Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Lao động nữ theo pháp luật lao động việt nam từ thực tiễn tỉnh thái ng...

Tài liệu Lao động nữ theo pháp luật lao động việt nam từ thực tiễn tỉnh thái nguyên

.PDF
89
99
75

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRIỆU BÙI BÍCH PHƯƠNG LAO ĐỘNG NỮ THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRIỆU BÙI BÍCH PHƯƠNG LAO ĐỘNG NỮ THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM THỊ THÚY NGA HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn với đề tài “Lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin, số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Hà Nội, ngày 18 tháng 3 năm 2020 Tác giả luận văn Triệu Bùi Bích Phương MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NỮ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ LAO ĐỘNG NỮ ........................................................................................................ 6 1.1. Khái quát chung về lao động nữ .......................................................... 6 1.2. Quy định của pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về lao động nữ ...............................................................................................19 Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG NỮ TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN ............... 32 2.1. Khái quát thực trạng thực hiện pháp luật lao động về lao động nữ ở Việt Nam hiện nay ................................................................................. 32 2.2 Thực tiễn thực hiện pháp luật lao động Việt Nam về lao động nữ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên .................................................................. 34 Chương 3: YÊU CẦU, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ LAO ĐỘNG NỮ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC THỰC HIỆN................................................................................................... 64 3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật lao động về lao động nữ ở Việt Nam hiện nay ............................................................................ 64 3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam về lao động nữ. .................................................................................................... 69 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về lao động nữ từ kinh nghiệm tại tỉnh Thái Nguyên .................................... 75 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Cơ cấu nữ toàn tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2014-2018................... 39 Bảng 2.2. Cơ cấu lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính và theo khu vực, giai đoạn 2014-2018.................................................................... 40 Bảng 2.3. Quy mô lao động nữ đang làm việc trong các doanh nghiệp, giai đoạn 2014-2018.................................................................................................. 41 Bảng 2.4. Quy mô lao động nữ làm việc trong các doanh nghiệp phân theo ngành kinh tế, giai đoạn 2014-2018................................................................... 42 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BHXH: Bảo hiểm xã hội BHYT: Bảo hiểm y tế BLLĐ: Bộ luật Lao động HĐLĐ: Hợp đồng lao động KCN: Khu Công nghiệp NLĐ: Người lao động NSDLĐ: Người sử dụng lao động QRTD Quấy rối tình dục ILO: Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization ) MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ xưa đến nay, phụ nữ luôn là một bộ phận quan trọng trong đời sống xã hội. Họ là người sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần, có những đóng góp tích cực vào các hoạt động xã hội. Phụ nữ tham gia vào thị trường lao động đã góp phần không nhỏ trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước. Do những đặc điểm khác biệt về sức khỏe, giới tính, thể lực và xuất phát từ những đặc điểm riêng về giới nên quyền lợi của lao động nữ đã được hỗ trợ, bảo vệ bằng các quy định đặc thù của pháp luật lao động. Xuất phát từ vai trò to lớn của lao động nữ, pháp luật lao động nước ta đã có nhiều quy định quan trọng về loại lao động này. Có thể thấy, ngay từ khi Bộ luật Lao động năm 1994 ra đời - Bộ luật Lao động hoàn chỉnh đầu tiên của Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Bộ luật đã dành hẳn một chương (chương X) gồm 10 điều quy định riêng về lao động nữ như một loại lao động đặc thù. Trải qua 25 năm, Bộ luật lao động Việt Nam qua các thời kì đã không ngừng phát triển và tiến tới hoàn thiện các quy định nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động. Việc BLLĐ năm 2019 vẫn dành hẳn một chương (chương X) gồm 8 điều để quy định riêng về lao động nữ tiếp tục cho thấy Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến đối tượng lao động đặc thù này. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách pháp luật đối với lao động nữ hiện nay vẫn còn có những khó khăn, bất cập nhất định bởi việc giải quyết vấn đề này không chỉ đơn giản về mặt pháp lý mà còn phụ thuộc rất nhiều vào ý thức xã hội, ý thức của người sử dụng lao động và đặc biệt hơn là ý thức của mỗi lao động nữ. Thực tế hiện nay, nhiều quy định về bảo vệ quyền của lao động nữ còn thiếu tính linh hoạt, chưa thật sự hợp lý và phù hợp với thực tiễn, nhiều quy định chưa được thực hiện triệt để gây ảnh hưởng tới quyền lợi của lao động nữ và doanh nghiệp sử dụng lao động. Do đó, việc điều chỉnh quy định của pháp luật như thế nào để đảm bảo thực thi các chế độ chính sách đối với lao động nữ nhưng không làm tăng chi phí của doanh nghiệp do phải thực hiện các chế độ chính sách này nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh, bền vững của thị trường lao động và đảm bảo sự hài hòa, ổn định trong quan hệ lao động giữa các bên là vấn đề cần được quan tâm nhiều hơn nữa từ 1 phía những nhà làm luật, nhà nước, các doanh nghiệp sử dụng người lao động và chính bản thân lao động nữ. Tại tỉnh Thái Nguyên - địa phương có nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp với số lượng lớn lao động nữ đang làm việc, việc thực hiện các quy định pháp luật lao động về lao động nữ trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên thực tế vẫn còn nhiền hạn chế, bất cập như: khả năng cạnh tranh của lao động nữ thấp hơn nam giới trong ứng tuyển những công việc có trình độ chuyên môn cao; tỷ lệ lao động nữ tại các khu công nghiệp mất việc làm sau 35 tuổi ngày càng tăng lên; vấn đề nhà ở, nhà trẻ tại các khu công nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu của NLĐ; việc nợ đọng BHXH đối với lao động nữ và tình trạng quấy rối tình dục tại nơi làm việc vẫn xảy ra trong một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do hệ thống quy định pháp luật lao động hiện hành của nước ta còn nhiều sơ hở, chưa phù hợp với thực tiễn, lao động nữ thiếu hiểu biết pháp luật, một số doanh nghiệp cố tình làm trái quy định pháp luật, viêc quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động còn lỏng lẻo, chưa nghiêm minh. Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình. Bằng việc phân tích các quy định của pháp luật lao động đối với lao động nữ và thực trạng thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên, Luận văn đưa ra yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam về lao động nữ và đề xuất các giải pháp để sử dụng lao động nữ mang lại hiệu quả cao trên thực tế góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên nói riêng và của nước Việt Nam nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về lao động nữ với các cấp độ khác nhau. Một số công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố, đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành như: “Bảo vệ quyền lợi của lao động nữ theo Công ước Quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và pháp luật lao động Việt Nam”, Tạp chí Luật học số 3/2006 của TS. Đỗ Ngân Bình; “Bộ luật lao động năm 2012 với việc bảo vệ quyền lợi cho lao động 2 nữ”, Tạp chí Luật học số 7/2014 của ThS. Phùng Thị Cẩm Châu; “Bảo vệ quyền của lao động nữ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ theo pháp luật lao động Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ số 172/2017 của tác giả Tống Thị Phương Thảo; “Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2016 của tác giả Đặng Thị Thơm; “Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, 2018 của tác giả Kiều Thị Vân… Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật lao động về lao động nữ, về phòng chống vi phạm pháp luật đối với lao động nữ. Các tài liệu nghiên cứu này đã góp phần vào việc bảo đảm quyền bình đẳng cho lao động nữ ở nhiều mặt khác nhau, cũng đã đưa ra những định hướng nhất định và biện pháp hoàn thiện hơn pháp luật của Việt Nam để bảo vệ người lao động nữ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn còn có nhiều quy định về lao động nữ cần được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá và hoàn thiện. Qua khảo sát của tác giả trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên - một trung tâm kinh tế - xã hội của khu vực đông bắc Việt Nam, hiện chưa có một đề tài nghiên cứu riêng nào đánh giá một cách có hệ thống về vấn đề lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam nhằm đề ra các giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” để đi sâu nghiên cứu tình hình thực tế của địa phương. Đề tài này là một công trình nghiên cứu khoa học độc lập và không trùng lặp với bất kỳ đề tài nào khác đã được công bố trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu khái quát chung pháp luật về lao động nữ, đánh giá thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam về lao động nữ và đánh giá thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên, từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật lao động về lao động nữ và nâng cao hiệu quả thực hiện trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ: 3 - Làm rõ khái niệm, đặc điểm đặc thù của lao động nữ; khái niệm pháp luật về lao động nữ và điều chỉnh pháp luật lao động về lao động nữ (nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật lao động về lao động nữ, nội dung pháp luật lao động về lao động nữ). - Phân tích chỉ ra những thành tựu và những hạn chế trong thực trạng các quy định pháp luật lao động về lao động nữ ở Việt Nam hiện nay. - Đánh giá những yếu tố có ảnh hưởng thực tiễn thực hiện pháp luật lao động Việt Nam về lao động nữ tại tỉnh Thái Nguyên, chỉ ra những kết quả đạt được và những điểm còn hạn chế, bất cập cần khắc phục. - Đề xuất các yêu cầu, kiến nghị đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật lao động đối với lao động nữ từ kinh nghiệm của tỉnh Thái Nguyên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về lao động nữ, chủ yếu là các quy định trong Bộ luật Lao động năm 2012 (có liên hệ, so sánh với quy định của Bộ luật Lao động năm 2019), các văn bản hướng dẫn thi hành và thực tiễn thực hiện các quy định này tại tỉnh Thái Nguyên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Do điều kiện nghiên cứu, luận văn chỉ nghiên cứu về lao động nữ có quan hệ lao động (khu vực chính thức), không nghiên cứu về lao động nữ thuộc nhóm lao động phi chính thức. Luận văn không nghiên cứu về vấn đề thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về lao động nữ. Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam đối với lao động nữ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên từ năm 2014 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta đối với lao động nữ. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: 4 Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp được sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các khái niệm, các quy định của pháp luật lao động Việt Nam về lao động nữ. Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh được người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp lý hay không, đồng thời nhìn nhận trong mối tương quan so sánh giữa BLLĐ với các quy định pháp luật khác có liên quan hoặc pháp luật của các nước khác. Phương pháp thu thập tài liệu, số liệu, phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng để minh chứng cho những ý kiến nhận xét, đánh giá tình hình thực thi pháp luật lao động về lao động nữ tại tỉnh Thái Nguyên. Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch được sử dụng để triển khai có hiệu quả các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về lao động nữ. Trên cơ sở đưa ra những kiến nghị mang tính khái quát, súc tích, người viết dùng phương pháp diễn dịch để làm rõ nội dụng của kiến nghị đó. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm rõ hơn những nội dung, quy định của pháp luật hiện hành về lao động nữ. Về mặt thực tiễn, luận văn đưa ra những hạn chế, bất cập trong thực thi pháp luật lao động đối với lao động nữ tại tỉnh Thái Nguyên hiện nay, qua đó có những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và phát triển kinh tế - xã hội. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu về lĩnh vực lao động nữ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Khái quát chung về pháp luật đối với lao động nữ và quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về lao động nữ. Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật lao động Việt Nam về lao động nữ tại tỉnh Thái Nguyên. Chương 3: Yêu cầu, kiến nghị hoàn thiện pháp luật lao động về lao động nữ và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện. 5 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NỮ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ LAO ĐỘNG NỮ 1.1. Khái quát chung về lao động nữ 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của lao động nữ 1.1.1.1. Khái niệm về lao động nữ Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, lao động nữ đang là một trong các đối tượng chịu tác động lớn nhất và chưa được đánh giá đầy đủ. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm xứng đáng tới phụ nữ nói chung, lao động nữ nói riêng, tuy nhiên trong các văn bản pháp luật từ trước cũng như sau khi BLLĐ năm 2019 ra đời cũng chưa đưa ra định nghĩa chính thức nào về lao động nữ. Việc đưa ra khái niệm về lao động nữ là vấn đề quan trọng, không chỉ để phân biệt lao động nữ với lao động nam mà còn giúp chúng ta xác định được những điểm đặc trưng của lao động nữ, trên cơ sở đó xây dựng các chính sách phù hợp với đối tượng lao động này để đảm bảo vừa thúc đẩy bình đẳng giới, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Để đưa ra khái niệm cụ thể về lao động nữ, chúng ta cần xem xét dưới những góc độ sau: Thứ nhất, xét về mặt sinh học, lao động nữ là người có “giới tính nữ”. Nói cách khác, lao động nữ là NLĐ mà xét về mặt giới tính được xác định là phụ nữ. Lao động nữ mang những đặc tính về sức khỏe, tâm, sinh lý riêng mà chỉ bản thân người phụ nữ mới có. Dân gian ta có câu “Phụ nữ chân yếu tay mềm” để nhấn mạnh rằng theo quy luật tự nhiên, phụ nữ có sức khỏe yếu hơn nam giới; phụ nữ gặp khó khăn hơn nam giới khi mang, vác các đồ vật nặng. Bên cạnh đó, đặc điểm riêng biệt nhất để phân biệt giữa nam và nữ, đó là chỉ có người phụ nữ mới có thiên chức làm mẹ, có khả năng mang thai và sinh con. Như vậy, sự xác định giới tính này là đặc điểm riêng biệt nhất để phân biệt lao động nữ với lao động nam. 6 Thứ hai, xét về mặt xã hội, lao động nữ là một bộ phận của lực lượng lao động xã hội, họ tham gia tích cực vào nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Lao động nữ có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội bởi họ không chỉ là lực lượng lao động sản xuất ra của cải vật chất mà còn là những người tham gia xây dựng, cải tạo xã hội. Do đó, phải đặt lao động nữ trong mối tương quan với xã hội để xem xét, nhìn nhận, đánh giá một cách tổng quát, toàn diện, từ đó mới có thể đưa ra khái niệm cụ thể và đầy đủ về lao động nữ. Thứ ba, xét về mặt pháp lý, lao động nữ trước tiên là “người lao động” mang giới nữ. Theo đó, lao động nữ là một chủ thể pháp lý, là một bên của quan hệ pháp luật lao động, họ có những quyền và nghĩa vụ pháp lý do pháp luật đặt ra. Về mặt bản chất, lao động nữ khi tham gia vào quan hệ pháp luật lao động với tư cách NLĐ thì họ phải có năng lực chủ thể nghĩa là phải có năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động. Năng lực pháp luật lao động là khả năng pháp luật quy định cá nhân có quyền được làm việc, được trả công và thực hiện những nghĩa vụ. Năng lực hành vi lao động của cá nhân là khả năng bằng chính hành vi của bản thân họ trực tiếp tham gia vào một quan hệ pháp luật lao động để gánh vác những nghĩa vụ và thực hiện những quyền lợi của người lao động. NLĐ khi tham gia quan hệ lao động phải đảm bảo số tuổi tối thiểu theo quy định. Pháp luật lao động hiện hành quy định NLĐ phải là người đủ 15 tuổi. Trong một số trường hợp đặc biệt, NLĐ có thể là người dưới 15 tuổi có khả năng lao động nhưng phải đảm bảo các điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Từ những phân tích về ba khía cạnh trên (mặt sinh học, mặt xã hội và mặt pháp lý), có thể đưa ra khái niệm về lao động nữ như sau: “Lao động nữ là người có giới tính nữ, có đủ năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động”. 1.1.1.2. Đặc điểm đặc thù của lao động nữ Trước hết, lao động nữ mang đầy đủ những những đặc điểm chung của NLĐ, đó là những người làm công và ăn lương. Lao động nữ nói riêng và NLĐ nói chung không có quyền quyết định các vấn đề liên quan đến tổ chức lao động sản xuất, họ phải phụ thuộc vào NSDLĐ. Sự lệ thuộc này không phải là sự lệ thuộc về mặt kinh 7 tế hay về thân thể mà là sự ràng buộc bởi các quy định của pháp luật về lao động là sự lệ thuộc về mặt pháp lý vào NSDLĐ khi NLĐ cam kết với NLSDLĐ về việc thực hiện những nghĩa vụ dưới sự quản lý, điều hành, giám sát của NSDLĐ để được hưởng tiền lương theo thỏa thuận của hai bên trong khuôn khổ pháp luật. Ngoài ra, lao động nữ mang những đặc điểm riêng thể hiện tính đặc thù giúp phân biệt lao động nữ với lao động nam, cụ thể như sau: Về mặt sinh lý, sự khác biệt cơ bản giữa lao động nữ và lao động nam đó là lao động nữ ngoài việc tham gia lao động thì họ còn phải thực hiện thiên chức làm mẹ, sinh con. Đây là chức năng thiên bẩm mà chỉ người phụ nữ mới có, nam giới dù muốn cũng không thể làm thay phụ nữ được. Thiên chức làm mẹ của người phụ nữ có ý nghĩa xã hội vô cùng to lớn, đó là sự tái sản xuất con người. Mặc dù nam giới cũng tham gia nuôi dạy con cái và chăm sóc gia đình, tuy nhiên trong thực tế, phần lớn phụ nữ vẫn là người đảm nhận trách nhiệm này. Người mẹ - người lao động nữ vừa là người xây dựng xã hội bằng lao động sản xuất, vừa là người sản sinh, xây dựng nên những con người mới. Chính chức năng này đã khẳng định lao động nữ là lao động đặc thù, cần được Nhà nước đặc biệt quan tâm bảo vệ. Do vậy, khi xem xét các điều kiện, yếu tố ảnh hưởng đến lao động nữ chúng ta không thể bỏ qua đặc điểm này. Về mặt thể lực và sức khỏe, người phụ nữ thường có thể lực yếu hơn nam giới. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng, phụ nữ có chiều cao thấp hơn, trọng lượng cơ thể ít hơn, hệ cơ bắp phát triển yếu hơn so với nam giới. Bên cạnh đó, sức khỏe của phụ nữ cũng bị giảm sút rất nhiều do phải trải qua những giai đoạn sinh lý đặc biệt như thai nghén, sinh con, cho con bú… Kết quả nghiên cứu của Học viện Phụ nữ Việt Nam (2012) cho thấy, mặc dù mức sống đã được nâng cao, thể lực của lao động nữ đã được cả thiện nhưng về cơ bản các chỉ số nhân trắc học của phụ nữ Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế. Vấn đề suy dinh dưỡng thường diễn ra rất phổ biến ở phụ nữ độ tuổi 40 và có đến 23% nhân lực nữ cảm thấy công việc hiện tại nặng nhọc so với sức khỏe của họ [18, tr.78]. Do vậy, trong lao động sản xuất, thời gian nghỉ việc của phụ nữ thường nhiều hơn nam giới. Sự diễn biến trong đời sống sinh lý của phụ nữ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến 8 hiệu suất làm việc của họ. Trong những ngày hành kinh, thời kỳ thai nghén, nuôi con nhỏ, do những yếu tố chuyển hóa sinh học trong cơ thể, hiệu suất lao động của phụ nữ chỉ đạt khoảng 1/2 hoặc 2/3 so với lao động thường ngày [30, tr.10]. Về mặt năng lực, lao động nữ thường có trực giác và trí nhớ tốt, có sự khéo léo, chính xác, tỉ mỉ, bền bỉ, dẻo dai trong công việc. Điều này cho thấy những ngành nghề về may mặc, da giầy, thủy sản, lắp ráp điện tử, thủ công mỹ nghệ, chế biến thực phẩm… những nghề đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ thường do lao động nữ đảm nhận. Ngoài ra, phụ nữ với bản tính mềm mỏng, chịu đựng, tế nhị, linh hoạt, nhạy bén cũng có nhiều ưu thế hơn nam giới trong những công việc ngoại giao, lãnh đạo quản lý. Thực tế cho thấy, nhiều phụ nữ đã khẳng định được vai trò, vị thế của bản thân trong công tác ngoại giao, lãnh đạo quản lý khi phát huy được những khả năng thiên bẩm của nữ giới. Về mặt tâm lý, phụ nữ tham gia lao động trước tiên là vì nhu cầu kinh tế, sau là để khẳng định vai trò, vị thế của bản thân trong xã hội. Lao động là phương tiện để phụ nữ có thể tự nuôi sống bản thân mình mà không phải phụ thuộc vào nam giới như trong thời đại phong kiến. Đồng thời, thông qua lao động, phụ nữ cũng dần bộc lộ những phẩm chất, năng lực riêng biệt của họ, cùng với ý chí phấn đấu vươn lên để tự khẳng định bản thân, người lao động nữ ngày nay không chỉ làm chủ cuộc sống của mình mà họ đang dần làm chủ xã hội, họ tham gia vào tất cả các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Khác với chế độ cũ, người phụ nữ ngày nay coi lao động là nghĩa vụ của bản thân đối với xã hội, họ tôn trọng kỷ luật lao động, quý trọng sản phẩm lao động và yêu mến người lao động. Lao động nữ ngày càng năng động sáng tạo trong công tác, được tôn vinh trong xã hội nhưng vẫn không hề quên đi vai trò, vị trí và thiên chức của mình trong cuộc sống gia đình. Họ là biểu tượng cho thế hệ phụ nữ trong thời đại mới - thời đại của khoa học công nghệ. Ngược lại với một số bộ phận lao động nữ đã tiếp thu những luồng tư tưởng mới, phù hợp với sự phát triển hiện đại của kinh tế - xã hội thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ lao động nữ chịu ảnh hưởng của quan niệm truyền thống với tư tưởng: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, là phụ nữ thì không cần giỏi, chỉ cần quan 9 tâm chăm lo, quán xuyến gia đình, phục vụ chồng con cho tốt, để chồng yên tâm phấn đấu ngoài xã hội… Tâm lý ấy làm nảy sinh tư tưởng “tự ti giới tính” trong một bộ phận phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn, tạo cơ hội cho nam giới ỷ lại vào phụ nữ trong công việc gia đình. Những tư tưởng này khiến người phụ nữ bị thiệt thòi và tụt hậu so với nam giới, đồng thời tạo nên tính cách cam chịu, thụ động, rụt rè, nhút nhát, không mạnh dạn trong công việc của lao động nữ. Đây cũng là những yếu tố cản trở tác phong làm việc công nghiệp cần có trong thời đại đại ngày nay. Có thể khẳng định rằng, thông qua những đặc điểm của lao động nữ như đã phân tích ở trên, ta có thể thấy lao động nữ là lao động rất đặc thù. Các yếu tố về tâm, sinh lý, sức khỏe, độ tuổi, phong tục truyền thống… đều có những ảnh hưởng nhất định đến kết quả lao động sản xuất của lao động nữ. Do vậy, khi xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ lao động có chủ thể là lao động nữ tham gia thì cần có quy định mang tính đặc thù để phù hợp với họ. 1.1.1.3. Vai trò của lao động nữ Phụ nữ tuy chiếm hơn một nửa dân số trưởng thành trên thế giới nhưng lại không được đánh giá cao trong lực lượng lao động. Tỷ lệ nữ giới lao động thường thấp hơn so với nam giới ở hầu hết các quốc gia. Theo thống kê trên toàn cầu, trong năm 2018, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ giới là 48,5%, giảm từ 51,4% vào năm 1990. Có nhiều lý do khiến phụ nữ có thể bị từ chối hay gặp phải rào cản khi theo đuổi các cơ hội tìm việc làm chính thức như chăm sóc trẻ và các thành viên trong gia đình, hay tham gia vào hoạt động sản xuất nằm ngoài thị trường lao động chính thức. Bên cạnh đó, luật pháp, các chuẩn mực văn hóa và sự phân biệt đối xử cũng làm giới hạn cơ hội có việc làm của phụ nữ. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng, sự bình đẳng giới tăng lên là một tiềm năng tích cực cho sự gia tăng của phụ nữ trong thị trường lao động chính thức [16]. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã có những nhìn nhận rất tiến bộ về vai trò của phụ nữ. Khẳng định: “Phụ nữ vừa là người lao động, vừa là người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Khả năng và điều kiện lao động, trình độ văn hóa, vị trí xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ ảnh hưởng sâu xa đến sự phát triển của thế hệ tương lai” [4], Nhà nước ta luôn 10 quan tâm thực hiện các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ để lao động nữ có nhiều cơ hội tham gia đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Trong thực tế, phụ nữ có mặt ở hầu hết các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp. Chiếm khoảng 48,5%, là một lực lượng lao động xã hội đông đảo, phụ nữ Việt Nam đã tỏ rõ vai trò, khả năng, sức sáng tạo của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước và làm chủ các doanh nghiệp. Theo Báo cáo kết quả 10 năm (2007-2017) thực hiện Luật Bình đẳng giới thì tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội nhiệm kỳ 2016-2021 đạt 27,1%, cao hơn mức trung bình 23,4% toàn cầu và 18,6% của Châu Á; tính đến năm 2017 có 13/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và 16/63 tỉnh, thành phố có nữ lãnh đạo chủ chốt; tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ tăng từ 4% năm 2009 tới năm 2017 đạt 27,8% (trong đó tại thành thị là 33,2% và tại nông thôn là 20,1%), cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ 19/54 trong bảng chỉ số xếp hạng Chỉ số nữ doanh nhân và xếp thứ 7/54 trong số các nước có nhiều chủ doanh nghiệp là nữ [8]. Có thể khẳng định rằng, lao động nữ tham gia trong mọi ngành, mọi lĩnh vực kinh tế và dù ở bất cứ đâu, trong lĩnh vực nào, phụ nữ cũng giữ vai trò rất quan trọng góp phần không nhỏ trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong ngành nông nghiệp, lao động nữ chiếm khoảng 53,3%. Đây là ngành tập trung nhiều lao động nữ nhất vì công việc chủ yếu mang tính chất thủ công, lao động chân tay, không gò bó về mặt thời gian và không đòi hỏi trình độ đào tạo cao. Trong ngành công nghiệp, tỷ lệ lao động nữ chiếm khoảng 45%. Trong đó, lao động nữ chiếm ưu thế tuyệt đối (khoảng 70%) trong các ngành công nghiệp nhẹ như công nghiệp chế biến, dệt may, da giầy...; các ngành công nghiệp nặng như sản xuất kim loại, công nghiệp khai thác đá… lao động nữ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. Mặc dù là một nước có tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động cao trên thế giới, tuy nhiên tiềm năng của lực lượng lao động này vẫn chưa được phát huy tối đa do vẫn còn sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới trong cơ hội việc làm, quyền lựa chọn công việc, các gánh nặng không cân xứng trong trách nhiệm chăm sóc gia đình và những nguyên nhân khác. Với công việc có cùng trình độ, thu nhập trung bình của 11 lao động nữ tại Việt Nam luôn thấp hơn nam giới 10,7%, sự chênh lệch này càng có xu hướng nới rộng ở các nhóm lao động có trình độ cao. Ngoài ra, khác biệt về tuổi nghỉ hưu cũng dẫn đến các hạn chế về tiêu chuẩn, độ tuổi đề bạt, bổ nhiệm, tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội đối với lao động nam và nữ. Tỷ lệ lao động nữ chưa qua đào tạo (chiếm 81,6%) làm các công việc giản đơn, tập trung ở nhóm phụ nữ lớn tuổi; học vấn thấp, dân tộc ít người, sống ở nông thôn, khu vực miền núi đang là một thách thức lớn trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 [16]. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm quốc tế trong việc hoạch định và hoàn thiện chính sách việc làm đối với lao động nữ, mở ra nhiều cơ hội học tập, làm việc cho phụ nữ, tạo điều kiện trao đổi cởi mở các ý tưởng với phụ nữ, nâng cao tính minh bạch trong hoạch định chính sách. 1.2. Quy định của pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về lao động nữ 1.2.1. Điều chỉnh pháp luật lao động về lao động nữ 1.2.1.1. Khái niệm pháp luật lao động về lao động nữ Pháp luật lao động về lao động nữ là tổng thể những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa lao động nữ và người sử dụng lao động . Pháp luật lao động về lao động nữ bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của lao động nữ, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động nữ, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hòa và ổn định, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của lao động nữ nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ, hiệu quả trong sử dụng và quản lý lao động, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.2.1.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật lao động về lao động nữ Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật lao động về lao động nữ là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quán triệt và xuyên suốt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật lao động trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về sử dụng lao động nữ. Nội dung các nguyên tắc thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực lao động đối với lao động nữ. Các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh pháp luật lao động về lao động nữ là: 12 - Một là, Bảo đảm thúc đẩy bình đẳng giới trong quan hệ lao động, đặc biệt là đối với lao động nữ: Bình đẳng, không phân biệt đối xử là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Theo đó, các quy định của pháp luật lao động đều được áp dụng chung cho cả hai giới nam và nữ trên các phương diện về việc làm, nghề nghiệp, thu nhập, thời giờ nghỉ ngơi, nhu cầu nâng cao trình độ… Bên cạnh đó, xuất phát từ những đặc điểm tự nhiên và xã hội đặc thù, nguyên tắc bảo đảm thúc đẩy bình đẳng giới trong quan hệ lao động, đặc biệt là đối với lao động nữ nhằm hướng tới việc đảm bảo để phụ nữ có thể nhận được thành quả xứng đáng cho những đóng góp của mình, thông qua giải quyết các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới và phân biệt đối xử tại nơi làm việc. - Hai là, Bảo vệ quyền làm mẹ của lao động nữ: Làm mẹ là một thiên chức thiêng liêng của người phụ nữ. Với những đặc điểm tâm sinh lý, người phụ nữ vốn chân yếu tay mềm đã phải cùng một lúc đóng nhiều vai trò như làm vợ, làm mẹ, lao động, do đó bản thân họ phải rất nỗ lực, cố gắng để dung hòa với nhiều vai trò khác nhau. Từ góc độ pháp luật, quyền làm mẹ luôn được bảo vệ bằng việc cụ thể hóa trong các nội dung pháp luật khác nhau ở mỗi quốc gia. Bảo vệ quyền làm mẹ của người phụ nữ trong đời sống hiện đại luôn gắn với môi trường lao động, để người phụ nữ có được những điều kiện cần thiết trong việc thực hiện chức năng sinh đẻ của mình. - Ba là, Kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong điều chỉnh quan hệ lao động giữa lao động nữ và người sử dung lao động: Quan hệ lao động vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội do đó trong quá trình điều chỉnh các quan hệ lao động, pháp luật lao động phải kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Bên cạnh mục tiêu kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, sự tăng trưởng trong sản xuất, kinh doanh, pháp luật lao động phải giải quyết các vấn đề xã hội như: việc làm, công bằng, dân chủ… Nếu pháp luật lao động tách rời hoặc coi nhẹ chính sách xã hội thì sẽ không hạn chế được những tiêu cực của cơ chế thị trường; ngược lại, nếu coi trọng các vấn đề xã hội quá mức so với điều kiện kinh tế thì sẽ không có tính khả thi. Ở tầm vĩ mô, Chính phủ có sự hỗ trợ trong đào tạo nghề, dạy nghề đối với phụ nữ nông thôn, phụ nữ dân tộc thiểu số; pháp luật lao 13 động cũng có những ưu tiên về vay vốn, giảm thuế cho những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ để giải quyết các vấn đề xã hội và đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.2.1.3. Nội dung pháp luật lao động về lao động nữ Một là, Lao động nữ được đảm bảo quyền bình đẳng giới trong quan hệ lao động: Lao động nữ cũng như mọi NLĐ khác đều được hưởng đầy đủ các quyền lợi và phải có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về lao động. Tuy nhiên do dặc điểm tâm – sinh lý của phụ nữ và phụ nữ là người thực hiện thiên chức cao cả là sinh đẻ, làm mẹ do đó pháp luật lao động khẳng định bình đẳng, không phân biệt đối xử, trong đó có bình đẳng, không phân biệt đối xử dựa trên yếu tố giới là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Nghiên cứu pháp luật một số nước cho thấy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận quyền được đối xử bình đẳng giữa lao động nữ và lao động nam, dù trong số đó có cả những quốc gia chưa tham gia Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau và Công ước số 111 về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp. Việc các quốc gia ghi nhận và bảo đảm quyền bình đẳng của lao động nữ và lao động nam là do xu thế phát triển của Luật quốc tế về quyền con người ngày càng được tăng cường và mở rộng phạm vi các quyền bình đẳng của phụ nữ. Các văn kiện pháp lý quốc tế như Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước CEDAW năm 1979… đều dựa trên cơ sở đề cao sự bình đẳng về nhân phẩm và các quyền cho phụ nữ. Đặc biệt, Điều 11 Công ước CEDAW (năm 1979) - Công ước của Liên Hợp Quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ quy định: “Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực việc làm nhằm đảm bảo những quyền như nhau trên cơ sở bình đẳng nam nữ, đặc biệt là: …Quyền hưởng các cơ hội có việc làm như nhau, bao gồm cả việc áp dụng những tiêu chuẩn như nhau trong tuyển dụng lao động; Quyền tự do lựa chọn ngành nghề và việc làm, quyền được thăng tiến…; Quyền được hưởng thù lao như nhau, kể cả phúc lợi, được đối xử như nhau với công việc có giá trị ngang nhau cũng như được 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan