Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thành ph...

Tài liệu Kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh.

.PDF
83
108
66

Mô tả:

LÊ VĂN TRƯỜNG VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VĂN TRƯỜNG NGÀNH: LUẬT KINH TẾ KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH …,, năm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ KHÓA XI ĐỢT 1 NĂM 2018 HÀ NỘI, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VĂN TRƯỜNG KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: LUẬT KINH TẾ Mã số: 83 80 107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Luận văn đề tài “Kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành Phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều đã được trích dẫn rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực, đảm bảo tính chính xác và tin cậy, nếu sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Học viên Lê Văn Trường MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ ......................................................................................... 8 1.1. Khái niệm về hoạt động kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự ..................... 8 1.2. Khái niệm và nội dung của pháp luật về điều kiện kinh doanh ............... 13 1.3. Điều kiện kinh doanh và điều kiện kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự ... 25 Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 36 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ TỪ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..................................................... 37 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự tại Việt Nam .......................................................................................................... 37 2.2. Các quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự .................... 38 2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự tại Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................................ 53 Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 59 CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................................ 61 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự 61 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự .................................................................................................................................... 63 3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự ........................................................................................................... 70 Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 71 KẾT LUẬN .................................................................................................... 72 Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 73 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở Việt Nam, quan điểm về kinh tế thị trường đã xuất hiện từ Đại hội VI, nhưng phải đến Đại hội IX (Tháng 4 năm 2011) thì khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới được chính thức sử dụng trong các văn kiện của Đảng. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội của cả nước nói chung, của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, các cơ sở đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, nhất là vũ trường, quán karaoke, dịch vụ massage, dịch vụ cầm đồ, cho thuê lưu trú,… khá phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực về lợi ích kinh tế mang lại, các lĩnh vực này cũng phát sinh và tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp về an ninh trật tự, cụ thể nhu: thuê khách sạn, nhà nghỉ để hoạt động mại dâm, sử dụng trái phép chất ma túy, tổ chức đánh bạc; sử dụng các quán bar, vũ trường, quán karaoke để làm nơi ăn chơi thác loạn; lợi dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ cầm đồ để tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có, tình trạng cho vay nặng lãi, đòi nợ thuê,… diễn ra khá phổ biến, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội. Để giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, cấp bách và lâu dài, đòi hỏi phải có sự tham gia, phối hợp triển khai mạnh mẽ giữa các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Ở nước ta hiện nay, pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh đã được xây dựng và hoàn thiện dần theo thời gian, nó tác động trực tiếp đến quyền tự do kinh doanh của công dân và quyền quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp nói riêng, đối với chủ thể kinh doanh khác nói chung. Điều kiện kinh doanh là những yêu cầu mà nhà nước đã đặt ra để buộc các chủ thể kinh doanh phải thực hiện khi kinh doanh trong những ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Điều kiện kinh doanh được coi là một trong những công cụ quản lý nền kinh tế. Mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh để quản lý nền kinh tế của quốc gia mình. Việc tìm hiểu pháp 1 luật về điều kiện kinh doanh của các quốc gia trên thế giới nhằm rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành. Điều kiện kinh doanh được nhà nước sử dụng để điều tiết, kiểm soát các hoạt động kinh doanh, hướng đến bảo vệ quyền, lợi ích chung của cộng đồng và xã hội. Căn cứ pháp lý của điều kiện kinh doanh đã được hình thành và chính thức ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp năm 1999, đến nay, đã có nhiều thay đổi, góp phần hình thành và phát triển kinh tế thị trường, đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước trong các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Với kết quả khả quan đạt được, pháp luật về điều kiện kinh doanh nói chung, và pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực an ninh trật tự nói riêng, cũng bộc lộ không ít hạn chế trong thực tiễn áp dụng phát luật. Cụ thể là: những quy định pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự còn nằm rải rác tại nhiều văn bản khác nhau, cơ chế kiểm soát việc ban hành, thực thi các điều kiện kinh doanh chưa được thực hiện thường xuyên. Với những hạn chế kể trên đã làm giảm đi phần nào ý nghĩa của quy định về điều kiện kinh doanh trong quan lý nhà nước. Bên cạnh đó, hạn chế quyền tự do kinh doanh của công dân và trong nhiều trường hợp gây khó khăn cho doanh nghiệp trên cả nước nói chung và địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã và đang tạo ra sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt, vấn đề về mở cửa thị trường, nếu không có sự chuẩn bị tốt, các doanh nghiệp Việt sẽ gặp không ít khó khăn, bất lợi trong thời gian sắp tới. Xuất phát từ thực trạng của pháp luật về kinh doanh các ngành nghề có điều kiện về an ninh trật tự hiện nay cũng như vai trò, ý nghĩa của nó, việc nghiên cứu, đánh giá nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự là cần thiết, ý nghĩa. Tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành Phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua nghiên cứu, tác giả được biết, pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu luật học, cũng như những người làm công tác thực tiễn áp dụng pháp luật. Có thể phân loại các công trình nghiên cứu này thành hai nhóm lớn như sau: Nhóm các khóa luận, luận văn: Các công trình nghiên cứu khoa học trong nhóm này gồm có: - Vũ Thị Hiền (2014), Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. - Nguyễn Trọng Hạnh (2016), Pháp luật kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự và thực tiễn thi hành tại Tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. - Chu Thị Huyền Trang (2017), Pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh rượu ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Các công trình nghiên cứu khoa học trong nhóm này gồm có: - Tiến sỹ Trần Huỳnh Thanh Nghị, “Thực trạng pháp luật về giấy phép kinh doanh”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 04/2013. Công trình nghiên cứu này được phát triển trên cơ sở công trình “Cải cách thủ tục thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam trong chặng đường 10 năm hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Luật học – Đại học Luật Hà Nội, số 08/2011 của chính tác giả. Đây là công trình tiếp cận các quy định hiện hành về giấy phép kinh doanh với tư cách là một trong những điều kiện kinh doanh quan trọng áp dụng sau thủ tục đăng kí thành lập doanh nghiệp. - Nguyễn Thị Yến, Tiến sỹ Trần Bảo Ánh, Pháp luật về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội, số 04/2013. Trong phạm vi bài tạp chí, các tác giả nghiên cứu đã một cách 3 tổng quan, tuy không đi sâu vào phân tích từng loại điều kiện kinh doanh, nhưng đã nhấn mạnh một số các điều kiện kinh doanh tiêu biểu nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu về các ngành nghề kinh doanh có điều kiện của mình. Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: Các công trình nghiên cứu khoa học trong nhóm này gồm có: - Tiến sỹ Nguyễn Thị Dung, “Chế độ pháp lý về giấy phép kinh doanh”, chương 8, Giáo Trình Luật Thương Mại tập 1, 2008. Tác giả đã trình bày một cách khoa học những vấn đề lý luận chung về giấy phép kinh doanh với tư cách là một công cụ quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại. Với công trình nghiên cứu này của tác giả chỉ giải quyết một vấn đề nhỏ trong hệ thống điều kiện kinh doanh, đó là giấy phép kinh doanh. Một điểm chung của các nhóm công trình nghiên cứu kể trên là phần lớn chỉ đề cập một cách khái quát về điều kiện kinh doanh nói chung. Một số công trình nghiên cứu khoa học cũng đã có dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành. Có thể nói, hiện nay, gần như chưa có một công trình nghiên cứu khoa học về những vấn đề pháp lý và thực tiễn trong kinh doanh dịch vụ về an ninh trật tự. Trong khi đó, đây là một quy định còn nhiều điểm chưa cụ thể, khiến cho quy định pháp luật này khó áp dụng trong thực tiễn. Xuất phát từ tình hình trên, tác giả mong muốn phân tích gắn với thực tiễn áp dụng để tìm hiểu những điểm chưa phù hợp của quy định pháp luật hiện hành. Từ đó, tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật kinh doanh dịch vụ về an ninh trật tự, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu về những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự. Bên cạnh đó, cũng phân tích thêm về vai trò quan trọng của các điều kiện an ninh, trật tự đối với ngành nghề 4 kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự và chỉ ra những thành tựu đã đạt được cùng những khó khăn trong việc áp dụng, thực hiện để từ đó đề xuất những giải pháp về mặt pháp lý nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của lĩnh vực này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận về điều kiện kinh doanh, hoạt động kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự; làm rõ các quy định của pháp luật về các điều kiện an ninh trật tự áp dụng với các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề có điều kiện. - Thứ hai, phân tích sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực an ninh trật tự; và chỉ rõ những điều kiện kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh trong việc kinh doanh các ngành nghề có điều kiện về an ninh trật tự. Từ đó, đánh giá tình hình áp dụng các quy định pháp luật trong lĩnh vực này của các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề có điều kiện trên địa bàn thành phố và phân tích được những thành tựu, những hạn chế, tồn tại trong việc áp dụng các quy định của pháp luật tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Thứ ba, xây dựng định hướng và đưa ra giải pháp kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tác giả tập trung tìm hiểu và nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự, phân tích thực tiễn áp dụng quy định pháp luật trong cuộc sống. Sau đó, phân tích nguyên nhân dẫn đến những điểm bất hợp lý của pháp luật hiện hành, đưa ra giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động kinh doanh về an ninh trật tự cả nước nói chung và trên địa bàn thành phố Hồ Chí 5 Minh nói riêng trong những năm vừa qua. Vì đây là một lĩnh vực kinh doanh có điều kiện nên bên cạnh những quy định về kinh doanh nói chung, mảng những quy định về các điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực an ninh trật tự sẽ là những nội dung độc đáo của Đề tài. Vì vậy, trong khuôn khổ của luận văn, đề tài có quan tâm và khai thác nhiều đến khía cạnh điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực an ninh trật tự. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được tác giả thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh doanh nói chung và pháp luật doanh nghiệp nói riêng. Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây: (i) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; (ii) Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh. Cụ thể: Phương pháp phân tích: đây là một phương pháp phổ biến trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý. Được sử dụng để giải thích, phân tích, đánh giá nội dung của các quy phạm pháp luật. Vì đề tài này là phân tích pháp luật, đánh giá thực trạng, từ đó đưa ra giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật nên phương pháp này là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong toàn luận văn. Phương pháp so sánh: tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành với các quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự. Phương pháp này được sử dụng tập trung trong chương 1 của đề tài. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Việc thực hiện đề tài luận văn này, tác giả mong muốn hệ thống hoá, kế thừa và phát triển các luận cứ khoa học về cơ sở lý luận của pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Thông qua đề tài, tác giả đã đưa ra những kết quả tích cực đạt được, những mặt còn hạn chế trong quá trình thực hiện và chỉ ra những bất cập trong các quy định hiện hành về pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh. Bên cạnh đó, đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của thực tiễn thi hành lĩnh vực pháp luật này tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự và pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự Chương 2: Thực trạng về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự từ Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ 1.1. Khái niệm về hoạt động kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự 1.1.1. Khái niệm về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện Trước khi tìm hiểu về hoạt động kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự, có thể thấy “kinh doanh” là một thuật ngữ khá phổ biến được sử dụng trong đời sống kinh tế. Khái niệm “kinh doanh” đã được pháp luật Việt Nam đề cập, sử dụng từ năm 1990 trong Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Đến năm 1999, khái niệm “kinh doanh” được quy định cụ thể tại Điều 3 Khoản 2 Luật Doanh nghiệp năm 1999, cụ thể: “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” – căn cứ theo Điều 4 Khoản 16 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Dưới góc độ pháp lý, hoạt động đầu tư có thể có tính chất thương mại hoặc phi thương mại – các dự án đầu tư công, sử dụng nguồn ngân sách nhà nước. Căn cứ theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014, với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh, đã đưa ra định nghĩa tại Điều 3 Khoản 5, cụ thể như sau: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”. Như vậy, đối với việc thành lập doanh nghiệp mới, có thể hiểu một cách đơn giản, đầu tư kinh doanh là giai đoạn phát sinh trước khi thành lập doanh nghiệp, bao trùm lên hoạt động thành lập doanh nghiệp. Thành lập doanh nghiệp chỉ là một trong những cách thức thực hiện hoạt động đầu tư, là bước cụ thể hóa ý định đầu 8 tư. Tuy nhiên, thành lập doanh nghiệp chỉ là một hình thức đầu tư trong các hình thức đầu tư mà Luật Đầu tư năm 2014 quy định. Bản chất của nền kinh tế thị trường là phải tự do kinh doanh. Tuy nhiên, quyền tự do của một người thường luôn bị hạn chế bởi quyền tự do của một hay nhiều người khác, vậy nên, trong một số trường hợp cụ thể, quyền tự do bị giám sát bởi quyền lực nhà nước. Không có hoạt động đầu tư kinh doanh nào là không có điều kiện. Tuy nhiên, mỗi loại hoạt động cần những điều kiện khác nhau và mức độ can thiệp của nhà nước thông qua pháp luật vào hoạt động đó cũng khác nhau. Theo nghĩa rộng, điều kiện kinh doanh có thể hiểu là mọi sự can thiệp của cơ quan hành chính nhà nước vào quyền tự do kinh doanh của người dân, thường được cụ thể hóa bằng hành vi của nhân viên hành chính, có quyền chấp nhận, hạn chế, khước từ việc đăng ký kinh doanh, hoặc tổ chức những hoạt động kinh doanh cụ thể. Theo nghĩa hẹp, điều kiện kinh doanh được hiểu là những tiêu chuẩn phải duy trì trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, được áp dụng cho một ngành hàng hoặc lĩnh vực kinh doanh cụ thể, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát theo cơ chế hậu kiểm. Việc ban hành Luật Đầu tư năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, khái niệm điều kiện kinh doanh đã được thống nhất, đây là căn cứ để các bộ, ngành phải thực hiện soạn thảo các nghị định về điều kiện đầu tư kinh doanh đối với một số ngành, nghề chưa có văn bản quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh, phải sửa đổi các quy định về điều kiện về đầu tư kinh doanh được ban hành không đúng thẩm quyền của Luật Đầu tư. Theo quy định tại Điều 7 Khoản 1 Luật Đầu tư năm 2014, khái niệm về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, được quy định cụ thể: “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. 9 Với khái niệm trên, có thể nói, điều kiện để đầu tư, kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện là những điều kiện mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh một ngành, nghề cụ thể. Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư đã có những quy định tách bạch giữa việc yêu cầu thành lập doanh nghiệp và yêu cầu về điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Như vậy điều kiện kinh doanh có thể hiểu là điều kiện mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng chỉ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc một số yêu cầu khác. Đối với những ngành, nghề mà pháp luật về kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự và pháp luật có liên quan quy định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được thành lập và hoạt động khi có đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Căn cứ quy định tại Điều 2 Khoản 7 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư năm 2014 thì “Điều kiện đầu tư kinh doanh là điều kiện mà cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo quy định của luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế về đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện”. Theo quy định tại Điều 9 Khoản 2 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP thì các điều kiện đầu tư kinh doanh được áp dụng theo các hình thức sau: - Giấy phép; - Giấy chứng nhận đủ điều kiện; - Chứng chỉ hành nghề; - Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; - Văn bản xác nhận; 10 - Các hình thức văn bản khác theo quy định của pháp luật ngoài các hình thức điều kiện trên; - Các điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinh tế phải đáp ứng để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh mà không cần phải có xác nhận, chấp thuận dưới các hình thức văn bản. Như vậy, Luật Doanh nghiệp tiếp cận điều kiện đầu tư, kinh doanh, dưới góc độ là những yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp khi kinh doanh ngành, nghề trong mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. 1.1.2. Khái niệm về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự Hiện nay, các quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, các văn bản, Nghị định, Thông tư… chưa có khái niệm cụ thể về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự. Kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự là thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe cộng đồng. Theo đó các danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định cụ thể tại Phụ lục 4 của Luật Đầu tư 2014. Điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề được quy định tại các luật, pháp lệnh hay nghị định. Được quy định trong điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Theo đó bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác không được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh. Điều kiện đầu tư kinh doanh phải phù hợp với mục tiêu của quy định và phải công khai, minh bạch, khách quan. Điều kiện kinh doanh chính là các yêu cầu từ phía cơ quan quyền lực nhà nước buộc các doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện đều được thể hiện cụ thể 11 trên giấy phép kinh doanh, giấy chức nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác. Một số định nghĩa về dịch vụ: Adam Smith định nghĩa như sau: “Dịch vụ là những nghề hoang phí nhất trong tất cả các nghề như cha đạo, luật sư, nhạc công, ca sĩ Opera, vũ công… Công việc của tất cả bọn họ tàn lụi đúng lúc nó được sản xuất ra”. Từ định nghĩa trên, có thể nhận thấy rằng Adam Smith có lẽ muốn nhấn mạnh đến khía cạnh “không tồn trữ được” của sản phẩm dịch vụ, tức là được sản xuất và tiêu thu đồng thời.1 Ngày nay, vai trò quan trọng của dịch vụ trong nền kinh tế ngày càng được nhận thức rõ ràng hơn. C.Mác cho rằng: “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông thông suốt, trôi chảy, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao đó của con người thì dịch vụ ngày càng phát triển”.2 Từ định nghĩa này, C.Mác chỉ ra được nguồn gốc và sự phát triển của dịch vụ, kinh tế hàng hóa càng phát triển thì dịch vụ càng phát triển. Căn cứ theo quy định tại Điều 4 Khoản 1 Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, thuật ngữ “an ninh trật tự” được quy định như sau: “An ninh, trật tự là cách viết gọn của cụm từ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Qua nghiên cứu các tài liệu khác nhau, danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự theo quy định của pháp luật, có thể khái quát khái niệm ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự như sau: Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự là những ngành, nghề đòi hỏi chủ thể kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện về an ninh, trật tự trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh. Đây là những ngành, nghề khá phức tạp, vừa chịu sự quản lý về 1 2 Robert B. Ekelund, JR. Robert F. Hébert, 2004, Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Thống kê, tr. 118 C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, 1993, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.23, tr. 877 12 hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, vừa chịu sự quản lý của lực lượng công an về an ninh, trật tự nhằm đảm bảo yêu cầu hoạt động kinh doanh của các cơ sở, vừa chủ động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Theo quy định trong Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định về điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì: Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự là những ngành, nghề quy định tại Điều 3 Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ, trong quá trình hoạt động kinh doanh có yếu tố phức tạp liên quan đến an ninh, trật tự dễ bị lợi dụng để hoạt động phạm tội và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. 1.2. Khái niệm và nội dung của pháp luật về điều kiện kinh doanh 1.2.1. Khái niệm pháp luật về điều kiện kinh doanh Thực hiện công cuộc đổi mới, trên phương tiện kinh tế của Việt Nam 30 năm trước đây (từ Đại hội VI, năm 1986) về bản chất đã từng bước dỡ bỏ các rào cản kinh doanh. Từ đó, mọi quyền sản xuất kinh doanh đều tập trung vào nhà nước – dưới các hình thức quốc doanh, hợp tác xã,…, được thay thế bằng việc tư nhân được quyền tự tổ chức sản xuất, kinh doanh. Người dân, từ chỗ không có quyền làm ăn kinh doanh, từng bước thay đổi, đã được làm những gì nhà nước cho phép, tiến tới “được tự do kinh doanh trong những ngành nghề không bị cấm”. Từ thời điểm này, pháp luật về đầu tư, kinh doanh mới được xây dựng và hoàn thiện qua từng giai đoạn. Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 và Luật Công ty năm 1990 đều đề cập đến những điều kiện đầu tư, kinh doanh cơ bản. Các văn bản quy phạm pháp luật này chủ yếu tập trung quy định về điều kiện để thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty. Theo đó, nhà đầu tư phải đáp ứng được yêu cầu về vốn pháp định; yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ đối với người quản lý hoặc người được thuê quản lý, 13 điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty; chủ thể kinh doanh phải xin giấy phép thành lập ở Ủy ban Nhân dân cấp có thẩm quyền; đối với một số ngành, nghề, chủ thể kinh doanh phải được sự cho phép của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, cụ thể như: sản xuất và lưu thông thuốc nổ, thuốc đọc, hóa chất độc; khai thác các loại khoáng sản quý; sản xuất và cung ứng điện, nước có quy mô lớn; sản xuất các phương tiện phát sóng truyền tin; dịch vụ bưu chính viễn thông, truyền thanh, truyền hình, xuất bản; vận tải viễn dương và vận tải hàng không; chuyên kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; Du lịch quốc tế. Nhìn chung, trong thời kì này, các quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh vẫn còn sơ sài và chỉ hướng đến việc thành lập doanh nghiệp, chưa chú trọng đến việc thanh tra, kiểm soát các hoạt động của nhà đầu tư sau đăng ký đầu tư, kinh doanh. Luật Doanh nghiệp năm 1999 được ban hành ngày 12/06/1999 đã tạo ra bước ngoặt lớn trong việc cải cách khung pháp luật về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam, trong đó bao gồm các quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh. Tại Điều 17 Khoản 2 Luật Doanh nghiệp năm 1999 quy định: “Doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được quyền kinh doanh các ngành, nghề đó kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định”, Nghị định số 03/2000/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã khẳng định rõ điều kiện đầu tư, kinh doanh được thể hiện dưới 02 hình thức sau: giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp; và các điều kiện đầu tư, kinh doanh không cần giấy phép: các quy định về tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; quy định về phòng cháy, chữa cháy, trật tự xã hội, an toàn giao thông và quy định về các yêu cầu khác đối với hoạt động kinh doanh. Nhìn chung, xu hướng của pháp luật là đơn giản hóa điều kiện thành lập doanh nghiệp, tăng cường việc kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp sau khi thực hiện thủ tục đăng kí kinh doanh. Tuy vậy, trên thực tế cho thấy, 14 quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong giai đoạn này vẫn tồn tại một số bất cập nhất định, chưa đưa được ra cách hiểu thống nhất về điều kiện đầu tư, kinh doanh, chỉ đưa ra quy định chung do vậy tạo đà cho hàng loạt các vấn nạn sách nhiễu, gây phiền hà từ phía cơ quan công quyền đối với các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm 1999, vẫn tiếp tục duy trì những nội dung cơ bản về điều kiện đầu tư, kinh doanh. Bên cạnh đó, điều kiện đầu tư, kinh doanh không chỉ bó hẹp trong phạm vi “cho phép” và “không cần giấy phép” mà đã được mở rộng ra thành các “chấp thuận” và “không cần sự chấp thuận” của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tập hợp, thống kê từ dữ liệu pháp luật Việt Nam, tính đến hết tháng 7 năm 2008 đã có 43 Luật và Pháp lệnh, 108 Nghị định, hơn 350 Thông tư và Quyết định của các bộ có nội dung quy định về kinh doanh có điều kiện. Trong đó, bao gồm khoảng 400 hoạt động kinh doanh có điều kiện, với hơn 300 giấy phép các loại3. Để ngăn chặn tình trạng ban hành giấy phép tràn lan bất hợp lý, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã quy định cụ thể tại Điều 7 Khoản 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 như sau: “Chính phủ định kì rà soát, đánh giá lại toàn bộ hoặc một phần các điều kiện kinh doanh; bãi bỏ hoặc kiến nghị bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không còn phù hợp; sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi các điều kiện bất hợp lý; ban hành hoặc kiến nghị ban hành điều kiện kinh doanh mới theo yêu cầu quản lý nhà nước”. Với quy định này sẽ tạo được khung pháp lý, giao nhiệm vụ cho Chính phủ phải thường xuyên giám sát và thay đổi kịp thời theo yêu cầu quản lý nhà nước trong lộ trình hội nhập, phát triển. Tuy nhiên, 10 năm kể từ khi Luật Doanh nghiệp năm 2005 đến trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014, là một khoảng thời gian quá dài, chính vì lẽ đó, điều kiện kinh doanh do các bộ, ngành và chính quyền địa phương ban hành trái luật tăng vọt với con số lên đến khoảng 4.000 điều kiện kinh 3 CIEM-GTZ (2008): Rà soát hệ thống quy định về giấy phép kinh doanh: thực trạng và kiến nghị giải pháp 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan