Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn an toàn lao động theo pháp luật lao động việt nam từ thực tiễn quảng n...

Tài liệu Luận văn an toàn lao động theo pháp luật lao động việt nam từ thực tiễn quảng ninh

.PDF
76
162
89

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ NGỌC HẢI AN TOÀN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, NĂM 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ NGỌC HẢI AN TOÀN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẢNG NINH Ngành: Luật Kinh Tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ THÚY NGA HÀ NỘI, NĂM 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, luận văn với đề tài “An toàn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, những kết quả nêu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác trước đây. Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2019 Tác giả Đỗ Ngọc Hải MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................ 6 1.1. Khái quát chung về an toàn lao động ................................................. 6 1.2. Pháp luật an toàn lao động ở Việt Nam hiện nay .............................. 8 Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TẠI TỈNH QUẢNG NINH .. 36 2.1. Giới thiệu chung tỉnh Quảng Ninh và các đặc điểm ảnh hưởng đến triển khai và thực hiện pháp luật an toàn lao động .......................... 36 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật ATLĐ tại tỉnh Quảng Ninh .............. 38 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN CỦA TỈNH QUẢNG NINH .................................................. 55 3.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật ATLĐ .......... 55 3.2. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật an toàn lao động và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật toàn lao động từ thực tiễn Quảng Ninh .............................................................................. 59 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO ...................................................... 68 DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ AT,VSLĐ : An toàn vệ sinh lao động AT,VSV : An toàn vệ sinh viên BHLĐ : Bảo hộ lao động CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CSPL : Chính sách pháp luật DN : Doanh nghiệp ILO : Tổ chức lao động quốc tế KHKT : Khoa học kĩ thuật LĐTB&XH : Lao động thương binh và xã hội PCCC : Phòng cháy chữa cháy PCCN : Phòng chống cháy nổ SXKD : Sản xuất kinh doanh TNLĐ : Tai nạn lao động TTLĐ : Thanh tra lao động DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Thống kê TNLĐ của Việt Nam từ năm 2014-2018 ....................... 29 Bảng 1.2. Bộ máy thực hiện công tác AT,VSLĐ ở một số địa phương ......... 33 Bảng 2.1.Một số hoạt động tuyên truyền ATLĐ của Quảng Ninh từ 2016-2018 ........................................................................................... 43 Bảng 2.2. Số liệu công tác huấn luyện ATLĐ của Quảng Ninh từ 20162018 ..................................................................................................... 45 Bảng 2.3. Số liệu tai nạn lao động trên địa bànQuảng Ninh từ 2014-2018 .... 48 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để góp phần hạn chế và ngăn ngừa nguy cơ gây tai nạn lao động, Việt Nam đã ban hành các Nghị quyết, Luật, Văn bản luật, Thông tư liên tịch, Thông tư, Tiêu chuẩn, Quy chuẩn về ATLĐ từ năm 1964, các quy định này nằm trong hệ thống pháp luật lao động và là một chương trong Bộ Luật lao động. Đến ngày 25 tháng 6 năm 2015, Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật an toàn vệ sinh lao động số 84/2015/QH13, luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016. Mặc dù vậy vẫn còn nhiều doanh nghiệp, người lao động chưa nhận thức được rõ vai trò của việc đảm bảo an toàn cho người lao động, những yêu cầu của pháp luật về an toàn lao động; bên cạnh đó hệ thống pháp luật của Việt Nam về công tác ATLĐ tuy đã được chỉnh sửa bổ sung nhiều lần nhưng vẫn chưa hoàn thiện, mức độ điều chỉnh hành vi thấp; công tác quản lý của Nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo nên chưa phát huy được hết hiệu quả trong ngăn ngừa nguy cơ tai nạn lao động. Quảng Ninh là tỉnh có nhiều ngành kinh tế quan trọng như sản xuất than, điện, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng, cảng biển, cửa khẩu, du lịch, dịch vụ; trong đó số công nhân làm việc trong các ngành nghề nặng nhọc độc hại có nguy cơ gây ra TNLĐ cao, chiếm tỷ lệ lớn khoảng 180.000 người. Năm 2018, trên địa bàn tỉnh xảy ra 562 vụ TNLĐ làm 567 người bị nạn, trong đó: số vụ TNLĐ chết người là 17 vụ, số người chết là 17 người; số người bị thương là 557 ngườiảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh [13, tr.20]. Trong thực tiễn thực hiện pháp luật an toàn lao động tại Quảng Ninh, nhiều vấn đề phát sinh chưa được pháp luật an toàn lao động điều chỉnh do đó tôi lựa chọn đề tài “An toàn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn Quảng Ninh” để nghiên cứu đề xuất giải quyết vấn đề này. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài - Các đề tài nghiên cứu về công tác ATLĐ chủ yếu trong lĩnh vực quản lý, lĩnh vực khoa học kỹ thuật nhằm xây dựng các mô hình quản lý và các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về ATLĐ. Từ năm 1990 đến năm 2012 một số tác giả như Nguyễn An Lương, Phùng Huy Dật đã có những nghiên cứu tạo nền tảng cho việc pháp triển các quy định của phápluật ATLĐ như: "Những vấn đề cơ bản, những quy định chủ yếu của pháp luật, thực trạng và giải pháp về Bảo hộ lao động ở nước ta"; "Vấn đề xây dựng luật lệ, chế độ chính sách về BHLĐ ở Việt Nam" đây là những công trình nghiên cứu mà kết quả được dùng làm cơ sở để xây dựng những quy định pháp luật về an toàn lao động (Bảo hộ lao động) ở nước ta. Các nghiên cứu này đưa ra sự cần thiết phải xây dựng luật lệ, chế độ chính sách về BHLĐ ở Việt Nam nhằm đáp ứng các yêu cầu của Tổ chức lao động quốc tế ILO tại Công ước số 155 năm 1981 về an toàn lao động, vệ sinh lao động và môi trường làm việc mà Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập ngày 3/10/1994 tại Hà Nội. Các nghiên cứu đã góp phần cho ra đời những quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động với 14 điều (từ điều 95 đến điều 108) trong chương IX, Bộ luật Lao động năm 1994. Quy định các nguyên tắc về an toàn lao động này được sửa đổi bổ sung và hoàn thiện theo Bộ luật lao động năm 2012. - Từ năm 2012, để đáp ứng nhu cầu phát triển, Bộ lao động Thương binh & Xã hội đã chủ trì cùng một số tác giả nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật AT,VSLĐ của nước ta trong đó có nghiên cứu của Nguyễn An Lương về "Những vấn đề quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nước về AT,VSLĐ và các yêu cầu mới ở trong nước và quốc tế cần được quan tâm nghiên cứu khi xây dựng dự thảo Luật AT,VSLĐ của nước ta"; tài Liệu Hội thảo quốc gia "Những nội dung cần nghiên cứu để đưa vào dự thảo luật AT,VSLĐ" của Hội AT,VSLĐ Việt Nam, năm 2012. Các nghiên cứu đã chỉ ra 06 bất cập trong 2 qui định về AT, VSLĐ (quy định phân tán, chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển, đối tượng điều chỉnh chưa đầy đủ, chưa thu hút và huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội cho công tác ATLĐ, chính sách bảo hiểm tai nạn lao động chưa được đề cập) và đưa ra các giải pháp về tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật (tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học về AT,VSLĐ; kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ làm công tác AT,VSLĐ phù hợp; chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trong công tác ATLĐ; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về ATLĐ). Các kết quả nghiên cứu đã chứng minh sự cần thiết phải có luật chuyên ngành về ATLĐ nói chung và AT,VSLĐ nói riêng. Kết quả nghiên cứu đã góp phần để Quốc hội Nước Việt Nam thông qua Luật AT,VSLĐ vào ngày 25 tháng 06 năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016; đây là Luật nằm trong hệ thống pháp luật lao động nói chung và có hiệu lực song hành với các quy định về AT,VSLĐ trong chương IX của Bộ Luật lao động 2012. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu một số vấn đề chung về an toàn lao động và pháp luật về an toàn lao động trong pháp luật lao động nói chung và luật AT,VSLĐ nói riêng; đánh giá thực trạng quy định pháp luật Việt Nam, thực tiễn thực hiện pháp luật an toàn lao động tại Quảng Ninh, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về an toàn lao động, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật từ kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nên trên, Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: Một là, hệ thống hóa các nội dung cơ bản về pháp luật an toàn lao động ở Việt Nam hiện nay; 3 Hai là, phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện luật an toàn lao động ở Quảng Ninh, chỉ ra những thành tựu và bất cập, nguyên nhân của những bất cập, tồn tại đó; Ba là, đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật an toàn lao động; Bốn là, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật an toàn lao động từ kinh nghiệm của Quảng Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về an toàn lao động Việt Nam hiện nay và thực tiễn thực hiện tại Quảng Ninh. - Phạm vi nghiên cứu: Các số liệu về an toàn lao động trong phạm vi tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014-2018. Do hạn chế về điều kiện nghiên cứu, luận văn không nghiên cứu các nội dung về thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về an toàn lao động. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận đề nghiên cứu dựa trên cơ sở các quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật AT,VSLĐ. - Phương pháp cụ thể: phương pháp lịch sử được áp dụng trong việc đánh giá quá trình hình thành và phát triển của pháp luật an toàn lao động; phương pháp phân tích được áp dụng để phân tích một số tình huống cụ thể phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật an toàn lao động; phương pháp tổng hợp, so sánh dùng trong việc tổng hợp, so sánh các số liệu thống kê về tai nạn lao động và các hoạt động trong công tác đảm bảo an toàn lao động để làm rõ từng mặt, từng lĩnh vực của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đề tài góp phần hệ thống lại toàn bộ những quy định về An toàn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam, có phân tích đánh giá điểm mới của 4 từng giai đoạn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra những bất cập tồn tại hiện nay mà pháp luật an toàn lao động chưa điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa sát thực tế dễ gây phát sinh tranh chấp trong quan hệ lao động; qua đó đề xuất một số giải pháp khắc phục vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn sẽ gồm các chương sau: Chương 1: Khái quát chung về an toàn lao động và pháp luật an toàn lao động ở Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật an toàn lao động tại tỉnh Quảng Ninh. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật an toàn lao động từ thực tiễn của tỉnh Quảng Ninh. 5 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái quát chung về an toàn lao động 1.1.1. Khái niệm an toàn lao động Từ năm 1995, khi Bộ Luật lao động có hiệu lực, tên gọi "An toàn, vệ sinh lao động” chính thức được sử dụng làm tiêu đề của Chương IX trong Bộ luật Lao động; hai thuật ngữ Bảo hộ lao động và An toàn vệ sinh lao động đều phổ biến trong trong văn bản pháp luật với ý nghĩa tương đồng, chưa có các khái niệm độc lập về ATLĐ. Ngày 25 tháng 6 năm 2015, Luật An toàn vệ sinh lao động số 84/2015/QH13 được Quốc hội nước Việt Nam thông qua ngày và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016, tại điều 3, Luật an toàn vệ sinh lao động lần đầu tiên đề cập đến khái niệm an toàn lao động riêng biệt "An toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với con người trong quá trình lao động". Bên cạnh khái niệm về an toàn lao động còn có một số khái niệm liên quan có tác dụng làm rõ hoặc chỉ ra các nguyên nhân, nguy cơ gây ra tai nạn lao động, như: - Yếu tố nguy hiểm là yếu tố gây mất an toàn, làm tổn thương hoặc gây tử vong cho con người trong quá trình lao động. - Sự cố kỹ thuật gây mất an toàn lao động là hư hỏng của máy, thiết bị, vật tư, chất vượt quá giới hạn an toàn kỹ thuật cho phép, xảy ra trong quá trình lao động và gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt hại cho con người, tài sản và môi trường. 6 - Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động. Từ khái niệm về an toàn lao động, khái niệm tai nạn lao động, điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động "Kể cả khi đang thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cần thiết tại nơi làm việc hoặc trong giờ làm việc mà Bộ luật lao động và nội quy của cơ sở sản xuất, kinh doanh cho phép, bao gồm nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, làm vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh; trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý"[19,tr.31] cho thấy khái niệm về an toàn lao động chưa thể hiện rõ các nội dung tương ứng với điều kiện chi trả chế độ tai nạn lao động. Do đó, theo tác giả nên bổ sung để đảm bảo tính thống nhất trong pháp luật an toàn lao động với khái niệm như sau"An toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với con người trong quá trình lao động và quá trình thực hiện các công việc liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ được giao". 1.1.2. Đặc điểm của an toàn lao động [16, tr.11] - Mang tính pháp luật: Tất cả những chế độ, chính sách, quy phạm, tiêu chuẩn của Nhà nước về an toàn lao động đã ban hành đều mang tính pháp luật. Pháp luật an toàn lao động được ban hành nhằm bảo vệ người lao động trong sản xuất, nó là cơ sở pháp lý bắt buộc các tập thể cá nhân có tham gia vào hoạt động lao động phải có tránh nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện. - Tính khoa học - kỹ thuật: Mọi hoạt động trong công tác an toàn lao động từ điều tra, khảo sát điều kiện lao động, phân tích đánh giá các yếu tố nguy hiểm, độc hại và ảnh hưởng của chúng đến an toàn lao động cho đến việc đề xuất và thực hiện các giải pháp phòng ngừa, xử lý khắc phục đều phải 7 vận dụng các kiến thức lý thuyết và thực tiễn trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật chuyên ngành hoặc tổng hợp nhiều chuyên ngành, nhiều lĩnh vực như thông gió, chiếu sáng, cơ khí, tâm sinh lý học lao động... - Mang tính xã hội rộng rãi: An toàn lao động liên quan đến tất cả mọi người tham gia sản xuất. Người lao động chính là người vận hành, sử dụng các dụng cụ, thiết bị máy móc, nguyên vật liệu nên họ có thể phát hiện được những thiếu sót trong công tác an toàn lao động, đóng góp xây dựng các biện pháp ngăn ngừa, đóng góp xây dựng hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy phạm an toàn lao động. 1.2. Pháp luật an toàn lao động ở Việt Nam hiện nay 1.2.1. Khái niệm pháp luật an toàn lao động Pháp luật về an toàn lao động là toàn bộ các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ, xác định trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, người sử dụng lao động, người lao động, các cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ quan, đơn vị, người quản lý trong lĩnh vực an toàn lao động [16,tr.8]. Tác giả có thể khẳng định đây là khái niệm đầy đủ và bao trùm nhất về phát luật an toàn lao động. 1.2.2. Đặc điểm của pháp luật an toàn lao động - Pháp luật về an toàn lao động có tính chất quyền uy và phục tùng, được quy định theo các bước rất chặt chẽ, đòi hỏi phải thực thi nghiêm chỉnh, vì nếu không tuân thủ hoặc tuân thủ không đến nơi, đến chốn sẽ dẫn đến nguy cơ tai nạn lao động. Nội dung quy phạm an toàn lao động không có sự thỏa thuận hay bình quyền mà chỉ có thuộc tính “bắt buộc” hay nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện. Bởi các quy định này liên quan trực tiếp đến sức khỏe, thể lực và sinh mạng con người, liên quan nhiều đến trình tự và thủ tục phức tạp buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt, trong quá trình áp dụng nếu không hậu quả sẽ khó lường. 8 - Pháp luật về ATLĐ chịu sự tác động rất lớn của các văn bản pháp luật của nhiều cơ quan và lĩnh vực khác nhau; vì ở nơi nào có sản xuất, kinh doanh, có lao động thì ở đó có nguy cơ mất ATLĐ cho nên các cơ quan có thẩm quyền phải có các quy định riêng nhằm bảo đảm an toàn lao động cho lĩnh vực đó. Cũng do tính đặc thù của ATLĐ mà phạm vi điều chỉnh rất rộng, phủ kín toàn bộ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cả trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài có sử dụng người lao động; các trang trại, trong nông nghiệp, trong các cơ quan hành chính… miễn là ở đó có hoạt động lao động, làm việc. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về an toàn cũng vì thế rất phong phú bao gồm mọi người lao động có giao kết hay không có giao kết hợp đồng lao động đang làm việc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy pháp luật về an toàn lao động có tác động sâu, rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi, mọi cấp, mọi ngành, mọi cơ quan, tổ chức, hiệp hội, mọi cá nhân có liên quan đều phải thực hiện. Pháp luật về an toàn lao động vì thế có vị thế quan trọng trong các chính sách của Nhà nước. - Các quy định về ATLĐ có tính phòng ngừa cao, bởi nếu vi phạm các quy định ấy sẽ dẫn đến mất người, mất của, sự thiệt hại cả vật chất và tinh thần là vô cùng lớn, do vậy các quy định về ATLĐ phải chặt chẽ và phải được đảm bảo thực hiện, không để xảy ra mất an toàn. Trong pháp luật về ATLĐ thì tính phòng ngừa có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì sự phòng ngừa càng tốt bao nhiêu, càng chuẩn bị kỹ bao nhiêu thì hiệu quả của ATLĐ càng tốt bấy nhiêu. Nguợc lại nếu các biện pháp phòng ngừa không được chuẩn bị kỹ luỡng sẽ gây mất ATLĐ, dẫn đến mất nguời, mất của và sự trả giá là không tính đuợc. Do tính phòng ngừa là một trong những đặc điểm riêng có của pháp luật về ATLĐ, nên các quy định về an toàn lao động phải tính đến các điều kiện, yếu tố ảnh hưởng, tác động đến điều kiện lao động mà trước khi 9 hoạt động, những đối tượng liên quan có trách nhiệm phải chuẩn bị và có kế hoạch chu đáo. - Pháp luật về ATLĐ có tính quần chúng. Chỉ khi mọi người lao động và người sử dụng lao động nhận thức rõ tầm quan trọng của ATLĐ và tự giác thực hiện thì mới đạt hiệu quả. Bởi nguời lao động là những người trực tiếp thực hiện quy phạm, quy chuẩn kỹ thuật và các biện pháp kỹ thuật an toàn, tự mình gánh chịu hậu quả nếu vi phạm và cũng thường là người đầu tiên phát hiện sự cố, sai sót để đề xuất cách thức cải tiến kỹ thuật, biện pháp an toàn; do vậy chỉ khi chính họ tự giác thực hiện thì yếu tố phòng ngừa mới hiệu quả. - Các quy định về an toàn lao động mang tính chất khoa học kĩ thuật rõ nét: Các biện pháp nhằm hạn chế, loại trừ các yếu tố nguy hiểm, tác động đến thân thể người lao động trong quá trình làm việc đều dựa trên những cơ sở khoa học- tự nhiên; bao gồm các hoạt động điều tra, kiểm soát điều kiện lao động; phân tích, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố nguy hiểm đối với người lao động; giải quyết xử lý điều kiện, môi trường lao động; ban hành các tiêu chuẩn kĩ thuật an toàn lao động đối với từng ngành nghề, lĩnh vực; cải tiến trang thiết bị kĩ thuật, công nghệ sản xuất...Các quy định về tiêu chuẩn kĩ thuật đối với môi trường làm việc, điều kiện làm việc, máy móc thiết bị... là những quy định thể hiện kết quả cuối cùng của việc nghiên cứu các yếu tố khoa học- kĩ thuật, sinh học trong môi trường làm việc và sự ảnh hưởng của nó đến sức khỏe, tính mạng của người lao động trong môi trường tương ứng. 1.2.3. Mục đích, ý nghĩa của pháp luật an toàn lao động - Mục đích của pháp luật an toàn lao động: Pháp luật an toàn lao động được xây dựng để mọi người quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh nhằm giảm thiểu tai nạn lao động trong sản xuất, kinh doanh. - Ý nghĩa của của pháp luật an toàn lao động: 10 + Ý nghĩa chính trị- pháp lý: Pháp luật về ATLĐ thể hiện chủ trương, quan điểm và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đối với nguồn nhân lực của Quốc gia nói riêng đối với con người nói chung; coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Một đất nước có tỷ lệ tai nạn lao động thấp, người lao động khoẻ mạnh là một xã hội luôn luôn coi con người là vốn quý nhất, sức lao động, lực lượng lao động luôn luôn được bảo vệ và phát triển. Pháp luật an toàn động được thực hiện tốt sẽ góp phần tích cực chăm lo bảo vệ tính mạng và đời sống người lao động, biểu hiện quan điểm quần chúng, quan điểm quý trọng con người của Đảng và Nhà nước, vai trò của con người trong xã hội được tôn trọng. Ngược lại, nếu công tác này không được thực hiện tốt, điều kiện lao động của người lao động tiềm ẩn nhiều nguy cơ dễ xảy ra tai nạn lao động nghiêm trọng thì uy tín của chế độ, uy tín của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút. + Ý nghĩa xã hội: An toàn lao động là chăm lo đến đời sống, hạnh phúc của người lao động. Đây vừa là yêu cầu thiết thực của các hoạt động sản xuất kinh doanh; đồng thời là yêu cầu, là nguyện vọng chính đáng của người lao động. Pháp luật an toàn lao động cùng với chính sách lao động sẽ đảm bảo cho xã hội trong sáng, lành mạnh, mọi người lao động được sống khoẻ mạnh, làm việc có hiệu quả cao và có vị trí xứng đáng trong xã hội, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ khoa học kỹ thuật. Tai nạn lao động không xảy ra, sức khoẻ, tính mạng của người lao động được đảm bảo thì Nhà nước và xã hội sẽ giảm bớt được những tổn thất trong việc khắc phục hậu quả và tập trung đầu tư cho các công trình phúc lợi xã hội. + Ý nghĩa kinh tế: Thực hiện tốt pháp luật về ATLĐ sẽ đem lại lợi ích kinh tế rõ rệt. Trong sản xuất, nếu người lao động được bảo vệ tốt, điều kiện làm việc đảm bảo, không có nguy cơ bị tai nạn lao động thì sẽ an tâm, phấn khởi sản xuất, sẽ có ngày công, giờ công cao, năng suất lao động cao, chất 11 lượng sản phẩm tốt, luôn luôn hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất và công tác góp phần để đời sống vật chất và tinh thần của cá nhân người lao động và tập thể lao động được cải thiện. 1.2.4. Các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam về an toàn lao động Nguyên tắc cơ bản của pháp luật an toàn lao động là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng các quy định của pháp luật an toàn lao động. Thứ nhất, Nhà nước thống nhất quản lý về an toàn lao động: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay ATLĐ đang đặt ra nhiều vấn đề ngày càng bức xúc, đòi hỏi phải có sự quản lý thống nhất của Nhà nước - Tổ chức có đủ quyền năng và sức mạnh cưỡng chế với bộ máy từ Trung ương đến cơ sở đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả các hoạt động quản lý an toàn lao động. Quản lý Nhà nước về ATLĐ là một tiền đề pháp lý nhằm thiết lập điều kiện vật chất cho việc thực thi pháp luật an toàn lao động trong thực tế. Thứ hai, Đảm bảo an toàn lao động cho mọi đối tượng tham gia lao động. Khi tiến hành hoạt động sản xuất, người lao động vừa tác động tới môi trường xung quanh vừa chịu các tác động ngược trở lại của môi trường nơi họ lao động. Để chạy theo lợi nhuận, người sử dụng lao động có thể giảm thiểu mọi chi phí, bao gồm cả chi phí đảm bảo điều kiện an toàn cho người lao động. Nếu không giải quyết thỏa đáng vấn đề an toàn lao động thì nền kinh tế không đảm bảo sự phát triển bền vững. Điều kiện lao động không an toàn không chỉ ảnh hưởng tới người lao động trực tiếp mà còn có tác động xấu tới thế hệ tương lai. Vì vậy, đảm bảo an toàn là đảm bảo sức khỏe, tính mạng người lao động, duy trì nền sản xuất ổn định và tạo tiền đề góp phần cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Thứ ba, thực hiện an toàn lao động là nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên trong quan hệ lao động: Để các quy định của pháp luật về ATLĐ được thực 12 hiện có hiệu quả, các chủ thể tham gia quan hệ lao động bắt buộc phải tuân thủ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo những quy định mà pháp luật đã ban hành. Các quy định về ATLĐ không chỉ có ý nghĩa bắt buộc đối với người sử dụng lao động, người lao động mà còn đặt ra đối với “mọi tổ chức và cá nhân có liên quan”. Nguyên tắc này được quán triệt xuyên suốt trong quá trình xác lập quan hệ lao động cũng như quá trình thực hiện quy trình lao động, sản xuất. Thực hiện tốt nguyên tắc này trên thực tế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và hạn chế đến mức thấp nhất các tai nạn lao độngcó thể xảy ra. Thứ tư, đảm bảo sự tham gia, giám sát của của tổ chức Công Đoàn; Mặt Trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị trong lĩnh vưc an toàn lao động: Tại điều 9, điều 10 Luật an toàn vệ sinh lao động quy định rõ quyền, trách nhiệm của công đoàn và công đoàn cơ sở trong công tác an toàn lao động; tại điều 11 quy định rõ quyền và nghĩa vụ của Mặt Trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị; đây chính là những điểm mới trong các văn bản pháp luật an toàn lao động qua đó thể hiện trách nhiệm của xã hội đối với công tác an toàn, đồng thời nhấn mạnh việc đảm bảo an toàn lao động không chỉ còn bó hẹp trong lĩnh vực có quan hệ lao động mà còn phải được quan tâm đến trong cả lĩnh vực không có quan hệ lao động như nông nghiệp. Thứ năm, tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn trong các Công ước có liên quan đến an toàn lao động mà Việt Nam đã phê chuẩn: Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia và phê chuẩn rất nhiều Công ước quốc tế và khu vực; trong lĩnh vực an toàn lao động, Công ước 155 năm 1981 về an toàn lao động của ILO được coi như một Công ước toàn diện và đầy đủ nhất về an toàn lao động. Theo Công ước này, các Quốc gia thành viên phải có hệ thống chính sách về an toàn lao động trong mọi ngành nghề. Việt 13 Nam là nước đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn Công ước này; điều này thể hiện quan điểm của Việt Nam trong việc đảm bảo an toàn cho người lao động. 1.2.5. Nội dung của pháp luật an toàn lao động 1.2.5.1. Quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đối với an toàn lao động. Pháp luật an toàn lao động quy định về quyền trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác đảm bảo an toàn lao động trong đó có những quy định rất rõ ràng, cụ thể: Tạo điều kiện thuận lợi để người sử dụng lao động, người lao động, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn lao động; đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ về an toàn lao động; hỗ trợ phòng ngừa tai nạn lao động các ngành, lĩnh vực có nguy cơ cao về tai nạn lao động; hỗ trợ huấn luyện an toàn cho người làm việc không theo hợp đồng lao động làm các công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động; phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện. Bảo đảm quyền của người lao động được làm việc trong điều kiện an toàn; tuân thủ đầy đủ các biện pháp an toàn trong quá trình lao động. Thứ nhất, quy định quyền và nghĩa vụ về ATLĐ của người lao động [19,tr.3]. - Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn lao động; yêu cầu người sử dụng lao động có trách nhiệm bảo đảm điều kiện làm việc an toàn; được cung cấp thông tin về an toàn lao động; được thực hiện chế độ bảo hộ lao động; được người sử dụng lao động đóng bảo hiểm tai nạn lao động; được hưởng đầy đủ chế độ đối với người bị tai nạn lao động; được trả phí khám giám định thương tật, bệnh tật do tai nạn lao động; được yêu cầu người sử dụng lao động bố trí công việc phù hợp sau khi điều trị ổn định do bị tai nạn lao động; được từ chối làm công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc mà vẫn được trả lương và không 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan