Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Lồng ghép trò chơi trong một số tiết học văn...

Tài liệu Lồng ghép trò chơi trong một số tiết học văn

.DOC
2
675
109

Mô tả:

ĐẶT VẤN ĐỀ 1.Lí do chọn Đề tài Trong điều kiện dạy học hiện nay, việc sử dụng các loại trò chơi ngôn ngữ vào hoạt động học tập môn Ngữ văn đã là một phương pháp dạy học có hiệu quả, được các thầy, cô giáo xem như một hình thức tổ chức dạy học mới, tích cực, cần phát huy thường xuyên trong các bài giảng của mình. Việc xây dựng và tổ chức một số trò chơi vui và nhẹ nhàng theo yêu cầu kiến thức và kĩ năng là một việc cần thiết để học sinh có thể tự học hoặc tham gia vào các trò chơi cùng bạn bè theo tinh thần “Học vui - vui học”, “Học mà chơi, chơi mà học”. Trong quá trình làm việc, học tập của con người, vui chơi là một hoạt động bổ ích ở mọi lứa tuổi. Vui chơi không những giúp cho các em được thoải mái rèn luyện thể lực, rèn luyện các giác quan mà nó còn tạo cơ hội cho các em được giao lưu với nhau, được hợp tác với bạn bè, đồng đội trong nhóm, trong tổ…thông qua đó, các em sẽ dần được hoàn thiện những kĩ năng giao tiếp. Nếu kết hợp sử dụng hình thức trò chơi học tập trong môn Ngữ văn thì dạy học sẽ mang lại hiệu quả cao. Bởi vì : - Trò chơi giúp học sinh rèn luyện, củng cố, tiếp thu kiến thức đồng thời, phát triển vốn kinh nghiệm được tích lũy trong cuộc sống qua hoạt động chơi. - Trò chơi học tập nó là một hình thức hoạt động học tập, tạo ra bầu không khí trong lớp học dễ chịu, thoải mái làm cho học sinh tiếp thu kiến thức tự giác, tích cực trong tâm trạng hồ hởi, vui tươi. - Trò chơi phát huy năng lực cá nhân, rèn tính hòa nhập cộng đồng, nâng cao năng lực hợp tác đồng thời giáo dục ý thức tổ chức kỉ luật, có tính đồng đội khi tham gia trò chơi học tập. - Trò chơi phát triển tư duy nhanh nhạy, óc sáng tạo, xử lí nhanh các tình huống khi tham gia trò chơi. Tóm lại, trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục. Vậy làm thế nào để tổ chức được các trò chơi học tập thật sự hiệu quả trong những giờ học Văn. Đó là điều tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Lồng ghép trò chơi trong một số tiết học Văn ở lớp 11A 5 trường THPT số 1 Bảo Yên”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, đánh giá thực trạng học văn, người viết đề xuất một số cách thức “lồng ghép trò chơi trong một số tiết học Văn ở lớp 11 A5 trường THPT số 1 Bảo Yên” 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1: Đối tượng nghiên cứu Lồng ghép trò chơi trong một số tiết học văn ở lớp 11a5 trường THPT số 1 Bảo Yên 3.2: Phạm vi nghiên cứu HS các lớp giảng dạy. Môi trường giáo dục: trường THPT số 1 Bảo Yên. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Nghiên cứu lý luận về phương pháp dạy học trong một tiết học văn. 4.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng học văn ở các lớp giảng dạy. 4.3: Đề xuất một số hình thức lồng ghép trò chơi nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong một tiết học văn ở trường THPT số 1 Bảo Yên. 5. Phương pháp nghiên cứu Đúc rút kinh nghiệm từ bản thân trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT. Học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp. Tham khảo một số tài liệu nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học văn. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Trong thực tế khi dạy học môn Văn, bản thân người viết nhận thấy: giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của các em, kích thích sự tư duy và nhận thức trí tuệ của các em. Trò chơi học tập là những trò chơi được lồng ghép trong một giờ học, một hoạt động trong tiết học biến việc học tập trên lớp thành một cuộc chơi, giúp học sinh tiếp nhận kiến thức và rèn kĩ năng dễ dàng hơn, hào hứng hơn. Dạy học với trò chơi cuốn hút học sinh bởi các đặc trưng của nó: Trò chơi là một hoạt động tự nguyện, không gò ép, bắt buộc. Động cơ chơi không nằm trong kết quả mà nằm trong quá trình chơi. Trò chơi mang tính tự do nên khi tham gia học sinh hoàn toàn chủ động trong suy nghĩ, trong hành động suốt quá trình vui chơi, do đó có thể phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của mình mà không bị phụ thuộc vào các yếu tố xung quanh, không bị người khác chi phối. Trong sự tự do vui chơi, trong không khí cổ vũ sôi nổi của tập thể, học sinh sẽ phát huy mọi khả năng vốn có của mình, làm cho quá trình nhận thức trở nên dễ dàng, hiệu quả hơn. Trò chơi là một hoạt động sáng tạo, đầy yếu tố mới mẻ, bất ngờ; nhiều trò chơi được sử dụng nhiều lần nhưng vẫn lôi cuốn người tham gia, người xem và người tổ chức. Trong khi tham gia, người chơi luôn thể hiện sự sáng tạo của mình, luôn tạo ra kịch tính, tạo ra những tình huống bất ngờ, khó dự đoán trước. Dạy học Ngữ văn 11 với trò chơi học tập cùng lúc đáp ứng cả hai nhu cầu của học sinh, nhu cầu vui chơi và nhu cầu học tập. Trò chơi học tập tạo nên hình thức “chơi mà học, học mà chơi” đang được khuyến khích ở các cấp học và việc sử dụng trò chơi trong giờ học là biện pháp hữu hiệu nhất giúp học sinh học tập và tiếp thu kiến thức tốt hơn. Dạy học Ngữ văn 11 với trò chơi học tập sẽ kích thích sự tìm tòi, tạo cơ hội để học sinh tự thể hiện mình . Thông qua trò chơi, học sinh bộc lộ sự năng nổ, hoạt bát, kích thích trí tưởng tượng, trí nhớ. Từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, học tập cách xử lý thông minh trong những tình huống phức tạp, tăng cường khả năng vận dụng. Ngoài ra, thông qua hoạt động trò chơi còn giúp các em phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng trung thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. II. THỰC TRẠNG : 1. Thực trạng nhận thức của HS về vai trò của học tập môn Ngữ văn Những năm qua, ngành giáo dục đã chỉ đạo việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học trong đó có môn Ngữ Văn. Tuy nhiên điều khiến cho những giáo viên dạy Văn thấy trăn trở, băn khoăn đó là hiện nay học sinh thường tìm đến với các môn học tự nhiên như một nhu cầu tất yếu để thuận lợi cho công việc sau này. Nhiều em cho rằng Văn là môn khoa học xã hội nên tính ứng dụng không cao, dẫn đến tình trạng chán học Văn, thậm chí học mang tính chiếu lệ, đối phó. Thực tế hiện nay cho thấy, tuy môn Văn là một môn học rất quan trọng, là môn học bắt buộc phải thi tốt nghiệp, nhưng vai trò của môn Văn trong nhà trường đang bị coi thường xem nhẹ, HS không mấy chú trọng đến bộ môn này. Nhiều HS khi tham gia học tập thì rất sợ môn Ngữ văn, các em luôn có tâm lí học vẹt, học đối phó, học để đảm bảo đạt điểm trung bình môn là 5,0 trở lên để không ảnh hưởng đến kết quả cuối kì, cuối năm. Khi dự thi vào các trường đại học, cao đẳng thì môn Văn không phải là một môn thi phổ biến đối với các trường được xem là “thời thượng”…Bởi những suy nghĩ trên nên HS không mấy mặn mà với bộ môn này. Và còn thật đáng buồn, có những học sinh theo theo học môn Văn nhưng không phải vì các em giỏi Văn, đam mê Văn, muốn theo nghiệp Văn, mà vì “bất đắc dĩ” do không theo nổi ban A nên bắt buộc các em phải chọn ban C, theo kiểu “chuột chạy cùng sào mới vào ban C”. Và trong số những em học ban C đó, ít và rất ít các em thật sự giỏi Văn, có tố chất Văn, có niềm đam mê văn chương… 2. Thực trạng của HS về hứng thú học tập môn Ngữ văn trong nhà trường. Bởi nhận thức phiến diện và có phần sai lệch về vai trò của bộ môn Văn trong nhà trường, nên HS có xu hướng thờ ơ với môn Văn. Biểu hiện cụ thể của việc HS không còn hứng thú với môn học là: - HS đang có xu hướng chán học Văn, không còn mặn mà với các tiết học Văn, (có chăng chỉ là sự gò ép, bắt buộc). - HS chuẩn bị bài soạn phần lớn dựa vào sách tham khảo, sách học tốt bày bán trên thị trường. Khi viết bài các em thường sao chép theo sách văn mẫu, ít có HS phát huy tính độc lập sáng tạo trong cách chuẩn bị bài. - HS đang có xu thế học ban tự nhiên với tâm lý sau này dễ kiếm tiền, dễ xin việc. - Tồn tại lớn nhất ở học sinh là thói quen thụ động, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học, chưa có hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể, cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy khá khó khăn. Trong khi đó nhiều em còn lơ là trong việc chuẩn bị bài ở nhà. III. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH: 1. Tìm hiểu Vai trò của trò chơi trong dạy học Ngữ văn 11 a. Dạy học với trò chơi thực hiện chức năng luyện tập thực hành. Dạy học Ngữ văn 11 với trò chơi thực hiện chức năng của hoạt động thực hành vì các em có điều kiện vận dụng những kiến thức đã học khi tham gia vào trò chơi. Các em được hình thành những kĩ năng cơ bản, phân biệt được bản chất trong các kiến thức môn học ở mỗi trò chơi, hiểu được sâu sắc và đầy đủ hơn các tri thức đã học, góp phần hình thành và rèn luyện kĩ năng đặt câu, viết đoạn văn. Qua đó, những thiếu sót của các em cũng được phát hiện. Từ đó giáo viên có biện pháp bổ sung và điều chỉnh kịp thời cho các em. Nói cách khác, trò chơi còn là một trong những phương tiện để khắc phục những trở ngại khác nhau trong hoạt động của từng em thông qua các trò chơi cá nhân và tập thể. Bởi vì đã là trò chơi thì phải có trao đổi tư tưởng, kiến thức giữa các thành viên trong một nhóm khi tham gia trò chơi. Thông qua trò chơi, các em có điều kiện để thể hiện mình, biết hợp tác với bạn bè để tìm được cách trả lời tốt nhất. b. Dạy học với trò chơi là phương tiện hình thành các năng lực trí tuệ Trong trò chơi, khi chơi các em tập trung chú ý hơn và ghi nhớ được nhiều hơn. Bởi vì bản thân trò chơi đòi hỏi phải tập trung vào những dữ kiện và đối tượng được đưa vào tình huống của trò chơi cũng như nội dung của trò chơi. Nếu các em không chú ý và nhớ những điều kiện của trò chơi, thì sẽ hành động một cách tự phát và không đạt được kết quả chơi. Bởi vậy, để trò chơi được thành công buộc các em phải tập trung chú ý và ghi nhớ một cách chủ động. Dạy học Ngữ văn 11 với trò chơi đẩy mạnh sự phát triển năng lực trí tuệ và phục vụ cho mục đích ấy vì đôi khi trò chơi đề ra cho các em “bài toán” trí tuệ, và việc giải quyết các “bài toán” này đòi hỏi phải thể hiện những hình thức hoạt động trí tuệ muôn hình, muôn vẻ. Trong khi tham gia trò chơi, để giành phần thắng, các em phải linh hoạt, tự chủ, phải độc lập suy nghĩ, phải sáng tạo và có lúc phải tỏ ra quyết đoán. Do đó, trò chơi học tập tạo khả năng phát triển trí tưởng tượng, khả năng linh hoạt độc lập sáng tạo cần thiết cho hoạt động học tập và lao động sau này của các em. c. Dạy học với trò chơi kích thích hứng thú nhận thức. Dạy học Ngữ văn 11 với trò chơi bên cạnh chức năng giải trí còn giúp học sinh tự củng cố kiến thức, kĩ thuật, thói quen học tập một cách hứng thú, thói quen làm việc theo nhiều quy mô (cá nhân, nhóm, lớp). Như vậy, việc sử dụng trò chơi học tập trong dạy học Ngữ văn là một trong những biện pháp tăng cường tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Hơn thế nữa, mối quan tâm và hoạt động của học sinh thể hiện qua các tiết học có trò chơi làm tăng thêm cảm tình của các em đối với môn học và thầy cô giáo. Học sinh tìm được phương án giải khác nhau cho một trò chơi giúp các em hiểu sâu sắc hơn về những tri thức đã học, có thói quen tìm tòi phương án giải quyết tốt nhất, hay nhất và đơn giản nhất. Và khi đó, các em thể hiện niềm vui, hứng thú với những thành tích mà mình đạt được, thể hiện niềm vui do trò chơi mang lại và cảm thấy vui sướng khi được tham gia vào trò chơi. Từ đó hình thành ở các em tính tích cực, ý thức tự giác trong học tập. Chính vì thế trò chơi là chiếc cầu nối môn Ngữ văn với thực tiễn, bởi vì thông qua trò chơi các em thấy ứng dụng quan trọng của môn Ngữ văn trong thực tiễn. Và như vậy là đã phát huy được tính tích cực nhận thức của các em. d. Dạy học Ngữ văn với trò chơi ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển ngôn ngữ và trí tưởng tượng Tình huống trò chơi đòi hỏi mỗi học sinh tham gia vào trò chơi phải có một trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định. Nếu các em không diễn đạt được mạch lạc nguyện vọng và ý kiến của mình đối với trò chơi, nếu không hiểu được lời chỉ dẫn của thầy cô hay lời bàn bạc của các bạn cùng chơi, thì không thể nào tham gia vào trò chơi được (hoặc tham gia không có kết quả). Để đáp ứng được những yêu cầu của việc cùng chơi, các em phải phát triển ngôn ngữ một cách rõ ràng, mạch lạc. Trò chơi chính là điều kiện kích thích học sinh phát triển ngôn ngữ một cách nhanh chóng. e. Dạy học Ngữ văn 11 với trò chơi giúp hình thành đức tính trung thực, có kỉ luật, tính độc lập, có ý thức cao Việc các em tiếp nhận và tuân theo những quy tắc giúp các em có khả năng tự kiểm tra và kiểm tra lẫn nhau trong trò chơi. Khi tham gia vào trò chơi, nhập vai quan hệ với các bạn cùng chơi buộc các em phải đem những hành động của mình phục tùng những yêu cầu nhất định bắt nguồn từ ý đồ chung của trò chơi. Để giành phần thắng trong các trò chơi tập thể, các em phải biết cùng chơi, biết giúp đỡ lẫn nhau, biết dung hoà lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, tức là các em biết điều tiết hành vi của mình theo chuẩn mực của xã hội. Hơn nữa, dưới sự tổ chức, điều khiển của giáo viên, để tổ (nhóm) mình giành phần thắng, các em ở trong tổ thi đua nhau cùng làm bài và giữ gìn trật tự. Qua đó, có thể giáo dục đức tính trung thực, thật thà, ý thức tổ chức kỉ luật, ý thức tự giác, tính độc lập, tự chủ và ý thức tôn trọng tập thể của các em. Tổ chức trò chơi chính là để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Trong thực tế dạy học, GV thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới 2. Quy trình tổ chức trò chơi Trò chơi học tập mônNgữ văn 11 thông qua 5 bước : - Giới thiệu tên trò chơi. - Phổ biến luật chơi. - Tiến hành chơi. - Rút ra kiến thức. - Đánh giá kết luận. 3. Thiết kế trò chơi học tập Để dạy học với trò chơi hiệu quả, giáo viên phải biết thiết kế hoặc sáng tạo một số trò chơi sẵn có để giảng dạy. Trước khi thiết kế cần : - Xác định rõ mục tiêu của bài tập để chọn trò chơi phù hợp. Việc xác định yêu cầu của bài tập rất quan trọng, mục tiêu của bài tập là cơ sở để lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp. Một bài tập có thể tạo nên những trò chơi khác nhau. - Tiến hành thiết kế trò chơi Giáo viên tiến hành thiết kế trò chơi có hình thức chơi rõ ràng (người chơi, cách chơi, đồ dùng hỗ trợ…), nội dung thực hiện trò chơi phải đảm bảo nội dung bài tập của Sách giáo khoa hoặc bổ sung thêm nội dung tùy vào việc xác định mục tiêu bài tập, của tiết học . Đồng thời thông qua đó rèn những kĩ năng cần thiết cho học sinh * Một số hình thức lồng ghép trò chơi: + Xem trò chơi là một hình thức tổ chức cho một đơn vị kiến thức nhỏ trong giờ học để triển khai ở các bước khác nhau của bài giảng (phần tìm hiểu chung, tìm hiểu ngữ liệu, phần đọc - hiểu văn bản, phần luyện tập, củng cố bài…) + Tổ chức tiết học thành một trò chơi lớn đối với một số tiết ôn tập hoặc khái quát. * Một số trò chơi có thể vận dụng lồng ghép trong dạy học Ngữ văn giáo viên có thể tự sáng tạo ra những trò chơi phù hợp với tiết học (trò chơi phát động, trò chơi hoạt động, trò chơi luỵên trí, trò chơi chú ý và quan sát, trò chơi huy động kiến thức, trò chơi vận dụng kiến thức…), tự đặt tên trò chơi (theo nguyên tắc vừa phù hợp, vừa kích thích sự tò mò của các em. Ví dụ:đuổi hình bắt chữ, phỏng vấn người nổi tiếng, Họ đang nói gì, Ô chữ, Hiểu ý đồng đội, Tiếp sức…) 4. Giới thiệu một số trò chơi học tập Ngữ văn 11 Ví dụ minh hoạ: Tiết 40- Tiếng Việt- Bài: NGỮ CẢNH. Hoạt động 4: Hướng dẫn luyện tập – Phương pháp dạy học: thực hành + hình thức lồng ghép trò chơi. Học sinh thực hành và củng cố bài qua trò chơi “Những người trong tranh nói gì?” GV: hướng dẫn thể lệ: Lớp sẽ được chia làm 4 nhóm, cùng mô tả một bức tranh có những tình huống đòi hỏi phải giao tiếp (mỗi nhân vật chỉ được nói một câu). Các nhóm sẽ làm việc độc lập một cách nhanh nhất và đúng nhất. Nhóm nào thực hiện nhanh nhất và hợp lí nhất, sẽ thắng. HS: nghe phổ biến thể lệ trò chơi. HS: Tham gia trò chơi theo hướng dẫn của giáo viên: Làm việc theo nhóm với yêu cầu bí mật với các nhóm khác (để không ảnh hưởng đến không gian học tập của các lớp khác) nhưng phải huy động được sức mạnh của tập thể (nhóm chơi); đảm bảo đúng và trong thời gian nhanh nhất. GV: Quan sát học sinh chơi và có những chỉ dẫn kịp thời. HS: Nộp lại thảo luận của mình, đã được ghi trên bảng phụ, dán lên bảng

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng