Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa của margaret mitchell trong tác phẩm “cuốn theo...

Tài liệu Khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa của margaret mitchell trong tác phẩm “cuốn theo chiều gió”

.PDF
107
24574
118

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ TUYẾT NGA KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC CHỦ NGHĨA CỦA MARGARET MITCHELL TRONG TÁC PHẨM “CUỐN THEO CHIỀU GIÓ” LUẬN ÁN THẠC SĨ VĂN HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2004 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô và bạn bè. Tôi xin chân thành cám ơn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS. Lương Duy Trung, người đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn tận tình, giúp tôi hoàn thành luận văn này. Bình Dương, tháng 3 năm 2004. Nguyễn Thị Tuyết Nga. 3 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 3 MỤC LỤC .................................................................................................................... 4 DẪN NHẬP .................................................................................................................. 6 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................6 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................9 3. Lịch sử vấn đề................................................................................................................10 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................10 5. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................................11 6. Bố cục luận văn .............................................................................................................11 7. Những đóng góp của luận văn .....................................................................................13 CHƯƠNG 1: THỜI ĐẠI, TÁC GIẢ, TÁC PHẨM ................................................ 14 1.1. Thời đại .......................................................................................................................14 1.1.1. Nạn kỳ thị chủng tộc và cuộc chiến tranh Nam - Bắc ...........................................14 1.1.2. Vài nét về văn hóa và địa lý vùng đất phía Nam, bang Georgia ...........................17 1.1.3. Bang Georgia(GA). ...............................................................................................18 1.1.4. Khái quát về chủ nghĩa hiện thực phương Tây .....................................................18 1.1.5. Chủ nghĩa hiện thực mỹ ........................................................................................20 1.2. Tác giả và tác phẩm ...................................................................................................24 1.2.1. Thân thế và sự nghiệp............................................................................................24 1.2.2. Những phát hiện mới về Margaret Mitchell ..........................................................33 1.3. Giới thiệu tác phẩm ...................................................................................................35 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP SÁNG TÁC HIỆN THỰC CHỦ NGHĨA CỦA MARGARET MITCHELL ...................................................................................... 38 2.1. Hoàn cảnh sáng tác của MM ....................................................................................38 2.2. Quan điểm sáng tác hiện thực của MM ...................................................................39 2.3. Nội dung tư tưởng ......................................................................................................40 2.4. Nghệ thuật xây dưng nhân vật điển hình ................................................................40 2.4.1. Điển hình chung ....................................................................................................41 2.4.2. Cá nhân điển hình ..................................................................................................46 2.5. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ...............................................................................70 2.6. Nghệ thuật xây dựng bối cảnh ..................................................................................76 2.6.1. Trước chiến tranh: .................................................................................................77 2.6.2. Trong chiến tranh: .................................................................................................79 4 2.6.3. Sau chiến tranh: .....................................................................................................80 2.6.4. Thời kiến thiết: ......................................................................................................81 2.7. Hoàn cảnh điển hình ..................................................................................................83 2.7.1. Tâm trạng và sự chuẩn bị tham gia chiến tranh của những người miền Nam ......83 2.7.2. Diễn biến chiến tranh và hậu quả ..........................................................................85 2.7.3. Cảm nhận của các nhân vật trong truyện về chiến tranh .......................................86 2.7.4. So sánh với các tác phẩm viết về chiến tranh khác ...............................................87 CHƯƠNG 3: .............................................................................................................. 94 3.1. Ý nghĩa tiếp nhận .......................................................................................................94 3.2. Kết luận .......................................................................................................................97 PHẦN PHỤ LỤC ..................................................................................................... 102 SÁCH THAM KHẢO ............................................................................................. 105 5 DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Thế kỷ hai mươi đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử văn chương Hoa Kỳ. Đó là thời kỳ mà giới sáng tác vượt biên giới quốc gia để chinh phục những phần đất còn lại của thế giới. Đây cũng là lức các nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch tài danh lỗi lạc đồng loát xuất hiện trên văn đàn. Họ không những được đón nhận nồng nhiệt từ các độc giả trong nước mà còn được giới thưởng thức nghệ thuật ở nước ngoài ngưỡng mộ. Một vài người trong số họ đã giành được những giải thưởng văn học có giá trị nhất hành tinh như giải Pulitzer và giải Nobel, tôi muốn nhắc đến tên tuổi của Sinclair Lewis (1930), Eugene O’Neill (1936), Faulkner ( 1950), Hemingway ( 1954)...Một tác giả khác, tuy ít nổi tiếng hơn những người vừa kể nhưng sáng tác của bà lại đóng góp rất lớn vào việc tạo nên uy tín và giới thiệu nền văn hoa Mỹ đến toàn thế giới, một tác phẩm văn học không chỉ thu hút được sự yêu quí của người dân Mỹ mà còn làm say mê hàng triệu người trên khắp các lục địa: Tác phẩm Gone with the wind (Cuốn theo chiều gió) của Margaret Mitchell. Ngày nay, người ta nói rằng nếu bàn luận đến văn học Mỹ mà không nhắc đến tác phẩm này sẽ là một thiếu sót không thể chấp nhận được. Ở nước ta, nhiều người có thể không biết đến “Của chuột và người”(John Steinbeck), "Chuông nguyện hồn ai" ( Ernest Hemingway), hay "Âm thanh và cuồng nộ" (William Faulkner )... nhưng hầu như mọi người đều biết đến “Cuốn theo chiều gió” . Điều đáng lưu ý là mặc dù đã góp phần làm rạng danh cho nền văn học Hoa Kỳ như vậy, tác phẩm này lại không được chính các nhà lý luận phê bình, giới học giả nói chung ở Hoa Kỳ đánh giá cao. Trong danh sách những nhà văn lớn của nhân loại không có tên của Margaret Mitchell, và ngay trong bộ Lịch sử văn chương Hoa Kỳ của nhà xuất bản Macmillan, nơi lần đầu tiên phát hành tác phẩm CTCG (Cuốn theo chiều gió), các nhà viết sách cũng đã không dành cho lấy đôi hàng giới thiệu hay nhận xét về tác giả và tác phẩm này, trong khi họ có thể dành cả chương cho các tác giả khác như Emerson,Thoreau, Whitman, hay Edgar Allan Poe... Phải chăng như sự nhận định của một số nhà phê bình, CTCG chỉ là một cuốn truyện giải trí thường thường bậc trung, đọc xong rồi quên đi vì nó không có giá trị nghệ thuật, không có điều chi xứng đáng để luận bàn? Vì vậy mà "Cuốn theo chiều gió" từ lúc ra đời cho đến nay thường trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà phê bình văn học theo nhiều hướng khác nhau. Chẳng hạn như tờ New Yorker thì hết lời ca ngợi. Nhà thơ, nhà phê bình John Crowe 6 Ransom cũng hết sức ngưỡng mộ nhưng phê phán rằng tác phẩm này có vẻ cục bộ địa phương quá, nhất là khi viết về thời kỳ tái thiết. John Peale Bishop thì cho rằng “Nó chỉ là cuốn tiểu thuyết được một ngàn trang, xoàng xoàng, dầy cộm nhưng không hay mà cũng không dở”, còn William thì mô tả nó như là một kiệt tác giải trí của quần chúng và nhất định không phải là tác phẩm nghệ thuật (If it’s popular, it can’t be art). Ông Trần Hoàng nhận xét: “Mặc dù CTCG còn nhiều thiếu sót về mặt quan điểm lịch sử và chính trị, mặc dù những sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức đối với bọn 3K, chúng ta không thể phủ nhận cống hiến của MM (Margaret Mitchell) đối với kho tàng văn học thế giới”. Riêng ở Việt Nam, dù xuất hiện và được yêu mến đã gần bốn mươi năm, nhưng chưa hề có bất cứ một công trình chuyên luận nào mang tính chất khảo sát, phân tích, hay phê bình toàn diện về tác phẩm này. Ngay cả những bài viết ngắn trên các tạp chí chuyên san về văn nghệ cũng chỉ mang tính chất giới thiệu về tác phẩm hoặc tác giả hơn là phê bình phân tích tác phẩm một cách có hệ thống. Chúng tôi cũng được biết rằng ở ngay nước Mỹ, các bài viết về CTCG có thể lên đến con số hàng ngàn, hàng vạn, nhưng hầu hết lại nghiêng về phân tích bộ phim và kỹ xảo điện ảnh hơn là về giá trị văn chương nghệ thuật của một tác phẩm văn học. Người ta kinh ngạc về số lượng sách phát hành, về doanh thu của bộ phim, về sự đón nhận vượt thời gian và không gian của con người dành cho CTCG, nhưng dường như ngần ấy chuyện vẫn chưa đủ cho các vị Hàn lâm để mắt đến tác phẩm. Những điều vừa trình bày đã gợi cho chúng tôi nhiều suy nghĩ và sự quan tâm đến CTCG. Đâu là giá trị đích thực của tác phẩm này, và đâu là yếu tố đã làm nên sự thành công vang dội của nó ? Nếu như đánh giá của một số người là đúng khi cho rằng tác phẩm chỉ đáp ứng được nhu cầu giải trí của quần chúng phổ thông, bình dân, vậy liệu có sự phân chia tách bạch giữa một tác phẩm văn học đích thực và một tác phẩm thuần túy giải trí ? Chúng ta biết rằng mỗi tác phẩm văn học có đời sống lịch sử và số phận của nó. Có những tác phẩm hiển hách một thời, rồi sau bị lãng quên. Có tác phẩm được tiếp nhận dè dặt lúc đầu, nhưng về sau lại có vị trí vững vàng trong dòng trôi của các thế hệ và thời đại lịch sử. “Thống kê xã hội học cho biết 80% ấn phẩm năm trước, năm sau đã bị bỏ quên, và cứ hai mươi năm, số ấn phẩm bị quên là 99%. Dĩ nhiên số bị lãng quên cũng đã từng có vai trò lớn lao một thời trong đời sống và trong văn học. Những số sống được nhờ chứng tỏ số phận chúng không phải chỉ do bạn đọc định đoạt mà còn do phẩm chất bên trong của chúng” (Lý luận văn học, tập I - Phương Lựu). 7 Điều rất đáng chú ý nữa là mặc dù tác phẩm CTCG có những nhân vật với lối sống xa lạ và trái ngược với những truyền thống đạo lý lâu đời của các dân tộc Á châu, nhưng nó vẫn được hoan nghênh nhiệt liệt tại các quốc gia này. Dường như sức hấp dẫn cửa tác phẩm đã vượt ngoài các khuôn khổ đạo lí thông thường để có được sự cảm nhận chung của con người trên trái đất. Bởi các tiêu chuẩn đạo lí vốn không có tính chất cố định và thường phải thay đổi cho phù hợp với thời gian và hoàn cảnh còn lương tri nhân loại, những giá trị nhân bản lại có tính chất phổ quát và bất biến làm nền tảng cho sinh họat cộng đồng và duy trì sự tồn tại của con người. Công chúng đông đảo tiếp nhận văn học thường xuất phát từ thực tiễn đời sống và nhu cầu tự nhiên của tình cảm, đặc điểm của nó là sự đa dạng muôn màu như sự muôn màu của cá tính. Nhưng sự tiếp nhận của công chúng cũng có sự thống nhất. Các sáng tác chân thực lột tả được nỗi niềm và ước ao của công chúng đều được đón nhận nhiệt tình. Sự đón nhận rầm rộ một tác phẩm nào đấy, do vậy, cần được lý giải về mặt xã hội và nhiều phương diện khác nữa, chứ không đơn giản là chỉ xét ở giá trị tác phẩm. Sự tiếp nhận tác phẩm đương thời và tác phẩm quá khứ cũng có khác biệt đáng kể. Khoảng cách thời gian thường cho phép tiếp nhận đi vào chiều sâu và chỉ trong đời sống lịch sử dài lâu, sáng tác văn học mới bộc lộ hết sự phong phú và sức mạnh ẩn tàng của nó. Chúng ta có thể tán thành quan điểm xem đọc là một cuộc đối thoại với tác giả, với chính mình, là khám phá cái mới trong cuộc sống và trong nghệ thuật, là nhận thức mình hưởng thụ và tự giáo dục, để ngày càng chiếm lĩnh tác phẩm sấu sắc hơn, toàn diện hơn, cụ thể hơn, trong nhiều tương quan và bình diện mới. Nhưng đồng thời phải nhấn mạnh rằng trong những cách lý giải khác nhau về tác phẩm nghệ thuật có chỗ đúng, có chỗ sai, nhưng hoàn toàn không có nghĩa là chỉ có một cách hiểu nào đó là duy nhất đúng. Thực hiện luận văn này, chúng tôi hy vọng không chỉ để thỏa mãn những nhu cầu tri thức riêng tư, đáp ứng cho yêu cầu nghiệp vụ chuyên môn, mà còn góp phần giúp sinh viên, học sinh có thêm được nhiều tư liệu về tác giả và tác phẩm, đón nhận thêm nhiều ý kiến phê bình ở nhiều phương diện khác nhau. Điều ấy có thể gợi mở những suy tư mới, những cách đánh giá nhìn nhận mới về tác phẩm, nhằm giúp cho việc phê bình và thưởng thức tác phẩm văn học khá đặc biệt này một cách trọn vẹn hơn. Trong quá trình nghiên cứu tác phẩm, chứng tôi đã vận dụng những quan điểm của ngành lý luận phê bình hiện đại như thi pháp học, phong cách học, và đặc biệt là lý luận sáng tác hiện thực chủ nghĩa của các nhà lý luận phê bình lỗi lạc trong và ngoài nước như Belinxki, 8 N. A. Gulaiep, Trần Đình Sử để phát hiện ra ý nghĩa tác phẩm theo những bình diện mới, góc độ mới. Vì vậy, từ chỗ chỉ để trả lời những thắc mắc cá nhân, chúng tôi đi đến ý định thực hiện một công trình khảo sát tác phẩm có tính chuyên môn cao hơn, để tìm hiểu vì sao bằng đường lối sáng tác hiện thực phổ biến, tác giả đã có thể đưa một bộ tiểu thuyết thành một tác phẩm văn chương được yêu mến qua bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu dân tộc khác nhau từ màu da, tiếng nói, tín ngưỡng... đến như thế? 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Các tác phẩm văn học lớn trên thế giới luôn chứa đựng nhiều nội dung phong phú mà người ta khó lòng khám phá trọn vẹn và trình bày đầy đủ được. Từ góc độ phán xét, từ bối cảnh không gian thời gian khác nhau, các nhận định thường có nhiều sai biệt đáng kể và đôi khi cũng dẫn đến những bất đồng tranh luận gay gắt giữa các nhà phê bình. Đối với một tác phẩm xuất hiện đã gần bảy mươi năm nay và được đón đọc qua bao nhiêu thế hệ khác nhau trên thế giới như CTCG nhưng cho tới nay vẫn chưa được sự đánh giá thống nhất từ các nhà phê bình. Điều này cho thấy tính phức tạp và khó khăn trong việc đánh giá nhận định tác phẩm này. Vì vậy, chúng tôi không có tham vọng thực hiện một công trình nghiên cứu khảo luận có tính toàn diện, đặc biệt trong tình trạng thiếu sót tư liệu tham khảo như hiện nay. Chúng tôi hy vọng giới hạn phạm vi đề tài nghiên cứu ở phương diện chủ nghĩa hiện thực mà tác giả đã sử dụng trong quá trình sáng tác. Từ đó để hiểu được những đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Chúng tôi cũng xem xét toàn bộ tác phẩm bao gồm hệ thống các nhân vật, hệ thống các sự kiện, tình tiết cũng như các mối tương quan của chi tiết tạo hình, biểu hiện, các tương quan về không gian và thời gian tạo nên bức tranh sinh động về cuộc sống và tạo nên hiệu quả rung động sâu xa trong lòng người đọc lâu dài của tác phẩm. Để phục vụ cho mục tiêu này, chúng tôi đã tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của tác giả, hoàn cảnh và bối cảnh lịch sử khi tác phẩm ra đời, cũng như trình bày những đặc điểm khái quát về chủ nghĩa hiện thực ở Mỹ và trên thế giới, các luận điểm cơ bản làm nền tảng cho lý luận và sáng tác của chủ nghĩa hiện thực. Từ đó tạo tiền đề để đi vào phần phân tích, đánh giá các thành tựu cũng như tìm ra những điểm còn hạn chế. Sau cùng nêu lên các ý nghĩa tiếp nhận từ tác phẩm. 9 3. Lịch sử vấn đề Từ sau ngày bộ phim phỏng theo tiểu thuyết cùng tên ra đời năm 1939 cho đến nay số lượng những công trình nghiên cứu về MM và tác phẩm “Cuốn theo chiều gió”, đặc biệt là phần phê bình phim nhiều không thể kể hết, nhất là ở Hoa Kỳ. Riêng tại Việt Nam, có rất nhiều bài báo viết về phim, nhưng có rất ít bài nghiên cứu tác giả, tác phẩm theo hướng lý luận văn học, mặc dù độc giả Việt Nam đã khá quen thuộc với bộ tiểu thuyết này từ những năm 1960. Vì vậy trong quá trình viết luận văn, chúng tôi phải sưu tầm bất cứ tài liệu gì có liên quan. Từ các bài viết rải rác trên báo và tạp chí trong nước đến các tư liệu truy cập từ Internet. Tác phẩm nghiên cứu nguyên tác tiếng Anh là bản do nhà Macmillan phát hành. Trong các đoạn trích, chúng tôi đưa vào bản dịch của Dương Tường, do nhà xuất bản Văn học in năm 1987 và bản dịch của Vũ Kim Thư, nhà xuất bản Văn học in năm 2000. Do nguồn tư liệu nghiên cứu tìm được quá hạn chế, chúng tôi cố gắng đặt trọng tâm ở việc khảo sát và phân tích từ chính nội dung tác phẩm. Rất mong nhận được sự thông cảm của quý vị cho những thiếu sót của chúng tôi. Trong quá trình viết luận văn, chúng tôi có nghiên cứu các tài liệu ngoài nước có liên quan đến đề tài như: 1. Helen Taylor, Scarlett’s Women : Gone With the Wind and Its Female Fans (New Brunswick, 1989) 2. Anne Edwards, Road to Tara: The Life of Margaret Mitchell (New York, 1983) 3. Elizabeth, Scarlett O’Hara:The Southern Lady as New Woman 4. Robert Hughes, Myth and Gender in Gone With the Wind. 5. Many author, Literary history of the United States. 4. Phương pháp nghiên cứu Từ việc phân tích các nhân vật, các mối quan hệ giữa các nhân vật, các yếu tố thời gian, không gian trong tác phẩm, các mối liên kết giữa nhà văn với thời đại, giữa tác phẩm và người tiếp nhận, ý nghĩa hiện thực của tác phẩm, so sánh tác phẩm với một số tác phẩm khác cùng chủ đề, cùng thời đại nhằm làm nổi bật ý nghĩa về khuynh hướng hiện thực của Mitchell. Luận văn xác định các phương pháp nghiên cứu sau: • Phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả 10 • Phương pháp phân tích • Phương pháp so sánh đối chiếu • Phương pháp tiếp cận thi pháp. 5. Mục đích nghiên cứu Khảo sát tác phẩm "Cuốn theo chiều gió" của MM từ góc độ hiện thực, luận văn hướng tới việc lý giải vì sao tác phẩm luôn hấp dẫn người đọc khắp hành tinh ở mọi thời đại? Ý nghĩa hiện thực của tác phẩm đã đóng góp cho nhận thức của người đọc như thế nào? Chủ nghĩa hiện thực Mỹ có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới ra sao?Và ở Việt Nam, tác phẩm được đón như thế nào? 6. Bố cục luận văn Ngoài phần dẫn nhập, luận văn gồm có ba chương CHƯƠNG 1: THỜI ĐẠI, TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1.1. Thời đại: Vài nét về bối cảnh lịch sử, xã hội Mỹ nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX 1.1.1. Nạn kỳ thị chủng tộc và cuộc chiến tranh Nam - Bắc. 1.1.2. Các đặc điểm văn hóa và địa lý của vùng đất phía Nam nước Mỹ, bang Georgia. 1.1.3. Sơ lược về chủ nghĩa hiện thực phương Tây. 1.1.4. Chủ nghĩa hiện thực Mỹ 1.2. Tiểu sử tác giả: 1.2.1. Thân thế và sự nghiệp 1.2.2. Những phát hiện mới 1.3. Giới thiệu tác phẩm: ❖ Tóm tắt cốt truyện CHƯƠNG 2: KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC CHỦ NGHĨA CỦA MARGARET MITCHELL 2.1. Hoàn cảnh sáng tác 2.2. Quan điểm sáng tác hiện thực chủ nghĩa của MM 11 2.3. Nội dung tư tưởng 2.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình 2.4.1. Điển hình chung. 2.4.1.1. Điển hình cho hai giai cấp điền chủ và nông nô 2.4.1.2. Điển hình cho hai loại người trước những biến động của thời cuộc 2.4.2. Cá nhân điển hình 2.4.2.1. Nhân vật Scarlett( Scarlett và tình yêu; Scarlett với đồn điền Tara) 2.4.2.2. Nhân vật Ashley 2.4.2.3. Nhân vật Rhett 2.4.2.4. Nhân vật Melanie 2.5. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện 2.6. Nghệ thuật xây dựng bối cảnh 2.6.1. Trước chiến tranh 2.6.2. Thời chiến tranh 2.6.3. Sau chiến tranh 2.6.4. Thời tái thiết II.6. HÒ AN CẢNH ĐIỂN HÌNH Chiến tranh trong tác phẩm a. Tâm trạng và sự chuẩn bị tham gia chiến tranh của những người Miền Nam. b. Diễn tiến chiến tranh và hậu quả c. Cảm nhận của các nhân vật trong truyện về chiến tranh. d. So sánh với một vài tác phẩm viết về chiến tranh CHƯƠNG 3 Ý nghĩa tiếp nhận. Kết luận 12 7. Những đóng góp của luận văn Luận văn cố gắng đi sâu vào phân tích các nhân vật, các sự kiện trong tác phẩm, tìm mối liên kết giữa sự kiện lịch sử với sự kiện trong tác phẩm, giữa xây dựng nhân vật với nhân vật điển hình trong phương pháp sáng tác hiện thực nhằm làm rõ khuynh hướng hiện thực của Mitchell. Luận văn cũng khái quát quá trình tiếp nhận, nêu ý nghĩa, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. 13 CHƯƠNG 1: THỜI ĐẠI, TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 1.1. Thời đại Đầu thế kỷ XIX biên giới Mỹ mở rộng về phía Tây đến sông Mississippi và xa hơn. Năm 1828, Andrew Jackson, người vùng biên giới Tennessee, sinh ra trong một gia đình nghèo đã đắc cử Tổng thống. Kỷ nguyên của Jackson dẫu đã đổi mới nhiều song số phận những người nô lệ vẫn chưa thay đổi được bao nhiêu. Những từ từng được nhắc nhở đến nhiều nhất trong Hiến pháp "mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng'' (all men are created equal) thực ra vô nghĩa với 1,5 triệu người nô lệ lúc đó. Chiến tranh Mexico 1846-1848 đưa về cho Mỹ nhiều vùng đất mới và vấn đề nới rộng tình trạng nô lệ được đề cập đến. Năm 1860 Abraham Lincoln đắc cử Tổng thống. Ông tuyên bố phải bãi bỏ chế độ nô lệ và thống nhất đất nước. Nội chiến là thời kỳ đau thương nhất trong lịch sử Mỹ, nhưng nó giải quyết được hai vấn đề mấu chốt gây mâu thuẫn sâu sắc ở Hoa Kỳ từ năm 1776: kết thúc chế độ nô lệ và quyết định rằng đất nước không phải là tập hợp các bang mà là một chỉnh thể thống nhất với nhiều bang. 1.1.1. Nạn kỳ thị chủng tộc và cuộc chiến tranh Nam - Bắc Trước hết, xin ghi lại một số diễn biến chính của cuộc chiến tranh Nam Bắc Hoa Kỳ. (4/3/1861-15/4/1865) như sau : Vấn đề nô lệ là nguồn phát sinh ra những mâu thuẫn giữa hai miền Nam Bắc Hoa Kỳ. Tại phương Nam, sự kỳ thị chủng tộc được coi là chính đáng và phù hợp. Miền Nam quan niệm rằng người da đen có bổn phận " ở yên trong địa vị của mình''. Sở dĩ, họ có thái độ đó một phần là do ảnh hưởng từ chế độ thực dân phương Nam để lại từ thời quá khứ, một phần do xã hội phương Nam là xã hội nông nghiệp, ít thay đổi. Vì thế mà người miền Nam luôn muốn mở rộng chế độ nô lệ tới các vùng lãnh thổ mới. Họ cố gắng chiến đấu cũng chỉ để bảo vệ trật tự này trong xã hội. Ở miền Bắc, nơi có nền công nghiệp phát triển, người ta coi chế độ nô lệ là một sự vi phạm về nhân quyền cần được xóa bỏ càng sớm càng tốt. Việc phát hành cuốn sách "Túp lều của chú Tom" của Harrier Beecher Stowe (năm 1852) lại càng thúc đẩy thêm quan điểm phản đối chế độ nô lệ. Vấn đề thuế quan và chủ nghĩa ly khai cũng là những vấn đề vướng mắc từ bao thập kỷ qua giữa hai miền Nam Bắc. Tất cả những điều này đã làm nên nguyên nhân cho cuộc nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ. 14 Năm 1853, Stephen Arnold Douglas, một lãnh tụ đảng dân chủ và cũng là chủ tịch của ủy ban lãnh thổ thuộc Thượng nghị viện đã đưa ra một dự luật gọi là Kansas - Nebraska Act, chia vùng đất phía Bắc của Missouri vốn bị nghiêm cấm không cho nuôi nô lệ da đen theo "thỏa hiệp Missouri", thành hai tiểu bang mới là Kansas, Nebraska và cho phép cư dân tại Nebraska được quyền nuôi nô lệ. Các đại biểu miền Nam cũng có ý định xây dựng một chính quyền đảm trách vấn đề nô lệ ở bang này. Do vậy, các đoàn thể chủ trương cấm nuôi nô lệ ở miền Bắc cũng nhanh chống đưa người đến bang Kansas để hoạt động theo chủ trương mình. Vùng Kansas trở thành địa phương qui tụ hai thế lực chống đối nhau. Mùa hè năm 1860, Lincoln đắc cử Tổng thống đảng Cộng Hòa. Năm 1861, mười một bang miền Nam tách khỏi liên minh Cộng Hòa. Tháng 2-1861, các bang miền Nam tổ chức một liên bang mới lấy tên là "Liên bang Mỹ"(Confederate States of America) và bầu Jefferson David làm tổng thống miền Nam. Và xác định việc nuôi nô lệ da đen chính là phương thức sinh hoạt tại miền Nam. Thủ đô là Montgomery, thuộc bang Alabama. Đến tháng 6 năm 1861, bang Virginia cũng tham gia vào Liên bang miền Nam. Vì vậy, Liên bang dời thủ đô đến Richmon, Virginia. Miền Bắc có lợi thế rất lớn so với miền Nam : dân số gấp đôi và là nơi tập trung phần lớn nền công nghiệp của toàn đất nước. Miền Bắc có thể tiến hành một cách có hiệu quả trong việc phong tỏa đường biển tại các cảng ở phía Nam và ngăn cản không cho miền Nam tiếp nhận các nguồn hàng thiết yếu từ nước ngoài. Lợi thế của miền Nam là chiến đấu trên những mảnh đất quen thuộc cùng với tình thần quyết tử, không tiếc sức mình, sức của của quân đội. Hơn nữa, miền Nam được các quốc gia Châu Âu ủng hộ nhiệt tình vì mối quan hệ lâu dài từ nguồn cây bông vải xuất khẩu. Ngày 12-4-1861, lực lượng của quân đội miền Nam, dưới sự chỉ huy của tướng Pierce G. T. Beauregard đã nả súng vào pháo đài Sumter tại cảng Charleston, buộc chỉ huy là trung tá Robert Anderson phải đầu hàng. Sự kiện này báo hiệu khởi đầu cuộc nội chiến. Cuộc đụng độ đầu tiên đã thu hút sự chú ý của rất nhiều người dân miền Bắc. “Bây giờ, chúng ta đang tham gia vào một cuộc nội chiến vĩ đại, thử thách xem liệu dân tộc ta hay bất kỳ một dân tộc nào khác đã hình thành như thể và đã cống hiến như vậy, có thể chịu đựng được bao lâu? Chúng ta sẽ gặp nhau trên chiến trường vĩ đại. Có thể một phần của chiến trường sẽ là nơi an nghỉ cuối cùng cho những người đã hy sinh cuộc đời mình vì sự nghiệp của dân tộc. Vậy chúng ta phải thực hiện. Vì nó đúng đắn và phù hợp” . Đây là trích đoạn bài phát biểu của tổng thống 15 Abraham Lincoln ở Gettysburg năm 1863, và việc mà ông cho là "đúng đắn và phù hợp" đó chính là tiến hành cuộc chiến chống lại quân miền Nam muốn ly khai, để giữ gìn sự vẹn toàn của lãnh thổ. Thoạt đầu, quân miền Nam cũng giành được nhiều chiến thắng quan trọng, như vào tháng 5 năm 1863, dưới sự chỉ huy của tướng Lee, quân miền Nam đã đánh tan phần lớn quân đội Liên minh ở Chancellorsville, Virginia và tiến về phía Bắc đến tận Gettysburg, Pennsylvansia. Nhưhg càng đánh, chiến trận càng xoay chiều, quân miền Nam suy yếu dần. Vào tháng 9 năm 1864, tướng miền Bắc là ông Wiiliam T. Sherman đã tiến quân về Atlanta và chiếm được thành phố này. Sau đó, ông mở rộng chiến trường hướng ra phía biển mà ngày đó vẫn gọi là "chiến dịch tiến quân về biển". Đây là một cuộc hành trình dài qua những vùng "vườn không nhà trống" theo hướng Tây Nam tới Savannah. Sau đó, Sherman quay về phương Bắc, kết hợp với tướng Grant khép chặt vòng vây, tiêu diệt quân của tướng Lee. Đến tháng 4-1865, Richmond quy hàng và ngày 9-4, tướng Lee đầu hàng tại Appomattox. Kết thúc cuộc chiến tranh tương tàn đẫm máu : quân liên minh có 365.000 người chết, 282.000 người bị thương. Con số thương vong của miền Nam không được biết chính xác nhưng chắc chắn là không nhỏ, riêng trong trận đánh tại Gettysburg, binh sĩ đôi bên đã chết 6.000 người và bị thương đến 40.000 người khác Vào những năm 1860, hầu hết người dân Mỹ sống trong những trang trại hay trong những làng nhỏ. Nhưng đến khoảng trước năm 1919, nửa dân số đã tập trung vào khoảng 12 đô thị dẫn đến một vấn đề nhạy cảm về đô thị hóa và công nghiệp hóa. Sự nghèo đói, nhà ở quá chật chội, điều kiện sống kém vệ sinh, lương thấp và những kìm hãm không phù hợp với hoạt động kinh doanh đã đưa đến nhiều cuộc đấu tranh đòi quyền lợi của dân nghèo. Họ đa phần là những người bỏ nông thôn ra thành thị để làm thuê và là dân nhập cư đến từ các quốc gia khác. Số người này nhiều như thác đổ . Họ sẵn sàng chấp nhận làm công với giá lao động rẻ mạt. Nhiều vấn đề về đạo đức và xã hội phát sinh sau những phát triển như vậy đã tạo ra một bức tranh xã hội Mỹ nhiều màu sắc, hỗn độn và rối ren trong những thập niên đầu của thế kỷ XX 16 1.1.2. Vài nét về văn hóa và địa lý vùng đất phía Nam, bang Georgia Về phương diện văn hóa, vùng này bắt đầu từ nam Delaware và Maryland, kéo sang phía tây là Virginia, cắt nam Ohio tới Indiana và nam Illinois, gồm đại bộ phận Missouri và Oklahoma và gần hết bang Texas. về mặt địa lý, đây là vùng lớn nhất ở Mỹ và chiếm hơn một phần tư dân số cả nước. Trên nhiều mặt, vùng Nam khác biệt rõ rệt với các vùng còn lại. Những thổ ngữ/ âm điệu địa phương thường được gọi là tiếng Anh đen (black English) được coi là một nét đặc trưng ở vùng phía Nam. Nơi đây còn sản sinh ra phong cách các bài hát "blues" và các điệu hát dân gian nổi tiếng, thường được gọi là âm nhạc “núi đồi” ( mountain/ hillbilly) hay âm nhạc "đồng quê " (country). Sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các nền âm nhạc "blues", dân gian, "cowboy" miền biên cương để trở thành loại âm nhạc “country western”. Thủ đô âm nhạc là Nashville, Tennessee. Nashville cũng là trung tâm phát triển của tôn giáo dân gian. Vì vậy mà vùng Nam là nơi duy nhất không có nhiều tín đồ đạo Gia tô. Vùng Nam còn được coi là nơi nổi tiếng về lòng hiếu khách và tình hữu nghị, tánh tình người miền Nam phóng khoáng, cởi mở. Họ coi trọng vinh dự và giá trị cá nhân. Những yếu tố này đã giải thích vì sao họ quan tâm đến binh nghiệp và cố quá nhiều cơ sở quân sự đặt tại đây. Một đặc trưng khác nữa của miền Nam là ở đây tỉ lệ giết người cao hơn so với miền Bắc. Tình trạng này được ghi nhận ngay từ đầu thế kỷ XIX. Một trong những nguyên nhân của cuộc chiến tranh Nam - Bắc (1861-1865) là miền Nam muốn duy trì chế độ nô lệ, nhưng đến nay, ở miền Nam vấn đề kỳ thị chủng tộc không còn sâu sắc như trong quá khứ. Tại các cấp địa phương người da đen đã được bầu vào các cương vị chính quyền, với chừng mực nhất định. Sự thua kém về giáo dục và công nghiệp ở miền Nam cũng đã được khắc phục từng bước. Riêng hai vùng Louisiana và Horida có những đặc trưng riêng. Luoisiana là thuộc địa của Pháp nên dân Luoisiana phần lớn vẫn còn nói tiếng Pháp, nhất là các vùng nông thôn, tôn giáo thịnh hành là đạo Gia tô. Bang Florida vốn là thuộc địa của Tây Ban Nha, là nơi dân miền Bắc, chủ yếu là ở thành phố New York đến để giải trí và nghỉ hưu. Gần đây nhất, làn sóng người di cư từ Cuba và một số ở các quốc gia Mỹ La tinh đến khá đông khiến một số nhà xã hội học cho rằng thành phố Miami ngày nay giống như thành phố lớn của Mỹ La tinh. 17 1.1.3. Bang Georgia(GA). Diện tích:153.078km2. Thủ phủ là Atlanta. Dân số: 8.186.453 người. Là bang ở miền Đông Nam, trước kia sống nhờ đồn điền bông và nô lệ da đen, bị tàn phá nặng nề sau cuộc nội chiến. Bộ phim "Cuốn theo chiều gió" lấy nơi đây làm bối cảnh. Bang Georgia có các thành phố lớn như: Augusta, Columbus, Savannah, Macon, Albany. Atlanta là địa điểm đóng đại bản doanh của đài truyền hình CNN và hai tập đoàn nước giải khát lớn nhất thế giới là Pepsi và Coca - cola. Atlanta cũng là nơi đã tổ chức Olympic mùa hè 1996. Georgia có trường Đại học Emory và viện Công nghệ Georgia ( Georgia Institute of Technology) khá uy tín. 1.1.4. Khái quát về chủ nghĩa hiện thực phương Tây Hình thành và phát triển đã trên một trăm năm, ngày nay phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa đã khẳng định được những giá trị tiến bộ và ưu thế so với các phương pháp sáng tác khác. Do đó nó được các tác giả lựa chọn như là phương pháp biểu hiện hiệu quả nhất các tư tưởng và tình cảm. Những nhà nghiên cứu chuyên môn và giới phê bình văn học cũng đã xây dựng nên một nền tảng lý luận vững vàng, đầy đủ cho phương pháp này. Vì vậy, trào lưu hiện thực ngày nay không còn là chuyện mới mẻ, xa lạ. Trong phần này, chúng tôi chỉ xin nhắc lại sơ lược đôi nét chính yếu về những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện thực đủ làm cơ sở phục vụ cho việc tìm hiểu và phân tích tác phẩm CTCG. Đối tượng sáng tác của các nhà văn hiện thực là mối mâu thuẫn giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, con người với tự nhiên. Miêu tả tính cách nhân vật trong các tác phẩm hiện thực thường mang những nét tiêu biểu cho một lực lượng xã hội nhất định nào đó. Các tính cách hình thành, hoạt động và phát triển luôn nằm trong những hoàn cảnh của mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp. Hoàn cảnh này qui định sự vận động, diễn biến của tính cách, một sự vận động không cơ giới, mà theo logic nội tại của bản thân tính cách. Và thường được gọi là hoàn cảnh điển hình. Chính vì vậy mà các nghệ sĩ hiện thực chủ nghĩa thường phân tích khá sâu sắc, tinh vi tâm lý nhân vật. Nhân vật được thể hiện với tất cả tính đa dạng, phong phú của đời sống nội tâm, vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, chịu sự chi phối của hoàn cảnh, vừa có tính độc lập bên trong. Cảm xúc, suy nghĩ, cách xử sự của nhân vật phù hợp với đặc điểm trong tính cách xã hội, với qui luật nội tại được dựa trên các quan hệ xã hội của xứ sở và thời đại họ, theo như định thức của Ăng - ghen: "Chủ nghĩa hiện thực ngoài tính chân thực của những chi tiết, còn 18 đòi hỏi phải tái hiện một cách chân thực những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình". Về mỹ học, phương pháp hiện thực chủ nghĩa chú trọng tính khách quan của sự thể hiện nghệ thuật. Họ sáng tạo nghệ thuật không từ ý niệm, mà từ hiện thực "Tiếp xúc với những hiện tượng và sự kiện trong cuộc sống, nghệ sĩ hiện thực thường phải cố gắng nghiên cứu chúng trong tất cả các mặt, quan sát chúng trong những nét chung và trong những chi tiết, trong những quan hệ lẫn nhau với những hiện tượng và sự kiện khác, thấu hiểu chúng trong sự vận động và phát triển. Đối với họ, bản thân quá trình mô tả, thể hiện các hiện tượng và sự kiện trên trở thành quá trình nhận thức bản chất chúng" .(Viện Hàn Lâm khoa học Nga. Nguyên lý mỹ học Mác - Lênin). Tóm lại, các nhà văn hiện thực phê phán lấy thực tại làm điểm xuất phát, họ nghiên cứu nó một cách chăm chú để tìm ra những nguyên cớ đã quy định hành động, số phận các nhân vật. Do xác định mục tiêu chính là phản ánh cuộc sống, phản ánh thế giới khách quan một cách trung thực, chân xác, mà bản thân cuộc sống lại vốn cực kỳ đa dạng và phong phú. Thế nên các nhà văn hiện thực ở mỗi quốc gia khác nhau với những nền văn hoa và tính cách riêng biệt đã đóng góp vào trào lưu này rất nhiều nét đặc sắc. Ông Howells, một nhà văn hiện thực tiên phong Mĩ đã viết: “Người viết tiểu thuyết phải cố gắng mô tả cuộc sống bằng cái đẹp và sự thực. Địa hạt của nghệ thuật là cuộc đời toàn diện. Một cuốn tiểu thuyết là một sự vật sống động. Nhưng sự thực không phải là một cái gì cố định và theo tiêu chuẩn, vì thực tế vốn có hình thức muôn vẻ !”. Nếu như văn học hiện thực của Đức đã sử dụng các thể loại phổ biến là kịch, thơ và văn xuôi, đề tài thường có tính chất triết lý, chính trị ( Henrich Heine, Friedrich HebbeL…)thì ở các nhà hiện thực Anh, với những yếu tố trữ tình và châm biếm (Charles Dickens, William Thackeray, Charlotte Bronte...) được quan tâm sâu sắc hơn cả, theo như Marx nhận xét: “... các tác phẩm minh xác và hùng biện đã vạch ra cho mọi người nhiều sự thật hơn tất cả những nhà chính trị chuyên nghiệp, những nhà chính luận và đạo đức học gộp lại...”. Còn ở các nhà văn hiện thực Pháp, ta nhận thấy ảnh hưởng của tinh thần khoa học, tính khách quan trong sự quan sát thế giới xung quanh được đưa tới mức tối đa. Bên kia bờ Đại Tây Dương, một nền văn học khác xuất hiện cũng thoát thai từ phong trào hiện thực ở Âu châu. Hình thành và phát triển tuy có chậm hơn nhưng đã có nhiều đóng 19 góp quan trọng cho dòng văn học hiện thực. Đó chính là nền văn chương Hoa Kỳ. Phần sau đây xin được dành để giới thiệu rõ thêm về nền văn học này. 1.1.5. Chủ nghĩa hiện thực mỹ Do chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi và lòng tự hào dân tộc, một số nhà văn học sử Mỹ thường tuyên bố rằng nền văn chương của họ có tính độc lập riêng biệt nhưng trên thực tế, chỉ cần mở một tạp chí văn nghệ nào đó của Mỹ vào khoảng năm 1850, người ta dễ dàng nhận thấy hầu hết các bài viết là của các tác giả Anh nổi tiếng.Và chính các tạp chí Anh định kỳ lưu hành trong nước Mỹ thời này đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc định hướng sáng tác cho các nhà văn hiện thực Mỹ. Điều đáng lưu ý là đa số các nhà văn Hoa Kỳ trong thời kỳ đầu đã không có nền học vấn chính thức như: De Forest, Howells, Eggleston, Mark Twain, và ngay cả Henry James. Tuy nhiên, họ là những người đi nhiều, sống nhiều và học hỏi từ chính vốn sống của mình. Ông De Forest sống sáu năm ở nước ngoài trước khi bắt đầu viết quyển tiểu thuyết đầu tay, với Howell thời gian ấy là năm năm, còn James thì trải qua gần hết cuộc đời ở ngoai quốc. Như vậy, Chủ nghĩa hiện thựcMỹ giai đoạn sơ khai (thế kỷ XVII, XVIII) có sự gắn bó chặt chẽ với khuynh hướng hiện thực ở bên kia bờ Đại Tây Dương. Vì vậy cũng không lạ tại sao chủ nghĩa Siêu nghiệm một thời gây sóng gió ở Anh đã để lại nhiều ảnh hưởng đến các nhà văn hiện thực Mỹ. Họ cảm nhận một cách sâu xa sự bình đẳng của muôn vật và tính đồng nhất của con người (feel in every nerve the equality of things and the unity of men). Họ thấy mọi sự vật trên đời này đều có một ý nghĩa nào đó, muôn sự mà Thượng Đế đã sáng tạo đều đáng tôn quí (nothing that God has made is contemptible ). Sự phát triển của tinh thần dân chủ cũng giúp cho các tác gia chú ý đến thân phận của những con người tầm thường và thấp kém trong xã hội , những con người khác nhau về màu da, nhưng cùng sống trong các khu nhà ổ chuột tồi tàn hay trong những túp lều lạnh lẽo nơi rừng rậm hoang vu. Một yếu tố quan trọng khác nữa cũng đã góp phần hình thành nên dòng văn chương hiện thực Hoa Kỳ là bối cảnh xã hội lịch sử đặc biệt của quốc gia này thời chiến tranh Nam - Bắc. Như chúng ta đã biết, thành quả của cuộc nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865) là việc bãi bỏ chế độ nô lệ, thống nhất đất nước, nhưng đồng thời nó cũng chấm dứt luôn một thời kỳ lạc quan về sự hưng thịnh, phồn vinh của đất nước. Hoa Kỳ sau chiến tranh phải đối mặt với một 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan