5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trước yêu cầu đổi mới giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời sự phát triển của
thực tiễn, đã xuất hiện nhiều xu hướng nghiên cứu đổi mới PPDH nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo, nổi bật là xu hướng đổi mới hướng đến PTNL, giúp
người học thích ứng kịp thời với sự phát triển của thực tiễn nghề nghiệp và
cuộc sống. Xu hướng này đã được nhiều quốc gia quan tâm, vận dụng, triển
khai và đã trở thành phong trào đổi mới mạnh mẽ trong GD&ĐT, nhất là
trong lĩnh vực đào tạo nghề vào những năm 90 của thế kỷ XX ở các nước có
nền giáo dục tiên tiến như Mỹ, Đức, Phần Lan, Úc… Những thành tựu từ đổi
mới PPDH theo hướng PTNL người học đã tạo nên cuộc cách mạng trong
lĩnh vực đào tạo, đồng thời được xem như chìa khóa để thu hẹp khoảng cách
giữa đào tạo và yêu cầu của thị trường lao động.
Ở Việt Nam, vấn đề PTNL người học đáp ứng với đòi hỏi thực tiễn cuộc
sống và nghề nghiệp đã được đề cập đến từ thập niên 90 của thế kỷ XX. Tuy
nhiên, phải đến những năm đầu của thế kỷ XXI, trước sức ép của nền kinh tế
trong quá trình hội nhập quốc tế và sự tác động của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, vấn đề đổi mới PPDH nhằm hướng đến PTNL cho người học
mới thực sự trở nên cấp thiết, nóng bỏng. Điều đó đã được khẳng định trong
Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam Khóa XI: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và đổi mới kiến thức,
kỹ năng của người học khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực” [ 24, tr.6]. Chiến
lược giáo dục 2011 - 2020 cũng khẳng định: “Tiếp tục đổi mới phương pháp
dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học” [ 7, tr.12]. Luật
6
Giáo dục cũng ghi: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự
học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [ 79, tr.25].
Như vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định sự cần thiết phải
đổi mới PPDH theo hướng PTNL người học, đó không chỉ là giải pháp hiệu
quả để giải quyết mâu thuẫn giữa chất lượng nguồn nhân lực với yêu cầu sự
phát triển của nền kinh tế, xã hội, mà còn là con đường tất yếu để mỗi người tự
hoàn thiện bản thân, thích ứng kịp thời với sự phát triển không ngừng của thực
tiễn cuộc sống và nghề nghiệp.
Phương pháp dạy học là một trong những thành tố quan trọng trong cấu
trúc của QTDH, có vai trò quyết định đến hiệu quả lĩnh hội kiến thức, kỹ năng
và PTNL của người học. Quá trình dạy học ở nhà trường, PPDH không chỉ là
thành tố năng động, mà còn có quan hệ chặt chẽ với các thành tố khác, nhất là
mục tiêu, chương trình nội dung và phương tiện dạy học, sự thay đổi của các
thành tố trên sẽ dẫn đến hệ quả PPDH cũng thay đổi theo. Trong xu thế hiện
nay, sự phát triển nhanh chóng của nội dung dạy học cũng như những ứng
dụng của thành tựu khoa học, kỹ thuật vào dạy học, nhất là xu thế dạy học theo
định hướng PTNL, đang đặt ra những đòi hỏi tất yếu phải đổi mới PPDH.
Các trường đại học trong quân đội là nơi đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ
phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu hoạt động quân sự. Những năm qua,
hoạt động đổi mới PPDH diễn ra khá phong phú, đa dạng, tuy nhiên mới chủ yếu
dừng lại ở mục tiêu nâng cao hiệu quả chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, chưa quan
tâm nhiều đến sự PTNL của người học. Bên cạnh đó, những hạn chế trong nhận
thức, trình độ năng lực của một số giảng viên, tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học viên cũng như sự lạc hậu của phương tiện kỹ thuật dạy học, đang làm
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo. Mặt khác có thể thấy, hoạt động
quân sự là lĩnh vực hết sức đặc thù, đặc biệt dưới tác động của Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư hiện nay đang đặt ra yêu cầu rất cao với người chỉ huy ở đơn vị
cơ sở. Để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình, người sĩ quan không chỉ có
7
kiến thức toàn diện mà còn phải có những năng lực cần thiết cho hoạt động quân
sự. Những đòi hỏi của thực tiễn, đang đặt ra yêu cầu với các trường đại học
trong quân đội phải đẩy mạnh đổi mới đồng bộ các nhân tố của QTDH, trong đó
đổi mới PPDH theo hướng PTNL là vấn đề cấp thiết.
Những năm gần đây, vấn đề đổi mới PPDH và PTNL người học đã thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà giáo, nhà khoa học thuộc nhiều chuyên
ngành khác nhau. Tuy nhiên, tiếp cận nghiên cứu về đổi mới PPDH theo hướng
PTNL ở bậc đại học nói chung và ở các trường đại học trong quân đội nói riêng
cho thấy, đây là vấn đề mới nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện. Các nghiên cứu mới chủ yếu bàn về cách thức vận dụng một số
phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực, hay tổ chức hoạt động KTĐG theo
hướng tiếp cận năng lực, chưa xây dựng được một hệ thống lý luận cơ bản, hoàn
chỉnh, làm cơ sở khoa học định hướng cho hoạt động đổi mới PPDH theo hướng
PTNL người học. Bởi vậy, nghiên cứu làm rõ cả về lý luận và thực tiễn làm cơ
sở nâng cao chất lượng đổi mới PPDH ở các trường đại học trong quân đội, góp
phần PTNL người sĩ quan là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết hiện nay.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn: “Đổi mới phương pháp dạy học
ở các trường đại học trong quân đội theo hướng phát triển năng lực người
học” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về đổi mới PPDH theo hướng
PTNL người học làm căn cứ đề xuất biện pháp đổi mới PPDH ở các trường đại
học trong quân đội theo hướng PTNL người học, nhằm hình thành và phát triển
hệ thống năng lực cần thiết cho hoạt động quân sự, giúp người học đáp ứng kịp
thời với yêu cầu chức trách, nhiệm vụ sau khi ra trường.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận về đổi mới PPDH theo hướng PTNL người học.
8
Khảo sát, đánh giá thực trạng PPDH và đổi mới PPDH ở các trường đại
học trong quân đội.
Đề xuất các biện pháp đổi mới PPDH ở các trường đại học trong quân
đội theo hướng PTNL người học.
Tổ chức thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính đúng đắn của các
biện pháp đã được đề xuất.
3. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học ở các trường đại học trong quân đội.
Đối tượng nghiên cứu
Quá trình đổi mới PPDH ở các trường đại học trong quân đội theo hướng
PTNL người học
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận,
thực tiễn về đổi mới PPDH theo hướng PTNL và đề xuất các biện pháp đổi
mới PPDH ở các trường đại học trong quân đội theo hướng PTNL người học.
Trong đó tập trung vào học viên hệ đào tạo sĩ quan chỉ huy, sĩ quan chính trị
cấp phân đội ở các trường đại học trong quân đội.
Phạm vi về không gian: Địa bàn nghiên cứu của luận án gồm các học viện,
trường sĩ quan quân đội đào tạo đại học, trong đó tập trung ở Trường Sĩ quan
Chính trị; Trường Sĩ quan Lục quân 1; Học viện Phòng không- Không quân.
Phạm vi về thời gian: Các số liệu phục vụ nghiên cứu luận án trong
thời gian 5 năm từ 2014 đến 2019.
4. Giả thuyết khoa học
Kết hợp đổi mới PPDH với đổi mới đồng bộ các thành tố của QTDH là
con đường tối ưu để PTNL người học. Quá trình dạy học ở các trường đại học
trong quân đội nếu các chủ thể, các lực lượng sư phạm có nhận thức đúng đắn về
bản chất, nội dung, con đường, cách thức đổi mới PPDH, chủ động vận dụng các
phương pháp, kỹ thuật dạy học có ưu thế trong PTNL người học, gắn đổi mới
9
nội dung với đổi mới cách thức dạy học thực hành; đồng thời kết hợp chặt chẽ
giữa đổi mới PPDH với phát huy hiệu quả của công nghệ thông tin và đổi mới
KTĐG thì năng lực người học sẽ phát triển theo mục tiêu đào tạo đã xác định.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục và các quan điểm tiếp cận khoa học sau:
Tiếp cận hệ thống và cấu trúc
Quá trình dạy học là một hệ thống trong đó có sự tương tác giữa các
thành tố như: Mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học,
cơ sở vật chất và môi trường dạy học... Theo quan điểm hệ thống, nghiên
cứu đổi mới PPDH theo hướng PTNL người học ở các trường đại học trong
quân đội phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời với tất cả các
thành tố khác trong QTDH.
Tiếp cận hoạt động
Năng lực là một thành phần quan trọng trong nhân cách con người, được
hình thành thông qua các hoạt động thực tiễn đầy tích cực và sáng tạo của người
học. Vì vậy, để đổi mới PPDH theo hướng PTNL có hiệu quả thì việc đổi mới
phải hướng đến tăng cường hoạt động tích cực của người học. Điều này cũng có
nghĩa là phương pháp phải nhằm phát huy tốt vai trò chủ thể của người học, biến
người học thành chủ thể hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo.
Tiếp cận quá trình
Phát triển năng lực người học là quá trình diễn ra liên tục, lâu dài từ việc
tiếp thu tích lũy kiến thức, kỹ năng, hình thành thái độ và vận dụng vào thực
tiễn. Quá trình đó diễn ra theo quy trình người học dưới sự tác động định
hướng, điều khiển từ người dạy, tự điều khiển, tự tổ chức hoạt động học tập
của bản thân nhằm thực hiện mục tiêu dạy học. Vì vậy, đổi mới PPDH theo
hướng PTNL người học chỉ có thể đạt hiệu quả thiết thực khi đứng trên quan
10
điểm tiếp cận quá trình, để xác định đúng bản chất, quy trình PTNL người học,
từ đó tạo ra những tác động phù hợp với sự PTNL của người học trong QTDH.
Tiếp cận phát triển năng lực
Phát triển năng lực người học vừa là mục tiêu, vừa là kết quả cuối cùng của
quá trình đổi mới PPDH. Do vậy, theo cách tiếp cận này, trước hết đòi hỏi các chủ
thể đổi mới phải có nhận thức đúng về năng lực, PTNL người học theo quan điểm
hiện đại, trên cơ sở đó để tiến hành các hoạt động đổi mới PPDH nhằm hình
thành, PTNL cho người học đáp ứng kịp thời với sự phát triển của thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Đề tài sử dụng các phương pháp: Phân tích và tổng hợp, phân loại,
hệ thống hoá, khái quát hoá các tài liệu có liên quan để xây dựng cơ sở lý
luận về đổi mới PPDH ở các trường đại học trong quân đội theo hướng PTNL
của người học như: Một số tác phẩm kinh điển Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, của Quân ủy Trung ương về giáo
dục - đào tạo nói chung về đổi mới PPDH theo hướng PTNL nói riêng; Luật
Giáo dục năm 2005, được bổ sung và sửa đổi năm2009 và 2014; Chiến lược
Phát triển giáo dục 2011 - 2020; Luật Giáo dục Đại học 2013; Nghị quyết
29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI).
Các giáo trình, tài liệu về năng lực, PTNL; về PPDH và đổi mới PPDH
theo hướng PTNL…; các công trình khoa học, bài báo khoa học của các tác
giả trong nước và ngoài nước có liên quan đến đề tài đã được công bố và đăng
tải trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học tập của học viên, hoạt
động giảng dạy của đội ngũ giảng viên, từ đó rút ra những kết luận có liên
quan đến nội dung nghiên cứu.
Phương pháp tọa đàm trao đổi: Tọa đàm, trao đổi với cán bộ, giảng
viên ở các khoa giáo viên và cán bộ quản lý, học viên ở các trường đại học
11
trong quân đội, đội ngũ cán bộ chỉ huy, chủ trì ở một số đơn vị, từ đó rút ra
những kết luận phục vụ nghiên cứu.
Phương pháp điều tra: Trưng cầu ý kiến bằng phiếu ankét với học viên,
GV, CBQL ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Khái quát những kết quả thực tế đạt
được của quá trình đào tạo ở các trường đại học trong quân đội những năm
gần đây; nghiên cứu báo cáo tổng kết của các nhà trường, báo cáo phân tích
chất lượng giảng viên, học viên, giáo án của giảng viên; vở ghi, tài liệu học
tập của học viên; báo cáo tổng kết các mặt hoạt động chủ yếu của tiểu đoàn
quản lý học viên và số liệu khảo sát của tác giả.
Phương pháp chuyên gia: Đề tài sử dụng phương pháp chuyên gia
nhằm xin ý kiến của một số nhà khoa học, nhà sư phạm có uy tín trong và
ngoài quân đội đã và đang tham gia vào quá trình đào tạo ở bậc đại học.
Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức thực nghiệm nhằm kiểm chứng
biện pháp được đề xuất, việc thực nghiệm được tiến hành tại Trường Sĩ quan
Chính trị và Trường Sĩ quan Lục quân 1.
Nhóm phương pháp hỗ trợ
Đề tài sử dụng phương pháp toán học thống kê để tổng hợp, xử lý kết quả
điều tra rút ra những kết luận định tính và định lượng về đối tượng điều tra.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Một là, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
được công bố và thực tiễn QTDH ở các trường đại học trong quân đội, luận
án xây dựng khung lý luận, luận giải vấn đề về PPDH và đổi mới PPDH ở các
trường đại học trong quân đội theo hướng PTNL người học;
Hai là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận về năng lực, PTNL, cũng như
những yêu cầu về chức trách, nhiệm vụ người sĩ quan quân đội, luận án đã
xác định hệ thống năng lực cơ bản của người học, chỉ ra con đường, biện pháp
PTNL người học ở các trường đại học trong quân đội;
12
Ba là, từ việc phân tích mối quan hệ giữa PPDH với các thành tố trong
cấu trúc của QTDH, cũng như quan hệ giữa PPDH với các yếu tố bên ngoài,
luận án đã luận giải, làm rõ những yếu tố có tác động trực tiếp đến đổi mới
PPDH theo hướng PTNL ở các trường đại học trong quân đội hiện nay;
Bốn là, xuất phát từ đặc điểm QTDH, thực tiễn đổi mới PPDH ở các
trường đại học trong quân đội, luận án đã tiến hành khảo sát đánh giá thực
trạng đổi mới PPDH, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, xác định rõ nguyên
nhân, rút ra những kinh nghiệm đổi mới PPDH theo hướng PTNL;
Năm là, trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn đổi mới PPDH,
luận án đã đề xuất các biện pháp đổi mới PPDH ở các trường đại học trong quân
đội theo hướng PTNL người học một cách đồng bộ, thống nhất, hiệu quả.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, phát triển, làm
phong phú lý luận về đổi mới PPDH theo hướng PTNL người học. Đồng thời,
cung cấp thêm cơ sở khoa học giúp các chủ thể dạy học vận dụng vào quá
trình đổi mới PPDH ở nhà trường quân đội nói chung và các trường đại học
trong quân đội nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ sĩ
quan đáp ứng với yêu cầu thực tiễn.
Về mặt thực tiễn
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, học viên ở
các trường đại học trong quân đội, góp phần đổi mới PPDH, khắc phục tình
trạng chỉ coi trọng trang bị kiến thức, xem nhẹ vấn đề PTNL cho người học.
Làm cơ sở nâng cao chất lượng dạy học ở các trường đại học trong quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (13 tiết), kết luận, kiến
nghị, danh mục công trình khoa học của tác giả, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.
13
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài luận án
1.1.1. Hướng nghiên cứu về phương pháp dạy học và phương pháp
dạy học theo hướng phát triển năng lực
1.1.1.1. Nghiên cứu về phương pháp dạy học
Vấn đề PPDH đã được bàn đến từ rất sớm trong lịch sử, thường gắn liền
với tên tuổi các nhà giáo dục nổi tiếng như Socrate hay Khổng Tử. Mặc dù, không
xây dựng được một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, nhưng những tư tưởng về PPDH
như “Đàm thoại” của Socrate, hay phát huy tính tích cực chủ động của người học,
học đi đôi với hành, dạy học sát đối tượng của Khổng Tử [89] vẫn còn nguyên giá
trị. Cùng với sự phát triển của khoa học giáo dục, PPDH được nghiên cứu một
cách đầy đủ vào thế kỷ XVII, người đặt nền móng là Jan Amos Comensky (1592 1670) [10]. Khi bàn về PPDH, Comensky đã kịch liệt phê phán PPDH giáo điều,
kinh viện, chỉ dựa vào sách vở mà nhồi sọ, bắt học sinh học thuộc lòng, đồng thời
ông chủ trương đưa vào dạy học những PPDH mới, đòi hỏi người học phải nắm
được bản chất của sự vật. Từ đó ông kêu gọi: Hãy tìm ra các PPDH cho phép giáo
viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn, học sinh phải mở mang tài năng của mình
bằng khả năng độc lập của họ. Những tư tưởng tiến bộ về PPDH của Comensky
được ông gửi gắm trong nhiều tác phẩm, tiêu biểu là “Phép dạy học vĩ đại”.
T.A. Ilina (1973) trong sách “Lý luận dạy học” [44] đã phân tích mối quan hệ
giữa PPDH với mục đích, nhiệm vụ dạy học để chỉ ra: Trong mối quan hệ đó, PPDH
luôn bị qui định bởi những mục đích và nhiệm vụ dạy học. Khi mục đích, nhiệm vụ
dạy học thay đổi thì PPDH cũng thay đổi. Với điểm tựa khoa học đó, ông đã đưa ra
cách phân loại các PPDH khá hoàn chỉnh, tuy nhiên ông cũng khuyến cáo khi lựa
chọn PPDH cần phải xuất phát từ nội dung, điều kiện cơ sở vật chất, đặc điểm tâm lý
lứa tuổi và khả năng của giáo viên, đồng thời phải chú ý thúc đẩy tính tích cực trong
hoạt động nhận thức của người học. Nghiên cứu về PPDH trong nền giáo dục Xô
Viết còn có các tác giả Đannilốp M.A, Lecne I.Ia, M.N Xcatkin [ 18], L.V. Zancốp
[122]; X.G.Lucônhin và V. V. Xêrê-Bri-an-ni-cốp [56] và V. ÔKon [69].
14
Ở Mỹ và các nước Tây Âu, nghiên cứu về PPDH cũng được các nhà giáo
dục hết sức quan tâm với nhiều hướng tiếp cận. Tiêu biểu là John Dewey (1858 1952), với tư tưởng cơ bản: “Giáo dục là bản thân cuộc sống” và điểm tựa là thuyết
“Thực dục luận”, ông đã chủ trương phát triển một nền giáo dục gắn liền lý thuyết
với thực tiễn, tư tưởng này đã được các nhà giáo dục Mỹ và các nước Tây Âu tiếp
thu, vận dụng và phát triển thành trào lưu đổi mới trong đào tạo nghề vào những
năm 70 của thế kỷ XX. Trong lĩnh vực PPDH, Jonh Deway đã có những cống hiến
to lớn bởi ngoài việc chỉ ra hai đặc trưng cơ bản là: Tính thống nhất giữa nội dung
và phương pháp; giữa tính phổ biến và tính cá nhân của phương pháp, thì ông còn
là người khởi xướng cho việc vận dụng các PPDH tích cực. Tư tưởng về PPGD
được Jonh Dewey thể hiện sâu sắc trong sách “Dân chủ và giáo dục” [15].
Edward De Bono (1985) - tác giả của phương pháp sáng tạo như: tư duy
chiều ngang, sáu chiếc mũ tư duy. Sáu chiếc mũ tư duy là PPDH sáng tạo được
Edward De Bono trình bày trong cuốn “Six Thinking Hats” (Sáu chiếc mũ tư duy)
[126]. Với những ưu điểm nổi bật khi áp dụng vào dạy học, phương pháp “6 chiếc
mũ tư duy” đã được phát triển và giảng dạy ở nhiều nơi trên thế giới, nhiều tổ chức
lớn như: IBM, Federal Express, Brtish Airways..., đã ứng dụng đem lại hiệu quả
thiết thực. Gần đây là cuốn sách “Các phương pháp dạy học hiệu quả” [60], của
các tác giả Robert J. Marzano, Debra J. Pickering, Jane E. Pollock (2011) cũng là
công trình khá mới mẻ trong việc chỉ dẫn cách vận dụng PPDH mang lại hiệu quả
cao.
Ở Việt Nam, PPDH cũng được nhiều tác giả nghiên cứu công phu, tiêu
biểu là tác giả Lê Nguyên Long (1999) với sách “Thử đi tìm phương pháp dạy
học học hiệu quả” [54] đã tập trung phân tích mối quan hệ giữa nhân tố PPDH với
các nhân tố khác trong cấu trúc của QTDH, từ đó chỉ ra ba nhân tố cơ bản trực
tiếp chi phối đến PPDH đó là: Mục đích, nội dung và đối tượng dạy học. Trong
mối quan hệ đó mục đích dạy học luôn chi phối đến nội dung, thông qua nội dung
quyết định đến PPDH, với những nội dung khác nhau thì đòi hỏi phải có PPDH
khác nhau, hay nói cách khác PPDH phải chứa đựng tính chất của nội dung dạy
học.
Tác giả Phan Trọng Ngọ (2005) với sách “Dạy học và phương pháp dạy học
trong nhà trường” [66] đã chỉ ra cấu trúc của PPDH gồm: Hướng tiếp cận đối tượng
15
hay quan điểm về học tập; nội dung lý luận của phương pháp; hệ thống biện pháp kỹ
thuật và các thủ thuật có tính sáng tạo. Các yếu tố đó có quan hệ nhân quả với nhau,
trong đó yếu tố thứ nhất có vai trò quan trọng trong chỉ đạo việc lựa chọn PPDH cụ thể
và các phương tiện dạy học phù hợp. Trên cơ sở đó, ông khẳng định: Để xây dựng và
sử dụng có hiệu quả các PPDH cần phải đặc biệt lưu ý đến quan hệ giữa mục tiêu, nội
dung và PPDH; quan hệ giữa đối tượng học tập, người dạy và người học.
Quan tâm hơn về mặt giá trị, các tác giả Đặng Thành Hưng, Trịnh Thị Hồng
Hà, Nguyễn Khải Hoàn và Trần Vũ Khánh [41] cho rằng: Một PPDH hiện đại phải
có tác dụng chuyển những giá trị “dạy người khác muốn học; dạy người khác biết
học; dạy người khác kiên trì học tập; dạy người khác học tập có kết quả” [41, tr.35]
sang bình diện hành động, sang hình thái hiện thực, nhờ vậy gây được ảnh hưởng
vật chất đến người học và quá trình học tập. Nghiên cứu về PPDH còn có tác giả
Thái Duy Tuyên [107]; Nguyễn Đức Trí và Hồ Ngọc Vinh [ 95], tác giả Vũ Hoa
Tươi [109]; tác giả Phạm Viết Vượng [120]; tác giả Bernd Meier, Nguyễn Văn
Cường [62] và các tác giả Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức [35]. Các tác giả đều thống
nhất coi PPDH là một thành tố quan trọng trong cấu trúc của QTDH, xét đến cùng
quyết định đến chất lượng dạy học. Bên cạnh đó, các tác giả còn chỉ ra bản chất,
cấu trúc, nội dung, tính đối tượng cũng như bình diện các cấp độ khác nhau của
PPDH.
Nghiên cứu về PPDH ở nhà trường quân đội, tác giả Lê Minh Vụ (2005)
trong sách “Hoàn thiện phương pháp dạy học các môn khoa học xã hội nhân văn
trong nhà trường quân đội” [117], từ việc chỉ ra bản chất QTDH đại học, đã đặt ra
những yêu cầu cần thiết với PPDH ở đại học: (1) PPDH ở đại học phải tiếp cận với
phương pháp nghiên cứu khoa học; (2) PPDH phải có định hướng nghề nghiệp rõ
ràng; (3) PPDH đại học phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết với thực hành,
hướng vào phát huy cao độ tính tích cực, độc lập nhận thức của người học. Cùng với
quan điểm này còn có tác giả Nguyễn Đình Minh, Nguyễn Văn Chung (2010) với
sách “Vận dụng phương pháp dạy học ở nhà trường quân sự” [64].
Tác giả Trần Đình Tuấn (2013) (chủ biên) giáo trình “Lý luận dạy học đại
học quân sự” [106] luận giải: QTDH đại học quân sự bao gồm: Hoạt động dạy và
hoạt động học trong đó giảng viên phải có cách thức dạy, học viên phải có cách thức
học; hai cách thức đó hợp thành PPDH nhằm thực hiện có hiệu quả mục đích,
16
nhiệm vụ dạy học đã xác định. Bên cạnh các nghiên cứu trên, vấn đề PPDH ở nhà
trường quân đội nói chung, ở đại học quân sự nói riêng còn nhận được sự quan tâm
trong các cuốn sách của tác giả: Nguyễn Chính Trung [97]; Lê Minh Vụ, Hoàng
Đình Châu [118]. Gần đây là kỷ yếu “Phương pháp dạy học các môn Khoa học Xã
hội và Nhân văn trong các nhà trường quân đội” [12], do Tổng cục Chính trị phát
hành.
1.1.1.2. Nghiên cứu về phương pháp dạy học theo hướng
phát triển năng lực
Tác giả Ph. N. Gônôbôlin (1976) với sách “Những phẩm chất tâm lý của
người giáo viên” [30] có cái nhìn tổng quát, sâu sắc về năng lực của người giáo viên
trong Nhà trường Xô Viết. Theo tác giả, năng lực sư phạm là một loại năng khiếu đặc
biệt, giúp cho người giáo viên hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ giảng dạy của mình. Trên
cơ sở tiếp cận QTDH, giáo dục của người giáo viên, tác giả phân chia năng lực của
người giáo viên thành năng lực dạy học và năng lực giáo dục, đồng thời khẳng định:
Năng lực của người giáo viên được hình thành từ nhiều con đường khác nhau, nhưng
con đường quan trọng nhất, chủ yếu nhất đó chính là quá trình hoạt động sư phạm
của họ cùng với sự nỗ lực, sáng tạo không mệt mỏi. Vì vậy, QTDH ở nhà trường bên
cạnh giúp người học lĩnh hội được tri thức cần phải tạo được những điều kiện thuận
lợi, kích thích tính độc lập, sáng tạo của người học [30, tr.112].
Sách “Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở
nhà trường” [81], tác giả Xavier Roegiers (1996) đã chỉ ra nhiệm vụ của nhà trường
ngoài việc trang bị cho học sinh những kiến thức đơn thuần thì cần phải tập trung
dạy cho học sinh có khả năng tìm kiếm, quản lý thông tin và tổ chức kiến thức,
đồng thời phải biết cách sử dụng kiến thức của mình vào giải quyết các tình huống
có ý nghĩa. Từ đó ông khẳng định: “…nhà trường cần phát triển những năng lực ở
học sinh” [81, tr.10-11]. Cách thức để PTNL là phải xây dựng CTĐT theo quan
điểm tích hợp và sử dụng các PPDH yêu cầu người học tích hợp được các kiến thức
thông qua các tình huống dạy học bằng hoạt động độc lập, hoạt động nhóm và
KTĐG [81, tr.138]. Ngoài các nghiên cứu trên còn có các tác giả: Kixegof X.I [ 49];
X.G.Lucônhin và V.V.Xêrê-Bri-an-nhi-cốp [56]. Các tác giả đã bàn đến kỹ năng
giảng dạy của giáo viên và đề xuất các PPDH nhằm PTNL tư duy cho người học.
17
Ở các nước phương Tây, nghiên cứu về các PPDH theo PTNL được bắt
đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX, tiêu biểu là tác giả William E. B (1982) với
sách “Handbook for Developing Competency-Based Training Programs” [134]
(Sổ tay hướng dẫn phát triển các CTĐT dựa trên năng lực), từ việc chỉ ra những
hạn chế trong CTĐT truyền thống, ông cho rằng việc phát triển CTĐT dựa trên
năng lực sẽ khắc phục được những hạn chế như: Tạo cơ hội học tập cho tất cả
mọi người, mọi người đều có cơ hội PTNL của mình, khi tham gia đào tạo dựa
trên năng lực sẽ giúp họ có thể làm chủ công việc trong tương lai, thậm chí làm
chủ ở mức cao. Ở góc độ khác, tác giả Thomas Armstrong (2011) với sách “Đa
trí tuệ trong lớp học” [3] và Raija Roy Singh (1991) với nghiên cứu “Education
for twenty-first century: Asia- Pacific perspective” (Giáo dục cho thế kỷ XXI:
Châu Á- Thái Bình dương) [131] mặc dù chưa đưa ra được quan niệm, nhưng các
tác giả đều khẳng định sự cần thiết phải PTNL cho người học, đồng thời nêu nên
những gợi ý cần thiết cho người giáo viên trong QTDH nhằm PTNL người học.
Cùng hướng nghiên cứu trên, tác giả Thomas Deissinger, Slike Hellwig
(2011) trong “Structures and functions of Competency-based Education and
Training (CBET)” (Các cấu trúc và chức năng của GD&ĐT dựa trên năng lực)
[133] từ việc chỉ ra: Mục tiêu đào tạo theo năng lực là nhằm chuẩn bị cho người học
một cách hiệu quả hơn tại nơi làm việc, có nghĩa là việc trang bị các năng lực có
tính đến các yêu cầu của công ty và ngành nghề cụ thể. Phương thức đào tạo này sẽ
góp phần rút ngắn khoảng cách giữa đào và thực tiễn nghề nghiệp người học. Từ đó
khẳng định: Để thực hiện chương trình CBET phải có sự thay đổi cách dạy truyền
thống sang phối hợp linh hoạt các hoạt động học tập [133, tr. 21].
Sách “Phương pháp dạy học trong đào tạo nghề” [95] của tác giả Nguyễn
Đức Trí và Hồ Ngọc Vinh (2012) là một công trình nghiên cứu khá hoàn chỉnh về
lĩnh vực đào tạo nghề. Trong đó nhiều vấn đề đã được các tác giả giải quyết thấu
đáo như: Phát triển CTĐT nghề; PPDH trong đào tạo nghề; hình thức tổ chức dạy
học nghề… Đặc biệt, các tác giả đã làm rõ sự khác nhau giữa đào tạo theo niên chế
và đào tạo theo năng lực trong đào tạo nghề, từ đó đưa ra những khuyến cáo khi sử
dụng PPDH trong đào tạo nghề phải căn cứ vào nội dung, nhiệm vụ, mục tiêu dạy
18
học cũng như phải chú ý đến đặc điểm của học sinh, năng lực của giáo viên, đồng
thời phải sử dụng tổng hợp các PPDH theo khả năng của từng giáo viên [95, tr.126].
Tác giả Nguyễn Văn Cường, Bernd Meier (2010) với đề tài “Một số vấn đề
chung về đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông” [13] tập
trung làm rõ ưu và nhược điểm của chương trình định hướng nội dung; chương
trình định hướng đầu ra; chương trình định hướng PTNL. Từ đó kết luận: Để khắc
phục tình trạng “hàn lâm, kinh viện” của chương trình giáo dục hiện nay, việc tiếp
cận chương trình giáo dục định hướng đầu ra và định hướng PTNL là sự lựa chọn
tối ưu. Các PPDH phải vừa chú ý tích cực hoá người học về hoạt động trí tuệ, đồng
thời rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống
và nghề nghiệp, gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn [13, tr.31].
Trong luận án tiến sĩ Giáo dục học “Phát triển năng lực dạy học toán cho
sinh viên các trường sư phạm” [96], tác giả Đỗ Thị Trinh (2013) cho rằng chất
lượng đào tạo giáo viên là sản phẩm kết tinh của QTĐT ban đầu ở các nhà
trường sư phạm và toàn bộ QTDH, tự giáo dục, tự nghiên cứu, tự rèn luyện, tự
bồi dưỡng trong hoạt động nghề nghiệp và thực tiễn đa dạng, phong phú [96,
tr28]. Bởi vậy, để PTNL cho sinh viên phải đưa họ vào thực tiễn hoạt động
giảng dạy để có điều kiện rèn luyện và PTNL dạy toán của mình. Cùng hướng
nghiên cứu này còn có các tác giả Mai Trung Dũng [16], Hà Mỹ Hạnh [32] và Lê
Thùy Linh [53]. Các tác giả đều thống nhất cho rằng, để PTNL cho giáo viên
trong QTĐT ngoài việc thiết kế nội dung chương trình theo PTNL cần lựa chọn
các PPDH sát với thực tiễn nghề nghiệp và phát huy vai trò chủ thể của người
học cũng như các phương pháp mang tính cá nhân hóa và hợp tác nhóm.
Bên cạnh nghiên cứu về PPDH nhằm PTNL của sinh viên ở các trường sư
phạm, hướng nghiên cứu về các PPDH nhằm PTNL của sinh viên các trường đại
học cũng dành được sự quan tâm của các tác giả: Đinh Thị Hồng Minh [63];
Đoàn Nguyệt Linh [52]; Phan Anh Tài [85]; Nguyễn Thị Nguyệt [67] và Nguyễn
Trường Vũ [115], mặc dù tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng các tác giả
đều thống nhất cho rằng: Năng lực được hình thành và phát triển trong quá trình
học tập và quá trình hoạt động ở nhà trường. Bởi vậy, QTDH ở nhà trường phải
chuẩn bị cho sinh viên những điều kiện cần thiết để PTNL của họ.
19
Những năm gần đây, vấn đề PPDH theo hướng PTNL cũng được bàn luận
khá sôi nổi ở nhiều tạp chí và hội thảo khoa học, tiêu biểu là tác giả: Trần Đức
Khoản và Nguyễn Hoàng Sơn [46]; Vũ Minh Tâm [86] và Nguyễn Trọng Thiết
[90]. Các tác giả đều cho rằng nhiệm vụ của nhà trường không chỉ dừng lại ở trang
bị cho người học những kiến thức, kỹ năng loài người đã tích lũy được, mà phải bồi
dưỡng những năng lực cần thiết, giúp họ biết vận dụng vào giải quyết các tình
huống trong thực tiễn. Con đường để thực hiện là phải sử dụng PPDH hiện đại với
tổ chức đánh giá theo năng lực, đồng thời giáo viên phải tạo được môi trường thuận
lợi và những tác động tích cực để phát huy vai trò chủ thể của người học.
Trong quân đội, tác giả Lê Minh Vụ (2009) với sách “Quy trình đánh giá
năng lực sư phạm quân sự của đối tượng tuyển chọn đào tạo giảng viên hiện nay”
[119] đã đề cập đến vấn đề năng lực sư phạm, quy trình đánh giá năng lực sư phạm
và đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện quy trình đánh giá năng lực sư
phạm quân sự của đối tượng đào tạo giảng viên. Với cách tiếp cận từ các thành tố
kiến thức, kỹ năng, thái độ tác giả cho rằng: năng lực sư phạm quân sự được hiểu là
sự hoà quyện giữa tri thức, kỹ năng và thái độ của người giảng viên nhà trường
quân đội. Cùng hướng nghiên cứu này, tác giả Nguyễn Bá Hùng (2013) với đề tài
“Nâng cao chất lượng tổ chức thực hành sư phạm cho Học viên sư phạm ở Học
viện Chính trị hiện nay” [39], đã luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn của thực
hành sư phạm và đề xuất các biện pháp tổ chức thực hành sư phạm để rèn luyện
nâng cao năng lực sư phạm cho học viên Hệ Sư phạm.
Luận án tiến sĩ Giáo dục học “Dạy học theo hướng phát triển năng lực của
học viên Trường Sĩ quan Chính trị” [73] của tác giả Trần Xuân Phú (2012), là
công trình nghiên cứu khá hoàn chỉnh về dạy học theo hướng PTNL cho học viên,
trong đó tác giả đã đề xuất các biện pháp vận dụng các PPDH tích cực trong tổ
chức QTDH để PTNL học viên. Ngoài ra, tiếp cận ở góc độ tư duy sáng tạo, tính
sáng tạo của học viên sĩ quan trên bình diện các khoa học: Triết học, Tâm lý học
còn có nghiên cứu của tác giả Đào Văn Tiến [94] và Bùi Tuấn Anh [1].
Những năm gần đây, vấn đề phương pháp, biện pháp PTNL cũng được các
nhà giáo dục, nhà quản lý khác trong quân đội bàn luận sôi nổi tại các hội thảo
khoa học, tiêu biểu có tác giả Nguyễn Văn Hưởng [ 43] và Trương Thành Trung
[101]. Các tác giả đều cho rằng muốn PTNL phải đẩy mạnh đổi mới PPDH, chú
20
trọng vận dụng các PPDH tích cực, phát huy vai trò chủ động và tư duy sáng tạo
của người học kết hợp chặt chẽ với nâng cao chất lượng thực hành, thực tập.
Có thể thấy vấn đề PPDH theo hướng PTNL đã được khá nhiều tác giả
nghiên cứu, mặc dù không đồng nhất cách tiếp cận, nhưng nhìn chung các nghiên
cứu đều thống nhất về quan niệm, vai trò của nhà trường trong PTNL người học,
cũng như sự cần thiết, con đường và biện pháp trong đó có vai trò của PPDH. Tuy
nhiên, các nghiên cứu mới chỉ ra vai trò của PPDH với người học và các dấu hiệu
của PPDH có ảnh hưởng tích cực đến sự PTNL người học, đồng thời khuyến cáo
phương hướng vận dụng các PPDH nhằm tích cực hóa người học, chưa có quan
niệm thống nhất, đầy đủ, phản ánh đúng bản chất của PPDH theo hướng PTNL.
1.1.2. Hướng nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học và đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực
1.1.2.1. Nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học
Tác giả L.V. Zancốp (1970) với sách “Lý luận dạy học và đời sống” [122] đã
đi từ mối tương quan giữa dạy học và sự phát triển để khẳng định: QTDH không
những là một quá trình thu nhận tri thức, mà còn là quá trình phát triển trí tuệ. Trên
cơ sở chỉ ra vai trò của nhân tố PPDH, ông khuyến cáo: Trong QTDH việc lựa chọn
PPDH cần phải hướng tới sự phát triển tư duy tích cực của học sinh: “Người ta đặc
biệt nêu lên ý nghĩa của các phương pháp và hình thức dạy học kích thích được
hoạt động nhận thức tích cực, sinh động của học sinh và đòi hỏi phải áp dụng tri
thức vào trong lao động của họ. Các phương pháp đó cũng có hiệu lực đối với sự
phát triển năng lực, năng khiếu, tính độc lập và óc sáng kiến của các em” [ 122,
tr.22].
Sách “Tổ chức công việc tự học của sinh viên đại học” [29], các tác giả
A.A. Gorokopxki và M.I. Lubixơna (2000) đã tiếp cận đổi mới PPDH từ góc
độ tổ chức hoạt động tự học của sinh viên. Đây là công trình nghiên cứu
những kỹ năng tự học và cách thức chỉ dẫn, định hướng tự học cho sinh viên
đại học, các tác giả khẳng định: “Chỉ có tự học và thông qua tự học mới giúp
cho sinh viên cách thức khai thác, tìm kiếm thông tin và khả năng học tập
suốt đời” [29, tr.96]. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra những biện pháp định hướng
để nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên.
21
Sách “Dân chủ và giáo dục” [15] của John Dewey (2008) là công trình
nghiên cứu công phu về đổi mới PPDH. Xuất phát từ quan niệm: “Toàn bộ những
gì mà nhà trường có thể làm hoặc cần phải làm cho học sinh, trong chừng mực
liên quan đến trí óc của của chúng là phát triển khả năng tư duy của chúng” [ 15,
tr.185], ông đã tìm ra lời giải cho phương hướng đổi mới PPDH, đó là phải hướng
đến phát triển tư duy cho người học: “Con đường duy nhất và trực tiếp đem lại sự
cải tiến lâu dài các phương pháp dạy và học cốt ở việc tập trung vào điều kiện đòi
hỏi, khuyến khích, thử thách tư duy” [15, tr.185]. Từ đó, ông đề xuất một số
PPDH mới như: Nghiên cứu tình huống; dạy học bằng thực nghiệm...
Bộ sách đổi mới PPDH gồm: “Tám đổi mới để trở thành người giáo viên
giỏi” [58] của Giselle O. Martin- Kniep (2011); “Những phẩm chất của người giáo
viên hiệu quả” [84] của James H. Stronge (2011); “Nghệ thuật và khoa học dạy
học” [59] của Robert J.Marzano (2011); “Các phương pháp dạy học hiệu quả” [60]
của Robert J.Marzano, Debra J. Pickering (2011); “Quản lí hiệu quả lớp học” [61]
của Robert J.Marzano, Jana S. Marzano & Debra J. Pickering (2011); “Đa trí tuệ
trong lớp học” [3] của Thomas Armstrong (2011) được xem như cẩm nang cho đội
ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục vì lợi ích thiết thực của nó. Nội dung
sách không đi vào nghiên cứu vấn đề lý luận về đổi mới PPDH, mà chủ yếu đề cập
đến những hành động cụ thể, cần thiết của người giáo viên trong QTDH như: Cách
xây dựng và sử dụng sức mạnh của câu hỏi; cách tích hợp chương trình với vai trò
làm công cụ để đạt sự kết dính; thiết kế chương trình và phương pháp đánh giá theo
chuẩn hay đánh giá sát với thực tế đời sống trong “Tám đổi mới để trở thành người
giáo viên giỏi”, hay là cách vận dụng hiệu quả các PPDH trong “Các phương pháp
dạy học hiệu quả”… Đây là những chỉ dẫn quan trọng giúp cho người giáo viên
vận dụng trong đổi mới PPDH, góp phần nâng cao hiệu quả giờ giảng.
Ở các nước Châu Á phong trào đổi mới PPDH để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu xã hội cũng diễn ra mạnh mẽ, nhất là các nước phát triển
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ. Tiêu biểu là sách “Hiện đại hoá giáo dục Nhật
Bản” [65] của tác giả Toshio Nakuchi, Toshihiko Saito, Ellchi Ameda (2002); “Cải
cách giáo dục cho thế kỷ XXI bảo đảm để dẫn đầu trong kỷ nguyên thông tin và toàn
cầu hoá” [48] dịch giả Nguyễn Quang Kính (2006); “Giáo dục vì cuộc sống sáng
tạo” [57] của Tsunesaburo Makiguchi (2011). Nội dung cốt lõi của sách đã nói nên
22
tính cấp thiết phải đổi mới PPDH ở nhà trường, đồng thời chỉ ra định hướng cơ bản
trong đổi mới PPDH là sử dụng PPDH theo quan điểm lấy người học làm trung tâm
nhằm kích thích tính tích cực trong hoạt động nhận thức của người học.
Ở Việt Nam, tư tưởng về đổi mới PPDH được tác giả Lê Nguyên Long
(1999) đề cập đến trong sách “Thử đi tìm phương pháp dạy học hiệu quả” [54].
Mặc dù không trực tiếp đề cập đến vấn đề đổi mới, song với việc khẳng định
phương hướng hoàn thiện PPDH là cần kết hợp chặt chẽ các PPDH khác nhau, khi
sử dụng PPDH vừa phải thực hiện mục tiêu trang bị kiến thức, kỹ năng, khả năng
vận dụng, vừa khơi dậy và kích thích sự phát triển tiềm năng sẵn có của người học,
cũng như ý tưởng về việc sử dụng các PPDH tích cực như: Nêu vấn đề, tìm tòi
Ơrixtic, hay Stalov…, cho thấy đây là những gợi ý lý thú cho đổi mới PPDH.
Tác giả Trần Bá Hoành (2010) với sách “Đổi mới phương pháp dạy học,
chương trình và sách giáo khoa” [34], đã chỉ ra những hạn chế của PPDH: Sự
chuyển biến về PPDH chậm; phổ biến vẫn là cách dạy thông báo, tái hiện các
kiến thức định sẵn theo kiểu “Thầy đọc, trò chép”. Cách học thụ động, chủ yếu
dựa vào sách vở… [34, tr.80]. Hệ quả là làm cho người học ngày càng thụ động,
sau khi ra trường chưa đáp ứng kịp với đòi hỏi của xã hội. Từ đó, tác giả cho
rằng để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp đổi mới và hội
nhập quốc tế, cần phải đổi mới PPDH. Cốt lõi là phải hướng tới cách học tập chủ
động, chống lại thói quen học tập thụ động. Gần đây nhất là cuốn sách “Phương
pháp và công nghệ dạy học trong môi trường sư phạm tương tác” [33] của tác
giả Phó Đức Hòa và Ngô Quang Sơn (2016), là công trình nghiên cứu khá công
phu về việc sử dụng các PPDH tích cực và ứng dụng công nghệ dạy học trong
mô hình sư phạm tương tác để nâng cao chất lượng dạy học.
Trong đề tài cấp bộ B002-49-TĐ 37 [ 8], tác giả Nguyễn Hữu Chí
(2004) và cộng sự đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của đổi mới
PPDH, từ đó chỉ ra những phương hướng cơ bản đổi mới PPDH ở trung học phổ
thông hiện nay là đổi mới tính chất và nội dung hoạt động của giáo viên và học
sinh từ thụ động một chiều sang học tập tích cực chủ động, sáng tạo; đổi mới các
hình thức tương tác xã hội trong dạy học, chuyển từ dạy học đồng loạt cả lớp,
23
đơn phương sang học tương tác; đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học, gắn
việc học với môi trường thực tế và kinh nghiệm sống cá nhân.
Ở cấp độ luận án tiến sĩ, các nghiên cứu tập trung trên hai hướng chính:
Hướng tiếp cận đổi mới PPDH ở cấp độ quan điểm, lý thuyết dạy học có tác
giả Đinh Thị Dậu (1999) với luận án “Cải tiến nội dung phương pháp dạy học
giáo dục dân số ở các trường cao đẳng sư phạm” [14]; tác giả Trương Thị
Thuý Vân (2009) với đề tài “Đổi mới phương pháp dạy học hoá học theo
hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh ở
trường trung học phổ thông” [113], tác giả Tạ Quang Tuấn (2010) với đề tài
“Tổ chức dạy học dựa vào tương tác người học- người học ở trường cao đẳng”
[105] và tác giả Trần Minh Thịnh (2012) với luận án “Đổi mới phương pháp
dạy học môn hoá học phân tích theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh, sinh viên tại các trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và
dạy nghề” [91]. Các tác giả đều thống nhất cho rằng, để nâng cao chất lượng
giáo dục và chất lượng nguồn nhân lực hiện nay cần phải đổi mới PPDH.
Phương hướng cơ bản là phải trên cơ sở các lý thuyết, quan điểm giáo dục hiện
đại, vận dụng linh hoạt các PPDH để nâng cao tính tích cực trong hoạt động
nhận thức người học.
Tiếp cận đổi mới ở góc độ PPDH có tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền
(2015) với luận án “Phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về triết học ở các trường đại học tại Hà Nội”
[40], tác giả Hoàng Thị Thuỷ (2016) với luận án “Sử dụng phương pháp thuyết
trình theo hướng phát huy tính tích cực của sinh viên trong dạy học môn những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin ở các trường cao đẳng và Đại học
tỉnh Thái Nguyên” [93], Tô Văn Khôi (2013) với luận án “Dạy học giải quyết vấn
đề trong phần lý thuyết cơ sở ở trường cao đẳng kỹ thuật” [47] và Lê Khoa (2016)
với luận án “Vận dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học kiến thức
về sản xuất và sử dụng điện năng cho học sinh trung học phổ thông” [45]. Các tác
giả đã tập trung nghiên cứu làm rõ lý luận, thực tiễn và đề xuất các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc dụng các PPDH trong QTDH.
Những năm gần đây, vấn đề đổi mới PPDH cũng được đề cập trong
nhiều bài báo của các tác giả: Trần Thị Thanh Phương [75]; Ngô Tứ Thành
24
[88]; Đinh Thị Minh Tuyết [108], Nguyễn Thanh Bình [4], Nguyễn Văn Đệ, Lê
Kim Oanh [27], Trần Khánh Đức [28], Nguyễn Việt Hà [31] và Phan Thanh
Long [55]. Mặc dù không đồng nhất cách tiếp cận, song các nghiên cứu đều
khẳng định sự cần thiết và con đường, biện pháp đổi mới PPDH hiện nay để
đáp ứng yêu cầu sự phát triển của nội dung dạy học và yêu cầu thực tiễn là phải
trên cơ sở quan điểm giáo dục hiện đại, vận dụng linh hoạt các quan điểm,
PPDH tạo môi trường tương tác sư phạm thuận lợi để người học phát huy tối
đa vai trò chủ thể, tính tích cực, tự giác, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo.
Trong quân đội tiêu biểu có tác giả Lê Minh Vụ (1999) với sách “Đổi mới
phương pháp dạy học trong các trường đại học quân sự” [116]. Trên cơ sở tổng
quan các công trình nghiên cứu trước đó, tác giả đã khẳng định vấn đề then chốt và
cấp bách của việc đổi mới PPDH ở đại học quân sự là: “Loại trừ khỏi hoạt động dạy
học các cách thức dạy học nhồi nhét, thụ động, nặng về lý thuyết tách rời với cuộc
sống hoạt động quân sự, đồng thời xây dựng một hệ thống phương pháp dạy học
mang tính tích cực, gắn chặt với việc nâng cao tay nghề, khả năng tư duy sáng tạo,
khả năng tự học, tự nghiên cứu suốt đời của người học” [116, tr.33], từ đó tác giả đã
đề xuất những phương hướng cơ bản đổi mới PPDH ở đại học quân sự. Kết quả
nghiên cứu này đã được tác giả Nguyễn Đình Minh, Nguyễn Văn Chung (2010) kế
thừa và phát triển trong “Vận dụng phương pháp dạy học ở nhà trường quân sự”
[64], các tác giả cho rằng: PPDH ở nhà trường quân đội hết sức phong phú, đa dạng,
luôn vận động, phát triển cùng với sự vận động, phát triển của thực tiễn dạy học và
thực tiễn phát triển của khoa học công nghệ. Do đó, đổi mới PPDH là yêu cầu tất yếu
trong QTDH. Vấn đề đổi mới PPDH còn được tác giả Nguyễn Xuân Sinh (2014) và
cộng sự làm rõ hơn trong đề tài “Giải pháp gắn đổi mới nội dung với đổi mới
phương pháp dạy học các môn Khoa học Xã hội và Nhân văn ở Học viện Chính trị”
[82], theo tác giả đổi mới PPDH hiện nay là đổi mới cách dạy, cách học, chuyển từ
truyền thụ kiến thức một chiều sang sử dụng tổng hợp các PPDH hiện đại kết hợp với
truyền thống, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, PTNL của người học.
Bên cạnh hướng nghiên cứu trên, tiếp cận đổi mới PPDH theo hướng vận
dụng các PPDH tích cực vào QTDH ở nhà trường quân đội cũng được đề cập
trong đề tài luận án tiến sĩ của các tác giả: Nguyễn Văn Phán (2000) với luận án
“Vận dụng phương pháp sơ đồ hoá (Graph) trong dạy học các môn khoa học xã
- Xem thêm -