, núi Cấm và núi Quy. Núi Lâm Phu: ở cách huyện Lễ Dương 11 dặm về phía tây, thế núi dăng dài, cây cối xanh tốt, phía đông bắc có khe chảy về phía tây, đổ vào sông Thu Bồn, có chợ gọi là chợ Đồng Tranh, phía tây gần đấy có núi Phú Bình và núi Trung An” [9, tr. 412 - 413]. Ngoài phần núi, địa hình đồi gò thấp (cao trung bình 200m) chiếm phần lớn diện tích còn lại của khu vực này. Nhưng đất ở đây dễ bị rữa trôi, bạc màu, laterit hóa, thường tập trung các loại cây như rang, sim, mua…. Xen giữa các hệ thống gò đồi là những cánh đồng chân núi nhỏ hẹp và là nơi tập trung các thôn xóm. Người dân tiến hành canh tác lúa nước, nhưng mỗi năm chỉ một vụ lúa do khó khăn về nguồn nước tưới. Những năm gần đây nhờ các công trình thủy lợi nên nâng lên 2 vụ nhưng năng suất vẫn còn thấp do đất đai kém màu mỡ. Với một loại rừng nhiệt đới xanh bốn mùa, cây cối tươi tốt, um tùm biến rừng ở đây không chỉ là lá phổi xanh chen chắn, bảo vệ người dân trong vùng, mà trở thành chiến khu, căn cứ địa trong những năm chống Pháp; đồng thời trở thành nơi đóng quân, dừng chân của cán bộ, bộ đội trong kháng chiến chống Mỹ. Phía Đông giáp biển Đông, có chiều dài 25 km, thấp phẳng, phần lớn là cát trắng, nhiều cồn cát, bãi biển đẹp. Phía bên trong những dãi cồn rộng lớn này bao giờ cũng có những đầm hồ dài và hẹp, nguyên là di tích những vụng biển cũ. Từ những dải cồn cát đi về phía nam, những đầm hồ được cải tạo và nối lại thành con đường giao thông thủy nội địa. Nhờ những bàu, hồ, sông mà người dân đến định cư, tạo nên những làng mạc đông đúc, đặc biệt là những làng nghề chài lưới, đánh cá, 7 vừa ở biển, nuôi trồng thủy sản. Mô tả sinh hoạt của Xứ Quảng Nam, Dương Văn An thời nhà Mạc có chép: “... biển thì cá, muối là kho vô tận… của thổ ngơi đã sẵn thứ rượu tăm rất ngon. Hải vị sơn hào của nhiều chan chứa. Cá tôm sẵn ở sông bể, gỗ lấy ở núi rừng. Xóm làng trù mật, nên gà, chó từng đàn; cỏ, nước ngon lành nên trâu bò béo tốt. Sông hồ lầy lội, đi thuyền tiện hơn đi chân; đất cát phì nhiêu, được thóc không cần khó nhọc...” [20, tr.14]. Đồng bằng Thăng Bình trải ra hai bên quốc lộ, là vùng đất phù sa tương đối màu mỡ, nhất là khu vực phía nam của huyện (tương ứng với các xã Bình Nguyên, Bình Tú, Bình Trung, Bình An… ngày nay). Trong đó, một diện tích đáng kể đã được khai thác sớm từ thời Champa, trước khi có người Việt đến định cư. Dải đất phù sa này do sông Thu Bồn và các nhánh của nó đã bồi nên, không chỉ hình thành nên đồng bằng Thăng Bình mà còn tạo nên một chuỗi đồng bằng lớn nhỏ của vùng đồng bằng Quảng Nam - Đà Nẵng, nối tiếp nhau chạy dọc đến tận cửa sông Hội An, nằm dịch về phía biển. Trong đó, vùng đồng bằng rộng Quảng Nam - Đà Nẵng bị thu hẹp tại huyện Thăng Bình, trước khi mở rộng ra ở vùng đồng bằng lân cận (Tam Kỳ). Trong Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng có đề cập đến các đồng bằng lớn nhỏ này: “Đồng bằng Quảng Nam - Đà Nẵng là một vụng biển cũ (trong thực tế là một đới địa máng cũ) cắm sâu vào giữa hai khối nối Hải Vân và Ngọc Linh như một cái nêm lớn. Sau khi nước biển rút, do vận động nâng lên của Trường Sơn, sông Thu Bồn và các nhánh sông của nó đã bồi nên một vùng đất rộng 540 km 2 , diện tích này bao gồm cả vùng cửa sông Hội An, nằm dịch về phía biển. Đồng bằng này thu hẹp lại ơ huyện Thăng Bình, rồi mở rộng ra - tuy vẫn giữ một dạng dải đất phù sa chạy dọc theo sông Tam Kỳ - ở đồng bằng cũng mang tên ấy rộng 510km2. Đây là vùng tập trung dân cư sớm nhất và đông nhất qua nhiều thế kỷ” [6, tr.49]. Về giao thông, sông Ly Ly và sông Trường Giang là hai điểm giao thông cầu nối giữa các địa phương trong và ngoài huyện, trước khi có tuyến đường bộ. Theo sách Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng: “Sông Ly Ly, dân gian thường gọi là sông Rù Rì, do dọc theo bờ biển và trên những bãi bồi giữ sông có nhiều cây rù rì mọc, một loại thảo mộc cao từ một đến ba mét, đặc biệt có bộ rễ rất khỏe, cắm sâu trong lòng đất. Cây Rù Rì ngập chìm trong nước nhiều ngày vẫn không chết. Sông Ly Ly có lưu vực rộng 200 km2, dài khoảng 40 km, bắt nguồn từ núi Chom, nằm 8 giữa Quế Sơn và Hiệp Đức và Hòn Tàu (Đại Nam nhất thống chí gọi là Tào Sơn) chảy trên đất Quảng Nam theo hướng Tây Nam đến Đông Bắc, nhập vào sông Bà Rén tại thôn Phú Trung (xã Duy Thành). Vào mùa lũ sông này mới có nhiều nước, còn mùa khô thì rất ít nước, có khi chỉ không đầy 1 m3 /s, nguyên do phần lớn bên dưới là tầng đá gốc, nên nước ngầm rất ít. Hiện nay, ở phía Thượng nguồn hồ chứa nước Việt An trên Khe Lâu đã được xây dựng, với dung tích gần 30 triệu m 3 khối. Hồ này cung cấp nước tưới cho vùng Thăng Bình và Quế Sơn, nhờ đó dòng chảy của sông Ly Ly vào mùa khô có thể tăng lên” [6, tr.60- 61]. Hiên nay, sông Ly Ly bắt nguồn từ núi Hòn Tàu (Quế Sơn) chạy dọc ven phía Bắc của huyện qua các xã Bình Lãnh, Bình Trị, Bình Định Bắc và Bình Quý rồi xuôi dần ra Cửa Đại (Hội An). Cùng với đó, hồ Việt An được đưa vào sử dụng, nhằm phục vụ tưới tiêu nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân Thăng Bình và địa phương lân cận (Quế Sơn). Sông Trường Giang chạy dọc tuyến ven biển, sông có chiều dài khoảng 60 km, nối hạ lưu hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn ở phía bắc với hạ lưu hệ thống sông Tam Kỳ - An Tân ở phía nam. Nguồn nước của Trường Giang được thu nhận từ hai hệ thống sông này. Trường Giang không có đầu nguồn, chạy song song với bờ biển theo chiều bắc - nam, được ngăn cách với biển bởi dải cồn cát rộng lớn, tạo thành con đường giao thông thủy nội địa cho ghe thuyền đi lại. Nói về sông này, “sách Đại Nam nhất thống chí (bản thời Duy Tân) gọi là sông Phước Toàn nằm ở phía Đông huyện Lễ Dương, từ hạ lưu Sài giang (sông Chợ Cũi) chảy đến cửa biển Đại An (cửa An Hòa), ghe thuyền vẫn lưu thông được” [6, tr.64]. Trường Giang có vị trí cầu nối quan trọng, giữ vai trò huyết mạch giao thông của xứ Quảng. Khi chưa có quốc lộ 1A và con đường sắt, thì việc vận chuyển hàng hóa và cả hành khách từ phía nam Tam Kỳ ra Hội An do sông Trường Giang đảm nhiệm. Các hàng lâm thổ sản từ Trà My, Tiên Phước, Phước Sơn được đưa về tận Tam Kỳ, hay Chợ Được bằng đường bộ, sau đó đưa xuống thuyền chuyển tiếp về Hội An hay ra Đà Nẵng. Trường Giang thông thương cả trăm chợ và các điểm buôn bán ven các sông xứ Quảng. Vì vậy, dọc theo hai bên bờ sông Trường Giang, nhiều chợ được mọc lên từ rất sớm như chợ Bà, chợ Lạc Câu, chợ Được, chợ Tam Ấp, chợ Tây Giang, chợ Bến Đá, chợ Bàn Thạch… Hơn nữa, sông này chịu sự tác động của thủy triều ở hai đầu là Cửa Đại ở phía Bắc và cửa An Hòa ở phía nam, nên cá tôm nước lợ trên sông này 9 rất ngon. Hiện nay, sông Trường Giang chảy qua các xã Bình Dương, Bình Giang, Bình Đào, Bình Triều, Bình Sa, Bình Hải, Bình Nam rồi đổ ra cửa An Hòa (Núi Thành) và Cửa Đại (Hội An), góp phần thúc đẩy giao lưu đường thủy của các xã ven biển. Bên cạnh đó, còn có nhiều ao hồ, bàu nước tạo nên nguồn nước dồi dào, lưu lượng phù sa tương đối khá, tạo thuận lợi cho canh tác và nuôi trồng thủy, hải sản. Ngoài ra, Trường Giang còn có nhiều ao, hồ, bàu nước tạo nên nguồn nước dồi dào cùng nhiều tôm, cua, cá và các loài thủy sản nước lợ phong phú. Đây là điều kiện thuận lợi canh tác và nuôi trồng thủy, hải sản. Nhiều làng chài đã sớm có mặt theo ven sông, sinh sống bằng nghề đánh bắt cá, tôm tự nhiên. Mặt khác, các con suối nhỏ trong từng dải rừng phía Tây trở thành mạch nguồn cung cấp nước cho các hồ chứa nước như La Nga - Cao Ngạn (Bình Lãnh), hồ Đông Tuyển (Bình Trị), hồ Phước Hà (Bình Phú), phục vụ cho nông nghiệp và sinh hoạt của người dân. Ngoài hai con sông có ý nghĩa chiến lược trên, thì Thăng Bình còn được biết đến với sông Kế Xuyên, nằm “cách huyện Lễ Dương 20 dặm về phía Nam, nguồn ra từ núi Đồng Linh, qua giang phận hai xã An Thái và Thạch Tân, lại chảy về phía đông nam qua xã Kế Xuyên, rồi đổ ra cửa biển Đại Chiêm” [9, tr. 423- 424]. Hiện nay, sông Kế Xuyên không chỉ cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân xã Bình Trung, Bình Hải… mà còn cải thiện bữa ăn, kinh tế của nhân dân ven sông. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng cho biết thêm về kênh Phú Xuân, kênh Địch Thái, Kênh Đức An đều là những kênh tiếp nước cho sông Kế Xuyên. Dọc theo các con sông, kênh nhiều bến đò và cầu được xây dựng, nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại và giao lưu giữa nhân dân các địa phương, nhất là tạo điều kiện thuận lợi để di chuyển đến trung tâm của huyện. Trong đó, “Đò Phúc Toản…. Đò Quảng Phú, đò Bình An, và đò Trà Lý Tây đều ở huyện Lễ Dương” [9, tr.444]; các cầu: cầu Khe Nhỏ, chợ Phố, Cầu Kế Xuyên, Cầu Địch Thái; được vua nhà Nguyễn xây dựng trong thời gian trị vì. Ngoài ra, còn có “Đập Kế Xuyên: cách huyện Lễ Dương 32 dặm về phía Nam, ở thượng lưu và hạ lưu khe có đập chứa nước tưới ruộng” [9, tr.445]. Ngoài ra, Thăng Bình có tuyến Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy ngang qua. Tuyến đường 16, nay là Quốc lộ 14E - đường liên xã, liên huyện nối thị trấn Hà Lam với các xã phía tây, nối Thăng Bình với các huyện Hiệp Đức, Quế 10 Sơn, Tiên Phước, Phước Sơn... và các tỉnh (Đường Hồ Chí Minh), rồi thông thương tuyến Bắc - Nam. Đây là tuyến đường huyết mạch nối liền Đông Tây, là con đường chiến lược của những năm chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Trong thời bình, đây là tuyến đường thuận lợi để giao lưu vùng miền, tạo thế chủ động phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của huyện. Ngoài ra, còn có các con đường ngang, đường dọc nối liền 3 vùng trong huyện với các huyện tiếp giáp như: Tam Kỳ, Phú Ninh, Tiên Phước, Hiệp Đức, Quế Sơn, Duy Xuyên; có một hệ thống các tuyến đường nối liên xã, liên thôn đã được bê tông hóa trên 50% tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, vận chuyển, lưu thông hàng hóa giữa các địa phương và phục vụ đời sống dân sinh. Thăng Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với độ ẩm trung bình năm vượt quá 80%, lượng mưa trung bình năm đạt 2.000 mm. Giống nhau về dạng địa hình, nên nhìn chung, khí hậu Thăng Bình cũng chung kiểu khí hậu của tỉnh Quảng Nam, đó là: “Khí trời nóng nực, nhiều tạnh ít mưa, chất đất phù bạc, nhiều khô khan ít màu mỡ. Hết tháng chạp thì gió đông nổi, tiết kinh trập thì mưa xuân nhuần, gió nam mạnh về mùa hạ, gió bắc rét về mùa đông, mùa thu gió mát mà hay mưa lụt (các tháng 8, 9, 10 thường hay mưa lụt), mưa đông hết lụt thì bãi sông bằng phẳng, tức là hết kì mưa lụt)… Thỉnh thoảng cũng có gió bão. Gần núi rừng thường hay lam chướng, ven sông biển thì có thủy triều lên xuống. Thổ nghi mùa màng thì có năm bực: ruộng hạ thì mùa đông cấy, mùa hạ gặt; ruộng thu thì mùa hạ cấy, mùa thu đông gặt. Ruộng hạ, ruộng thu đã gặt về mùa hạ, lại gặt về mùa thu; ruộng cao thì một phần gặp về tháng 3, tháng 4, tháng 5, một phần gặt về tháng 10, tháng 11. Phần nhiều theo thời tiết mà cày cấy” [9, tr.393 - 394]. Như vậy, khí hậu ở đây chia thành 2 mùa rõ rệt trong năm. Mùa khô bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 8, với nắng nóng, nhiệt độ cao do chịu ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam từ hạ Lào thổi về, làm đất đai khô hạn, nứt nẻ, khí trời oai bức. Thời tiết các xã vùng cát như Bình Sa, Bình Nam, Bình Hải, Bình Dương trở nên ngột ngạt vào mùa này. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 12 với những trận mưa có cường suất lớn, có khi lên đến gần 500 mm (thường vào tháng 10). Mưa thường đi đôi với bão chủ yếu các tháng 8-10. Hằng năm có từ 10 - 12 cơn bão đổ vào hoặc phải chịu ảnh hưởng của bão và lũ lụt, gây ngập úng trên diện rộng các xã phía đông. Tiết trời nắng nóng và mưa nhiều là 11 hai yếu tố thiên nhiên chi phối đời sống và sản xuất của người dân trên địa bàn Thăng Bình hết sức rõ rệt. Về tài nguyên thiên nhiên, Sách Đại Nam nhất thống chí (tập 2) có ghi chép về những sản vật nổi tiếng của huyện, đó là muối, vải, than đất, vỏ sò. Trong đó “Vỏ sò: ở sông xã Trà Đóa, huyện Lễ Dương, dùng nấu vôi để xây, công dụng ngang với vôi đá” [10, tr.464]; còn “Than đất: sản ở động cát hai xã Đăng Lương và Ngọc Sơn, huyện Lễ Dương, hằng năm về tháng hè người địa phương đi lấy, bẻ ra từng phiến phơi khô, dùng để đun nấu thay củi [9, tr.464]. Có thể trước đây, khu vực rừng núi rậm rạp, xa xôi là nơi vua ít cai quản tới, nên nhìn chung chưa đề cập đến những sinh vật, khoáng sản hay lâm sản của vùng đất phía Tây. Xét về địa lý, Thăng Bình vốn là một huyện đồng bằng của tỉnh Quảng Nam, có thể xem đây là đầu nối giữa hai vùng bắc - nam của tỉnh, cũng như thông tuyến các tỉnh trên trục chính quốc lộ. Mặc dù nằm trong chuỗi đồng bằng lớn nhỏ của đồng bằng Quảng Nam - Đà Nẵng nhưng dải đất phù sa Thăng Bình vốn là khúc eo lại của vùng đồng bằng lớn, hệ thống sông ngòi lại khá ít, nên vùng đồng bằng của huyện tương đối nhỏ hẹp và kém màu mỡ, trong khi như các đồng bằng rộng lớn ở Điện Bàn, Duy Xuyên lại được phù sa bồi đắp nên tươi tốt, trù phú. Ở khu vực phía Tây của huyện, nơi tập trung các ngọn núi, song đa phần là núi trung bình, ít hứng chịu thiên tai rình rập, nên người dân sống đông đúc và tụ cư từ rất sớm. Nhưng vì thế, hệ động - thực vật, và tài nguyên khoáng sản không phong phú như khu vực Điện Bàn trở ra. Lại càng quý hiếm những loài cây, sinh vật có giá trị cao. Một điểm sáng trong phát triển của vùng đến từ miệt đồng bằng của huyện. Với hệ thống sông đổ ra phía biển, nên các sông đều đóng vai trò quan trọng trong cầu nối, liên lạc giữa các vùng, nhất là vùng đồi núi với ven biển, từ đồng bằng đến các địa phương lân cận và nhất là dễ dàng thông thương, giao lưu với khu vực trung tâm huyện. Nhờ vậy, mà khu trung tâm huyện sớm có điều kiện phát triển, càng là cầu nối giữa giữa các vùng trong huyện hay giữa các huyện diễn ra từ rất sớm.Từ đó, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các địa phương, tạo nên tính đa dạng của nền văn hóa. Thăng Bình từng là kinh đô của miền đất cũ - Champa nên nhân dân có điều kiện để tiếp thu và cải biến những giá trị từ vùng phía Tây xuống khu vực đồng bằng. Ở khu vực phía Đông giáp biển, với hệ thống sông Trường Giang cùng 12 au, bầu, hồ thích hợp cho việc khai thác thủy hải sản, nhưng quy mô tương đối nhỏ nên chỉ thích hợp cho việc đánh bắt ven bờ, ngoại trừ được ban tặng một bãi tắm đẹp ở dải đất Bình Minh. Thêm vào đó, khí hậu Thăng Bình mang đặc trưng của nắng gió miền Trung, nắng nực, khô trụi; cộng thêm bão lũ hằng năm gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân. Không được thiên nhiên ưu ái những điều kiện thuận lợi, khí hậu lại vô cùng khắc nghiệt buộc người dân phải kiên cường để chống chọi với thiên nhiên, bươn chải kiếm sống và cố gắng vươn lên để thay đổi số phận của mình. Từ đó hun đúc nên con người Thăng Bình vừa cần cù, siêng năng; vừa cương trực, thẳng thắn. Bản lĩnh và cốt cách cứng cỏi của họ đã ảnh hưởng rất nhiều đến đội ngũ nho sĩ của huyện. 