VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN SỸ CÂY
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN SỸ CÂY
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu khoa học này là độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả được viết trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ............................................ 7
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt ........................................ 7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng hình phạt ...... 19
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH, YÊU CẦU VÀ
CÁC GIẢI PHÁP .......................................................................................... 28
2.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Quế Võ,
tỉnh Bắc Ninh ............................................................................................ 28
2.2. Yêu cầu và các kiến nghị về hoạt động áp dụng hình phạt................ 44
KẾT LUẬN .................................................................................................... 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 60
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADHP
: Áp dụng hình phạt
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê các loại vụ án đã xét xử tại TAND huyện Quế Võ ........ 29
Bảng 2.2. Kết quả áp dụng các loại hình phạt của TAND huyện Quế Võ ..... 31
Bảng 2.3. Kết quả áp dụng các loại hình phạt của TAND huyện Quế Võ ..... 32
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với mục tiêu bảo đảm sự ổn định và phát triển đất nước, bên cạnh việc
áp dụng các biện pháp như giáo dục, chính trị, kinh tế…thì việc quản lý nhà
nước bằng pháp luật mà cụ thể là hình phạt là một trong những công cụ hữu
hiệu nhất để bảo đảm an ninh và trật tự xã hội tại Việt Nam hay bất kỳ một
quốc gia nào trên thế giới. Trong pháp luật hình sự Việt Nam, khái niệm hình
phạt được quy định lần đầu tiên tại Điều 26 BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ
sung năm 2009. BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã bổ sung
thêm chủ thể tội phạm là pháp nhân thương mại.
Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án, BLHS, BLTTHS đều khẳng định Tòa
án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, chỉ có Toà án mới
có quyền xét xử và ra bản án hình sự bằng hình phạt. Tội phạm là cơ sở phải
chịu hình phạt, ngược lại hình phạt là hậu quả pháp lý của tội phạm nhằm
trừng trị vào giáo dục người phạm tội, giáo dục người khác tôn trọng pháp
luật, đấu tranh phòng chống tội phạm.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói chung và trên
địa bàn huyện Quế Võ nói riêng, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp; về
tính chất, mức độ, phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Bên cạnh đó,
TAND huyện Quế Võ không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động xét
xử, trong đó có hoạt động ADHP và đã đạt được nhiều kết quả đáng trân
trọng. Tuy nhiên, quá trình ADHP của Toà án nhân dân huyện Quế Võ vẫn
còn những thiếu sót, vi phạm như: ADHP không đúng, ADHP khi chưa đánh
giá được toàn diện, đầy đủ chứng cứ. Từ những phân tích trên, nhằm tiếp tục
nghiên cứu lý luận thông qua thực tiễn tình hình tội phạm tại huyện Quế Võ,
tỉnh Bắc Ninh, học viên đã mạnh dạn lựa chọn: " Áp dụng hình phạt từ thực
tiễn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu có nội dung liên
quan đến đề tài này. Cụ thể: Luận án tiến sĩ của tác giả Chu Thị Trang Vân:
“Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Tòa án Việt Nam ”, năm 2009; Tác giả Lưu Tiến Dũng với bài: “Bàn
về áp dụng pháp luật trong công tác xét xử”, Tạp chí TAND, số tháng
5/2005- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Đức Hiệp: “Áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử án hình sự của TAND ở tỉnh Ninh Bình”, năm 2004; Luận văn thạc sĩ của tác giả Đàm Cảnh Long: “Áp dụng pháp luật hình sự
của TAND (qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)”, năm 2012; - Tác giả Nguyễn
Ngọc Chí với bài: “Chức năng của Tòa án trong TTHS trước yêu cầu cải
cách tư pháp”, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009; - Tác
giả Trịnh Quốc Toản với bài: “Những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện hình
phạt bổ sung trong BLHS 1999 và nâng cao hiệu quả của chế định này trong
thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 26
(2010); - Tác giả Trịnh Quốc Toản với bài: “Một số lý luận về hình phạt
trong Luật hình sự”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 27
(2011); - Tác giả Trịnh Tiến Việt và Trần Thị Quỳnh với bài: “Miễn hình
phạt theo Luật hình sự Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 27 (2011); Luận văn thạc sĩ của
tác giả Trần Văn Kiểm: "Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự
của TAND ở tỉnh Nam Định", năm 2010; Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Xuân
Thân: "Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện
nay", năm 2004; Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Kim Chung: "Vi phạm
pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay",
năm 2005; Tác giả Lưu Tiến Dũng với bài: "Bàn về áp dụng pháp luật trong
công tác xét xử", Tạp chí TAND, số tháng 5/2005; - Luận văn thạc sĩ của tác
2
giả Nguyễn Đình Tuyên: “Quyết định hình phạt trong đồng phạm theo luật
hình sự Việt Nam”, năm 2015; - Luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Thị Minh
Loan: “ADHP theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiến huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội”, năm 2017; …
Các công trình đi trước đã đưa ra bàn luận và giải quyết nhiều vấn đề
bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đặt ra, mỗi công
trình đề cập một cách có hệ thống các luận điểm, quan điểm cũng như các quy
định cụ thể về việc ADHP. Tuy nhiên, kể từ sau khi BLHS (BLHS) năm 2015
được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và có hiệu lực từ 01/01/2018 đến nay thì có
khá ít các công trình nghiên cứu về nội dung này đặc biệt là ở cấp độ một luận
văn thạc sĩ luật học. Các nội dung mới của BLHS vẫn chưa được nghiên cứu
một cách sâu sắc. Bên cạnh đó các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn xét xử trong
quá trình ADHP cũng chưa được tổng kết và đưa ra các nguyên nhân tồn tại
trong quá trình ADHP, làm cơ sở cho các giải pháp. Do đó, để có phương
hướng và giải pháp hoàn thiện trên địa bàn huyện Quế Võ cho đến hiện nay,
việc chọn vấn đề nghiên cứu của tác giả càng cho thấy ý nghĩa lý luận thực
tiễn và sâu sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ một cách có hệ thống về
mặt lý luận những nội dung cơ bản của của TAND huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
Ninh, thông qua đó đề xuất các giải pháp nhằm làm hoàn thiện quy định của
pháp luật hình sự về vấn đề này và nâng cao hiệu quả ADHP của TAND.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
‒ Làm rõ những vấn đề lý luận về ADHP.
3
‒ Phân tích các quy định của pháp luật hình sự về ADHP trong xét xử hình
sự của TAND.
‒ Nghiên cứu, làm rõ thực tiễn ADHP của TAND huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
Ninh, qua đó rút ra những ưu và nhược điểm của hoạt động ADHP và nguyên
nhân của những tồn tại đó.
‒ Đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng ADHP trong xét xử hình
sự của TAND nói chung và TAND huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định của pháp luật hình sự
về áp dụng hình phạt.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
Luận văn nghiên cứu các quy định trong BLHS về áp dụng hình phạt đối
với chủ thể là cá nhân và pháp nhân thương mại, riêng tại chương 2 thực tiễn
chỉ nghiên cứu về chủ thể là cá nhân do thực tiễn ở Bắc Ninh chưa xử lý hình
sự đối với pháp nhân thương mại.
Về không gian:
Nghiên cứu tại TAND huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Về thời gian:
Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 của Tòa án nhân
nhân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng Nhà nước và pháp luật, đấu
4
tranh phòng, chống tội phạm; quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh
chống tội phạm cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý
như lịch sử pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố
tụng hình sự…
Các phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận
văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học
từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử
so sánh, phân tích, thống kê,… và kinh nghiện thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một công trình vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa
về mặt thực tiễn trong việc nghiên cứu và thực thi các quy định về ADHP của
TAND trong thực tiễn xét xử.
Về mặt lý luận: Luận văn là một công trình nghiên cứu chuyên khảo khá
đồng bộ đề cập một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về ADHP của
TAND cấp huyện. Đề tài đã phân tích và làm rõ cơ sở lý luận về việc ADHP,
mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc của ADHP; cũng như đánh giá thực tiễn ADHP
của Tòa án trên địa bàn cụ thể là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, từ đó có
những kiến nghị sửa đổi nhằm hoàn thiện hơn về lý luận cũng như hệ thống
pháp luật.
Về mặt thực tiễn: Qua đánh giá thực tiễn ADHP của TAND huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh, luận văn góp phần vào việc đưa ra những giải pháp cụ thể
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự của TAND
nhằm hoàn thiện pháp luật và đáp ứng nhu cầu công cuộc cải cách Tư pháp
hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc
học tập, nghiên cứu cũng như giảng dạy liên quan đến hoạt động ADHP của
TAND nói chung và Tòa án cấp huyện nói riêng.
5
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự về
áp dụng hình phạt
Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh, yêu cầu và các giải pháp
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về áp dụng hình phạt
Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, có nhiều biện pháp cưỡng
chế, tuy nhiên so với các biện pháp cưỡng chế khác thì chỉ có hình phạt là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, bởi vì: hình phạt đánh vào lợi ích
kinh tế người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt hạn chế hoặc tước bỏ
quyền tự do thân thể, hình phạt được ghi vào lai lịch tư pháp, cá biệt hình phạt
còn loại bỏ quyền được sống của người phạm tội… Mặc dù vậy,“hình phạt
không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo
dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa
họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp
luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.” [25, tr.25]
ADHP của Tòa án bao gồm quyết định hình phạt và các nội dung khác.
“Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân ngay sau khi đã xác định tội danh đối với hành vi phạm tội. Nếu định tội
là tiền đề, là cơ sở cho quyết định hình phạt, thì quyết định hình phạt là kết
quả cuối cùng của hoạt động xét xử”[5, tr.225]. Hoạt động ADHP của Tòa án
có những nội dung, tính chất tương tự như hoạt động quyết định hình phạt tuy
nhiên được thể hiện ở mức độ rộng hơn. Bên cạnh đó, ADHP còn bao gồm
các hoạt động khác như: Miễn TNHS hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp
khác, miễn hình phạt, xử lý vật chứng …. Miễn TNHS là trường hợp người bị
kết án thỏa mãn các điều kiện do BLHS quy định, do thay đổi chính sách hình
7
sự hay mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội không lớn và được
Tòa án quyết định cho họ miễn TNHS.
Có thể nhận thấy, việc ADHP là nội dung cơ bản, quan trọng nhất trong
hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND. Hoạt động ADHP của Tòa án
được tiến hành sau khi vụ án hình sự đã được giải quyết ở các giai đoạn tố
tụng khác nhau, với những thủ tục tố tụng nhất định. Tòa án phải dựa trên kết
quả của các hoạt động trong các giai đoạn tố tụng trước đó như hoạt động
khởi tố, điều tra, truy tố của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
khác. Tuy nhiên, trong giai đoạn xét xử, Tòa án vẫn được quyền linh hoạt,
chủ động tiến hành hoạt động ADHP sao cho đảm bảo đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
Từ những phân tích trên có thể hiểu ADHP của TAND như sau: ADHP
là hoạt động của nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự của TAND có thẩm
quyền được thực hiện sau khi đã định tội danh và khung hình phạt, để quyết
định các biện pháp TNHS, loại hình phạt, mức hình phạt cụ thể áp dụng đối
với người thực hiện hành vi phạm tội trong phạm vi, giới hạn của khung hình
phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng TNHS...
Trong hệ thống tổ chức Tòa án có TAND và Tòa án quân sự. Tuy nhiên
do phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về TAND, đặc biệt
là TAND cấp huyện để làm rõ tính lý luận cũng như thực tiễn ADHP của Tòa
án này.
TAND gồm có TANDTC, TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh và TAND
cấp huyện. TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những
tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, trừ những tội phạm quy
định tại điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều 268 BLTTHS năm 2015, trong đó:
8
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định
đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm. “Để biết tội phạm mà bị can bị truy tố có thuộc thẩm quyền xét xử của
TAND cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực cần căn cứ vào hồ sơ vụ án; tội
danh, điều khoản của BLHS mà Viện kiểm sát quyết định truy tố”.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu ADHP của TAND cấp huyện như sau:
ADHP của TAND cấp huyện là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp
luật hình sự của TAND cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình
sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, trừ những tội
phạm quy định tại điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều 268 BLTTHS năm 2015,
được thực hiện sau khi đã định tội danh và khung hình phạt, để quyết định
các biện pháp TNHS, loại hình phạt, mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với
người thực hiện hành vi phạm tội trong thẩm quyền mà pháp luật qui định
TAND cấp huyện được thực hiện.
ADHP của TAND cấp huyện có đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể áp dụng chỉ có thể là TAND cấp huyện
Như trên đã phân tích, một trong những nội dung quan trọng của ADHP
là quyết định hình phạt và chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và quyết định
hình phạt với người phạm tội theo trình tự thủ tục do BLTTHS quy định. Khi
quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào quy định của BLHS và
BLTTHS, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, khách quan, toàn diện
và đầy đủ, bảo đảm không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu
lực pháp luật của Tòa án. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chỉ có Tòa
án mới có quyền xét xử và ra bản án hình sự bằng hình phạt. Quy định này thể
hiện tính kiên quyết, thận trọng của Nhà nước Việt Nam trong đấu tranh
9
chống tội phạm đồng thời bảo đảm lợi ích hợp pháp của công dân. Bên cạnh
đó, quy định này còn thể hiện sự thống nhất giữa tội phạm và hình phạt. Tòa
án thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hoạt động xét xử mà kết quả của
hoạt động đó là một văn bản áp dụng pháp luật (bản án).
Thứ hai, hoạt động ADHP của TAND cấp huyện chỉ được tiến hành tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm.
Từ khi thụ lý hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát chuyển sang cho đến khi ban
hành bản án, quyết định thi hành án, Tòa án tiến hành nhiều hoạt động áp
dụng pháp luật, ví dụ: Quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam,
quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng hoạt động quan trọng nhất của việc áp
dụng pháp luật hình sự tại Tòa án là quyết định tội danh và ADHP.
Các phiên tòa hình sự sơ thẩm cấp huyện được tổ chức trang nghiêm,
theo trình tự thủ tục chặt chẽ của pháp luật TTHS, dưới sự điều khiển của chủ
tọa phiên tòa. Bản án được gửi cho tất cả những người tham gia tố tụng, cơ
quan hữu quan, chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú. Phiên tòa hình sự
là trọng tâm của việc giải quyết vụ án hình sự, trước sự chứng kiến của đông
đảo quần chúng nhân dân và những người tham gia tố tụng. Toàn bộ tài liệu
chứng cứ thu thập được trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đều được xem
xét, đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ. Nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử phải được bảo đảm. Các tình tiết, nội dung của vụ án tại phiên tòa phải
được làm sáng tỏ và công khai. Bị cáo được thực hiện các quyền bào chữa
hoặc tự bào chữa và các quyền khác của mình tại phiên tòa, có quyền đưa ra
quan điểm, tranh luận với kiểm sát viên để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của
mình. Tại phiên tòa, để xác định sự thật của vụ án, làm rõ các dấu hiệu cấu
thành tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, tạo điều kiện thuận lợi cho
các bên trình bày quan điểm, ý kiến của mình về vụ án, Hội đồng xét xử sẽ
nghe tranh luận giữa luật sư với kiểm sát viên về các tình tiết của vụ án, thẩm
10
vấn và nghe lời trình bày của bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người
liên quan, giám định viên, xem xét vật chứng… Sau khi có đầy đủ các chứng
cứ của vụ án tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tiến hành nghị án, biểu quyết về
việc bị cáo có tội hay không có tội, nếu phạm tội thì tội danh nào, áp dụng
điều khoản nào của BLHS, hình phạt cụ thể và trách nhiệm pháp lý khác như
bồi thường, án phí, hình phạt bổ sung... Bản án là văn bản áp dụng pháp luật
trong đó chứa đựng quyết định ADHP.
Thứ ba, ADHP của TAND cấp huyện phải tuân thủ các nguyên tắc và
trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm do BLTTHS quy định.
Khi xét xử Tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc của TTHS. Những
nguyên tắc là kim chỉ nam cho các hoạt động xét xử. Người tiến hành tố tụng
trong giải quyết án hình sự của TAND theo quy định của BLTTHS gồm có
Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Tòa án. Chánh án
có quyền ra quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam;
quyết định xử lý vật chứng; quyết định thi hành án hình sự; quyết định hoãn
chấp hành hình phạt tù; quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; quyết
định xóa án tích…
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật.
Tính chặt chẽ về hình thức được thể hiện mọi hành vi tố tụng của người tiến
hành tố tụng phải theo quy định của BLTTHS, như tại phiên tòa, Thẩm phán
phải hỏi những câu hỏi bắt buộc, thực hiện hành vi bắt buộc theo một trình tự
lôgic bắt buộc.Ví dụ: bắt buộc chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền và
nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng… Tính chặt chẽ về nội dung được
thể hiện là mỗi điều luật áp dụng đòi hỏi sự chính xác về điểm khoản phù hợp
với nội dung phải giải quyết, không có sự áp dụng tương tự cũng như suy diễn
sự việc áp dụng hệ thống pháp luật thực định.
11
Thứ tư, ADHP của TAND cấp huyện là quá trình cá biệt hóa các quy
phạm của pháp luật hình sự về hình phạt và quyết định hình phạt và các nội
dung khác trong thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án.
Trên cơ sở tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy
tố và kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải căn cứ
vào các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm được quy định tại BLHS để xác
định bị cáo có phạm tội như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân hay không?
Nếu phạm tội thì phạm tội gì? Được quy định tại điều khoản nào của BLHS?
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS?... Để có cơ sở ADHP, Hội đồng xét
xử phải xem xét, đánh giá các chứng cứ đã thu thập trong giai đoạn điều tra
cũng như lời trình bày của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa mâu
thuẫn hoặc phù hợp với nhau như thế nào? Cấu thành tội danh gì? TNHS là
hậu quả pháp lý tất yếu của việc thực hiện tội phạm. Về nguyên tắc người
thực hiện tội phạm phải chịu TNHS.
1.1.2. Các nguyên tắc của hoạt động áp dụng hình phạt của Tòa án
nhân dân cấp huyện
+ Nguyên tắc pháp chế XHCN
Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi phải được tuân thủ không chỉ trong
hoạt động lập pháp mà còn trong hoạt động áp dụng pháp luật.
Luật hình sự được đảm bảo thực hiện chỉ khi tuân thủ triệt để nguyên tắc
pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt.
Nguyên tắc pháp chế XHCN gồm bốn nội dung.
Thứ nhất, Tòa án nói chung và TAND cấp huyện phải tuân theo trình tự
và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể và chỉ có thể tuyên những
hình phạt, với mức phạt được quy định trong BLHS khi ADHP.
12
Thứ hai, TAND cấp huyện phải tuân thủ các về nội dung, điều kiện áp
dụng các loại hình phạt, phạm vi và về tổng hợp hình phạt được quy định
trong BLHS trong phạm vi thẩm quyền xét xử của mình.
Thứ ba, TAND phải thủ một các quy định về tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS được quy định trong BLHS và phải đảm bảo tính hợp lý của hoạt
động ADHP.
Nguyên tắc pháp chế đã được thể hiện trong các điều luật của BLHS
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 2, Điều 8, Điều 30, Điều 50.
+ Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quyết định hình phạt
Nguyên tắc nhân đạo không chỉ là nguyên tắc trong hoạt động ADHP mà
còn là nguyên tắc chung và là nguyên tắc được đặc biệt chú ý trong ngành luật
hình sự vì hậu quả mà người phạm tội phải chịu theo ngành luật này là hình phạt.
Đây được coi là nguyên tắc cơ bản và mang tính đặc thù của hoạt động
áp dụng pháp luật của Tòa án. Theo đó, mục đích giáo dục người phạm tội trở
thành người có ích cho xã hội được đặt lên hành đầu. Bên cạnh đó, đối với
những tội phạm đặc biệt nguy hiểm, những người tái phạm, tái phạm nguy
hiểm... luật hình sự nước ta có những quy định quyết định hình phạt rất
nghiêm khắc nhằm răn đe người phạm tội, giáo dục người dân và bảo vệ
quyền lợi của xã hội, của nhà nước và mọi công dân khỏi sự xâm hại của tội
phạm.
Nguyên tắc nhân đạo xã hội chỉ nghĩa được thể hiện trong các điều luật
của BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại Điều 3 khi xác định nguyên
tắc xử lý đã khẳng định chính sách khoan hồng được áp dụng. Tại Điều 31
cũng đã quy định mục đích của hình phạt như sau: Hình phạt không chỉ nhằm
trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới;
13
giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm…Do đó khi ADHP, dù ở Tòa án cấp huyện, mức
cao nhất có thể được áp dụng là 15 năm tù thì TAND cấp huyện cũng cần bảo
đảm tính nhân đạo đối với những bị cáo đã được pháp luật quy định để hưởng
chính sách này để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
+ Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt không chỉ là nguyên tắc của ADHP mà
còn là nguyên tắc chung của luật hình sự.
Theo nguyên tắc cá thể hóa hình phạt thì mọi hành vi phạm tội đều bị
phát hiện và trừng phạt.
Trường hợp tội phạm xâm hại đến quan hệ xã hội càng quan trọng thì
Tòa án phải quyết định hình phạt càng nghiêm khắc. Ngoài ra, Tòa án phải
xem xét đến giai đoạn phạm tội, hoàn cảnh phạm tội, phương tiện phạm tội,
động cơ, mục đích phạm tội, thủ đoạn phạm tội,...từ đó ra quyết định hình
phạt tương xứng.
+ Nguyên tắc công bằng trong ADHP
Nguyên tắc công bằng là một nguyên tắc trong luật hình sự Việt Nam.
Trong hoạt động áp dụng pháp luật, nguyên tắc công bằng được đảm bảo khi
hình phạt phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, giới tính, địa vị kinh tế,... Tội phạm
càng nguy hiểm thì hình phạt phải càng nghiêm khắc. Trước khi ra quyết định
hình phạt, TAND cấp huyện phải xem xét, cân nhắc mọi tình tiết liên quan
đến vụ án cũng như người phạm tội, từ đó quyết định được hình phạt công
bằng, thỏa đáng cho người phạm tội. Nếu Tòa án bỏ sót bất kỳ tính tiết nào
liên quan đến vụ án và cá nhân người phạm tội thì cũng rất dễ làm sai lệch
tích chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, dẫn đến quyết định hình
14
- Xem thêm -