1.1.2. Cư dân Từ đầu thiên kỷ I trước Công nguyên, trên dải đất ven Trung bộ ngày nay từng xuất hiện nền văn hóa Tiền Sa Huỳnh (nền văn hóa tiền sử) mang đậm dấu ấn văn hóa biển, Nam đảo. Cư dân Tiền Sa Huỳnh là người Nam Đảo (Austronesians) từ Biển Đông vào định cư ở ven bờ biển nước ta, mang đến sự giao lưu văn hóa lục địa - biển, “để lại dấu ấn của nền văn hóa biển trên các nền văn hóa sơ kỳ kim khí, như Hạ Long, Quỳnh Văn cho đến Long Thạnh, Bình Châu ở miền Trung, những nền văn hóa tiền sử, …” [5, tr.5]. Tiếp nối nền văn hóa Tiền Sa Huỳnh, khoảng nửa đầu thiên kỷ I trước Công nguyên, văn hóa Sa Huỳnh ra đời. Niên đại của văn hóa Sa Huỳnh là cuối thời đồ đồng và bắt đầu thời đồ sắt. Cư dân Sa Huỳnh cũng chính là người Nam Đảo. Trên địa bàn mà cư dân Sa Huỳnh từng sinh sống, vào thế kỉ II, cư dân Chăm đã xây dựng nền văn hóa riêng của mình, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Mãi đến họ Hồ, với cuộc chinh phạt vào đất Chiêm, đã mở mang vùng đất Thăng Hoa (trong đó có vùng đất Thăng Bình hiện nay thuộc châu Thăng). Để ổn định cuộc sống trên vùng đất mới, nhà Hồ “hạ lệnh cho dân có của mà không có ruộng ở Nghệ An, Thanh Hóa đem vợ con vào để khai khẩn, dân ấy phải thích hai chữ trên cánh tay, lại mộ người có trâu đem nộp và cấp cho phẩm tước, để lấy trâu cấp phát cho dân cày. Người Chiêm Thành không có họ, ai có họ là dân Việt mới 13 đến sau” [2, tr. 204]. Đối với người Chàm, Hồ Quý Ly ra một chính sách mới: “Người Chiêm nào đi thì đi. Người ở lại thì bổ làm quan” [2, tr.203]. Như vậy, việc chiêu dụ người Chiêm Thành ở lại làm quan đã khẳng định người Chăm bản địa vẫn còn sinh sống trên mảnh đất họ vừa cắt cho họ Hồ. Một bộ phân di dân miền Bắc ở lẫn với người bản địa. Trong thời gian này, chúng tôi chưa tìm thấy một ghi chép, sử liệu nào nói về việc lập làng của người Thăng Bình. Như vậy, trên vùng đất của người Thăng Bình vẫn là nơi cư dân bản địa sinh sống. Song, thời gian tồn tại của nhà Hồ quá ngắn, và trải qua nửa thế kỉ sau đó, vùng đất này vẫn thuộc quyền cai quản của Chiêm Thành. Những người dân đầu tiên của Thăng Bình sống hòa lẫn với người Chiêm, phần nào học tập được phong tục, tập quán của họ. Một bộ phân lưu dân miền Bắc cũng tiếp tục thâm nhập vào đất này sau “Chiếu Bình Chiêm” của vua Lê sau chiến thắng Chiêm Thành (1471). Theo đó, những người dân xa xôi hơn, như dân từ vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam (phần lớn là nông dân cùng một ít thợ thủ công, người buôn bán và binh lính) đã di cư đến. Ngoài ra, vua Lê đã nhanh chóng bổ sung thêm bộ phận tội đồ để trị yên cõi này. “Năm Hồng Đức thứ 5 (1474), nhà vua sắc chỉ rằng xử tù xử tội lưu di đi cận châu thì sung vào vệ Thăng Hoa; đi ngoại châu thì sung vào vệ quân Tư Nghĩa; đi viễn châu thì sung vào vệ quân Hoài Nhơn. Tội nhân được tha chết cũng được sung vào vệ quân Hoài Nhơn” [18, tr.8]. Trong đoàn lưu dân này, thì dòng họ Nguyễn Thuật đã đến Hà Lam sinh sống và khai khẩn từ những ngày đầu tiên dưới thời Lê Thánh Tông. Dựa theo gia phả làng Hà Lam, khi viết về danh nhân Nguyễn Đạo, Lê Thí đã có viết: “Tộc Nguyễn của ông có nguồn gốc từ xã Bình Luật, huyện Thạch Hà, phủ Hà Ba, Thừa tuyên Nghệ An (nay là huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, di cư vào lập nghiệp ở Thăng Bình từ thời “Bình Chiêm hưng quốc” của Lê Thánh Tông vào năm 1471” [18, tr.66]. Qua đó khẳng định, di dân từ Nghệ An đã vào khai khẩn vùng đất Thăng Bình và lập làng từ thời Bình chiêm của Lê Thánh Tông. Được biết, đây cũng là “dòng họ có truyền thống nho học từ lâu đời ở vùng đất Nghệ An” [20, tr.301]. Đối với cư dân Chăm, sau khi chiếm được Trà Bàn, Lê Thánh Tông cử người cai quản những vùng đất mới. Theo đó: “Ngày mồng 7 (tháng 3 - năm Tân Mão – 1471), lấy người Chiêm đầu hàng là Ba Thái làm Đồng Tri châu Thái Chiêm; Đa Thủy làm Thiêm Tri châu. Vua dụ họ rằng: “Hai châu Thái Chiêm và Cổ Lũy trước là đất của ta, đời gần đây bị mất về nước Chiêm, nay lấy lại 14 được hết, đặc cách sai bọn các ngươi trấn giữ. Có kẻ nào không theo, cho giết trước rồi tâu sau” [17, tr.8 - 59]. Như vậy, số người Chăm ở lại còn rất đông. Đồng thời, “sau chiến thắng Trà Bàn (1471), họ không ra đi nữa, vì biết rằng phần đất đai còn lại không màu mỡ bằng, mà chấp nhận ở lại chung sống cùng người Việt” [6, tr.665]. Làn sóng di dân ồ ạt tiếp theo bắt đầu khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất Thuận Hóa (1558) và kiêm lãnh cả trấn Quảng Nam (1570) đã ra sức khai phá vùng đất còn rất đỗi rậm rạp này. Theo Tổng tập dư địa chí Việt Nam: “Từ đầu thời Trung hưng của bản triều, Đoan quốc công vào trấn, đời sau nối nhau giữ việc quân, truyền tập riêng nhau, tự đặt quan lại, do đó nhân sĩ châu Ô và châu Lý không ai là không theo thời thế mà lập công danh, mà những người bộ Khúc họ Nguyễn mang theo, phần nhiều là người Thanh, Nghệ kiều cư ngụ quán, con cháu họ có tài nghệ kiến thức, hoặc do tập ấm mà tiến lên, hoặc do thi cử mà bổ dụng, cũng lại không ít” [ 21, tr.482]. Qua đó, có thể thấy bộ phận quan lại họ Nguyễn, phần nhiều có sự góp mặt của nhân dân các miền Thanh, Nghệ cũng đồng nghĩa họ đã có mặt trong cuộc di dân vào miền Nam thế kỉ XVI - XVII (thế kỉ diễn ra giao tranh Lê - Mạc và Trịnh - Nguyễn). Mặt khác, sau chiến thắng Chiêm thành trở về, vua Lê Thánh Tông ra sắc lệnh: “Những người nguyên là quan lại ngụy, những người là cha Ngô, mẹ Việt, bọn phản nghịch và người Ai Lao, Chiêm Thành hết thảy đều là nô tỳ của nhà nước. Con cái còn bé cho đổi họ tên làm dân thường. Đến tháng 9 năm 1472, lại ra sắc chỉ: “cho Thái bộc tự khanh xét họ tên của bọn người Chiêm,người Man. Họ của người Chiêm thì mới cũ theo đúng quy chế, họ của người Man thì dồn lại” [17, tr.66]. Từ đây, người Chăm đều phải đặt theo tên của người Việt và trở thành người Việt. Nhà nghiên cứu Hồ Trung Tú trong bài viết về Quảng Nam đã cho biết thêm rằng, ngoài một số họ như: Ông, Ma, Trà, Chế rất đặc trưng họ Chàm thì còn một số người Chăm đổi sang họ Phạm, Phan, Đặng, Đinh, … Lại nói về chúa Nguyễn Hoàng, khi khai khẩn miền đất này, đã ra sức dẹp yên các cuộc nổi loạn của thổ hào, xây dựng hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam phồn thịnh. Trong bài nghiên cứu Việt sử: Xứ Đàng Trong, Phan Khoang đã có chép: “Quân dân hai xứ thương yêu, tín phục, cảm nhận, mến đức, dời đổi phong tục. Chợ 15 không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng. Thuyền buôn ngoại quốc đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang. Ai cũng cố gắng, trong cõi an cư lạc nghiệp” [3, tr.122]. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, trên cơ sở phương thức sản xuất mới, đã có từ thời Champa, chúa Nguyễn đã lấy thương nghiệp, chủ yếu là ngoại thương làm động lực phát triển kinh tế. Kinh tế thương nghiệp phồn thịnh đã thúc đẩy giao thông vận tải cả đường bộ và đường thủy cùng phát triển. Nhiều bến chợ được hình thành dọc các dòng sông lớn, riêng trên lưu vực sông Trường Giang đã hình thành các chợ: Bến Đá, chợ Được, chợ Kế Xuyên, …Tại đây nhiều làng tụ cư cũng ra đời… Thời chúa Nguyễn cũng tiến hành làm hộ tịch, hộ khẩu của tất cả địa phương để ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, đồng thời tăng cường quân số cho quân đội. Việc làm sổ hộ tịch đồng nghĩa rằng những người Chăm phải chuyển sang họ của người Việt là một yêu cầu bắt buộc. Đến năm 1627, khi Đào Duy Từ cho xây luỹ Trường Dục để chống lại quân Trịnh ở Đàng Ngoài thì con đường Nam tiến, di dân đến đây bị cắt đứt. “Sự chấm dứt di cư năm 1627 chính là điều kiện cần có để sự giao thoa đã hình thành đi vào ổn định một bản sắc vững bền đến mức nhiều biến động sau này cũng không thay đổi” [17, tr.64]. Đến vương triều Nguyễn, sau khi đàn áp phong trào nông dân Tây Sơn, vua Gia Long lên nắm chính quyền, đã đưa Nho giáo lên vị trí độc tôn để nhanh chóng thiết lập lại chế độ quân chủ chuyên chế. Kế nghiệp Gia Long, Minh Mạng lên ngôi ra sức đề cao Nho giáo, lấy đó làm hệ quy chiếu mọi chuẩn mực trong xã hội. Đối với Champa, lại càng ra sức giáo hóa “để làm hưng khởi phong tục tốt đẹp, tinh túy” [17, tr.106]. Lúc này, việc bảo lưu nền văn hóa của người Chăm trở nên khó khăn hơn. Kể từ khi Minh Mạng ra sắc dụ khuyến khích người bản địa, người Man học chữ Hán để ra làm quan: “Thổ dân đã ở trong sổ hộ khẩu, từ nơi tối tăm ra nơi sáng láng, nên khai hóa dần, mới hợp với nghĩa đem văn minh biến đổi man rợ. Lại hạ lệnh cho các thổ dân học tập ngôn ngữ phong tục người Kinh, quen tai quen mắt lâu ngày sẽ có cơ hội đồng hóa, không cần quá vội… Như thế, làm việc có thứ tự, sẽ thấy phong tục dù khác nhau, cũng dần dần đổi thành tốt đẹp, cùng chung văn hóa, cùng chung luân lý vậy” [17, tr.108]. Như vậy, mọi chuẩn mực xã hội, lễ nghi, phong tục đều lấy Nho giáo làm gốc quy chiếu, đã đẩy người Chăm đến bờ vực phải 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan