Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự t...

Tài liệu Luận văn bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

.PDF
93
86
70

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN PHÚC BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN PHÚC BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu về đề tài “Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình./. Tác giả luận văn Nguyễn văn phúc MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .......................................... 7 1.1. Khái niệm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ở cấp xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .............................................................................................................. 7 1.2. Nội dung bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ........................................... 11 1.3. Phạm vi áp dụng và các bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội .................... 18 1.4. Ý nghĩa của bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS................... 26 1.5. Điều kiện bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ........................................... 29 1.6. Mối quan hệ giữa bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội với bảo đảm một số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự ....................................................... 35 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ SƠ THẨM TẠI BẮC NINH ............................................................................................................... 41 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội .......................................................................................................... 41 2.2. Thực trạng việc bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong thực hiện xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh..................................... 58 2.3. Những khó khăn, vướng mắc và những nguyên nhân tồn tại của việc bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử vụ án hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ......................................................................................... 70 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ SƠ THẨM TẠI ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH .................................... 75 3.1. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện một số quy định về suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ....................................... 75 3.2. Giải pháp tăng cường công tác phổ biến giáo dục và hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự mới ......................................... 79 3.3. Các giải pháp khác ....................................................................................... 81 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 86 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự TTHS Tố tụng hình sự SĐVT Suy đoán vô tội TANDTC TAND VKSNDTC VKSND VKS CQĐT CQTHTT Tòa án nhân dân tối cao Tòa án nhân dân Viện kiểm sát nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân Viện kiểm sát Cơ quan điều tra Cơ quan tiến hành tố tụng HĐXX Hội đồng xét xử HLPL Hiệu lực pháp luật XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc tiên tiến, cơ bản được ứng dụng rộng rãi trong các nền khoa học pháp lý hiện đại. Ngày nay, nguyên tắc suy đoán vô tội được nhiều Nhà nước coi là một trong những nguyên tắc quan trọng của tố tụng hình sự, được đánh giá là thành tựu vĩ đại của văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người. Nó thể hiện ở việc nguyên tắc này đã được công nhận trong tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc, đó là: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó”. Pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới đã thừa nhận nguyên tắc trên và coi nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc của tố tụng hình sự của quốc gia mình. [20] Nguyên tắc suy đoán vô tội được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện Việt Nam ra nhập công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên trong những năm qua, nguyên tắc suy đoán vô tội luôn nhận được sự quan tâm, không chỉ được đề cập rất nhiều trong các hội nghị, hội thảo khoa học mà còn trở thành một yêu cầu cấp thiết trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn. Ngày 02/01/2002 Bộ chính trị ban hành Nghị Quyết số 08-NQ/TW về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Ngày 24/05/2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị Quyết số 48-NQ/TW về “chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2020”; tiếp đó Ngày 02/06/2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị Quyết số 49-NQ/TW về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Tại Việt Nam nội dung của nguyên tắc SĐVT lần đầu tiên được ghi nhận với tư cách là một nguyên tắc cơ bản tại Điều 10 trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988; tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận là một quyền cơ bản của công dân; tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận là một trong những quyền con người.. 1 Nguyên tắc SĐVT cũng đã được quy định cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, hiện còn đang còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề lý luận dẫn đến việc hiểu nội dung, tư tưởng pháp lý và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong thực tế không giống nhau. Nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng không tuân thủ nguyên tắc dẫn đến việc không những không phát hiện xử lý được tội phạm mà còn làm oan người vô tội. Đây là những nguyên nhân chính của việc xâm phạm quyền công dân, chà đạp lên phẩm giá con người trong hoạt động tố tụng. Nội dung nguyên tắc: “Suy đoán vô tội” về mặt hình thức được quy định rất ngắn gọn (chỉ có 90 từ), nhưng hiểu như thế nào là đúng để bảo đảm thực hiện nó trên thực tế mới là vấn đề mà cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng quan tâm. Đến nay, chưa có văn bản nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn việc bảo đảm nguyên tắc này trên thực tế. Vì vậy, việc nghiên cứu của tác giả nhằm xác định đầy đủ nội hàm và cụ thể hóa đầy đủ chính xác nguyên tắc này trong BLTTHS, cũng như việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc này là vấn đề cấp thiết. Mặc dù, chưa có vụ án thể hiện vi phạm nguyên tắc “suy đoán vô tội” một cách rõ ràng, nhưng gần đã xuất hiện tình trạng Tòa án kết án oan người vô tội cụ thể là vụ án ông Hàn Đức Long, TAND tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm đối với ông Hàn Đức Long về các tội hiếp dâm trẻ em và tội giết người, ông Long đã bị tù oan hơn 11 năm. Ông Huỳnh Văn Nén ở tỉnh Bình Thuận bị tù oan hơn 17 năm mới được giải oan theo thủ tục tái thẩm, hay ông Nguyễn Thanh Chấn bị tù oan hơn 10 năm mới được minh oan theo thủ tục tái thẩm. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về “Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là một công trình có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn không chỉ ở địa bàn Bắc Ninh mà có giá trị lý luận trên toàn lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Đề tài nghiên cứu, một mặt góp phần vào định hướng việc thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp, mặt khác giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án cấp sơ thẩm tỉnh Bắc Ninh cũng như Tòa án cấp sơ thẩm trên toàn quốc có cái nhìn đúng đắn hơn về nguyên tắc suy đoán vô tội cũng như việc bảo đảm nguyên tắc này của Tòa án và người tiến hành tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về suy đoán vô tội là một vấn đề không mới trong khoa học pháp lý hiện nay. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học và các bài viết nghiên cứu về nguyên tắc suy đoán vô tội ở những góc độ, cấp độ khác nhau. Cụ thể, đối với các công trình nghiên cứu có: Lâm Anh Tuấn, "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật –Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2016; Lê Thị Ngọc Hà, "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại Học Luật Hà Nội, năm 2016; Nguyễn Thành Long "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam", Luận án Tiến sĩ luật học, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2010. Các bài viết: Nguyễn Thành Long, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011; Nguyễn Thái Phúc (2006) “Nguyên tắc suy đoán vô tội”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11; Vũ Gia Lâm (2014) “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học; Nguyễn Văn Quảng (2014) “Hiến pháp năm 2013 với nguyên tắc suy đoán vô tội và trách nhiệm triển khai thi hành của ngành Kiểm sát nhân dân”,Tạp chí Kiểm sát số 6; Phạm Hồng Phong (2014), Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Lý luận chính trị số 3; GS.TSKH. Đào Trí Úc "Cải cách tư pháp và việc hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát số 08 và "Nguyên tắc suy đoán vô tội - nguyên tắc hiến định quan trọng đối với việc đổi mới tố tụng hình sự Việt Nam" (2003), Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 07; TS. Trịnh Tiến Việt "Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự" (2013); TS. Phạm Mạnh Hùng "Nguyên tắc suy đoán vô tội" (2006), Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11 và "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát số 15; PGS.TS.Nguyễn Ngọc Chí "Các nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự - những kiến nghị sửa đổi bổ sung"; ThS.Đinh Thế Hưng "Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (2010), Tạp chí TAND số 03; Nguyễn Quang 3 Hiền (2010) "Quy định nguyên tắc suy đoán không phạm tội để bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 13….. Phần lớn các công trình nghiên cứu về nguyên tắc suy đoán vô tội được nhìn nhận dưới góc độ chuyên ngành luật tố tụng hình sự, đề cập những nội dung cụ thể của nguyên tắc, mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội với các chế định khác của luật hình sự và luật tố tụng hình sự. Từ thực trạng nghiên cứu cho thấy, những nghiên cứu hiện có chưa đi sâu làm rõ được các căn cứ lý luận, căn cứ pháp lý để sử dụng nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Một số bài báo khoa học viết về bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội, tuy cũng tiếp cận dưới góc độ luật tố tụng hình sự nhưng chỉ dừng lại ở việc phân tích các quy định liên quan trong luật tố tụng hình sự, hơn nữa ở phạm vi của một bài báo khoa học thì nội dung nghiên cứu chưa thật sự đầy đủ và sâu sắc. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. - Phạm vi nghiên cứu: + Về lý luận: Đề tài tập trung nghiên cứu việc Tòa án ở cấp sơ thẩm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong quá tình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Nội dung, điều kiện và ý nghĩa của việc bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ở cấp xét xử sơ thẩm, cũng như chỉ ra những khó khăn vướng mắc và những giải pháp khi bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội. + Về pháp luật: Luận văn nghiên cứu quy định của Hiến pháp, BLTTHS các thời kỳ quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội. Đặc biệt, luận văn tập trung làm rõ nội dung, ý nghĩa và việc áp dụng các quy định liên quan đến nguyên tắc SĐVT được thể hiện trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015. + Về thực trạng: Luận văn nghiên cứu hoạt động bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ở cấp xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong phạm vi từ năm từ năm 20132018 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận, quy định pháp luật và nhận thức về bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định trong Bộ 4 luật tố tụng hình sự và sự cụ thể hóa việc bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử vụ án hình sự sơ thẩm nhìn từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, qua đó chỉ ra những khó khăn vướng mắc và đề xuất một số ý kiến để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội giai đoạn hiện nay. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu nhằm giải đáp 3 câu hỏi cơ bản sau: - Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội được nhận thức dựa trên cơ sở lý luận nào? - Bộ luật tố tụng hình sự ghi nhận bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội theo những nội dung nào? - Cần làm gì để nâng cao hiệu quả trong việc bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội tại giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành? 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ quyền con người nói chung và bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội nói riêng, tác giả đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau để thực hiện luận văn: - Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ các vấn đề thuộc cơ sở lý luận của bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò nguyên tắc suy đoán vô tội; khái niệm, nội dung, các điều kiện bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự… - Phương pháp lịch sử, so sánh được sử dụng trong các nội dung nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của nguyên tắc suy đoán vô tội qua các Bộ luật tố tụng hình sự các thời kỳ; vấn đề bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội theo pháp luật các nước trên thế giới. - Phương pháp tổng hợp, khái quát hoá được sử dụng khi tác giả luận văn dựa trên cơ sở lý luận đã được làm rõ cũng như các vấn đề của thực tiễn đặt ra hiện nay. Nêu những nhận định, đánh giá hay rút ra các bài học kinh nghiệm, phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao ý thức xã hội nhằm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội theo Luật tố tụng hình sự. Phương pháp dự báo khoa học 5 cũng được tác giả luận văn sử dụng ở mức độ thích hợp khi chỉ ra xu hướng phát triển của pháp luật trong thời gian tới nhằm bảo vệ hiệu quả quyền được suy đoán vô tội của mọi người. - Trong phần lớn các nội dung nghiên cứu của luận văn, các phương pháp nghiên cứu trên đây đều được sử dụng kết hợp và linh hoạt. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn + Ý nghĩa khoa học của luận văn: - Góp phần phát triển cơ sở lý luận về bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Phân tích, đánh giá quá trình phát triển bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam các thời kỳ. - Làm rõ nội dung, các điều kiện bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015. + Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: - Đề xuất một số ý kiến về bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người học ở các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam trong chuyên ngành luật tố tụng hình sự, tư pháp hình sự; các cán bộ công tác thực tiễn, nhất là những người tiến hành và tham gia tố tụng cũng như những bạn đọc khác quan tâm đến lĩnh vực khoa học này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được chia làm các chương sau: Chương 1: Lý luận về bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2: Các quy định bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm và thực trạng áp dụng trong xét xử vụ án hình sự sơ thẩm tại Bắc Ninh. Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử vụ án hình sự sơ thẩm tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 6 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ở cấp xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Hiện nay trong khoa học pháp lý Việt Nam chưa có một khái niệm chung nhất về bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ở cấp xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Các khái niệm khóa học pháp lý hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về nguyên tắc suy đoán vô tội, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội. Do đó, việc tìm hiểu và xây dựng khái niệm trên là rất cần thiết. Một mặt giúp các cơ quan tiến hành tố tụng hiểu thế nào là bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ đó có câu trả lời tại sao phải bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội và sự cần thiết phải bảo đảm quyền của người bị buộc tội. Mặt khác, bổ sung thêm quan điểm khoa học về bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm. Trong nội hàm khái niệm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội có một số nội dung chúng ta cần phải làm rõ: Xét xử sơ thẩm là gì? Thế nào là hoạt động bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội? nguyên tắc SĐVT. Sau lần lượt làm rõ các vấn đề trên chúng ra sẽ có một khái niệm chung về bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trước hết ta có thể thấy, xét xử sơ thẩm được coi là cấp xét xử thứ nhất được tiến hành theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, trong đó Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền sau khi nghiên cứu toàn diện, khách quan và đầy đủ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử công khai nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội xảy ra, một người có phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội xảy ra hay không, để từ đó ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất mà Cáo trạng của Viện kiểm sát (VKS) đã truy tố. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hoạt động xét xử của Tòa án được coi là khâu trung tâm, bởi nó “thể hiện đầy đủ nhất bản chất của hệ thống tư pháp của Nhà nước, là giai đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân".[5] 7 Cấp xét xử sơ thẩm có những đặc trưng cơ bản sau đây: - Thời điểm bắt đầu được xác định từ khi hồ sơ vụ án cùng với bản Cáo trạng của VKS được chuyển sang Tòa án có thẩm quyền và đã được Tòa án vào sổ thụ lý vụ án; - Thời điểm kết thúc bằng việc Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án hình sự do Hội đồng xét xử tuyên tại phiên tòa hoặc quyết định đình chỉ vụ án; - Nhiệm vụ của Tòa án cấp sơ thẩm là xem xét và giải quyết nội dung vụ án theo quy định của pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. - Ngoài Tòa án đóng vai trò chính trong hoạt động xét xử. Thì có cả Viện kiểm sát cũng tham gia với tư cách người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác là bị cáo, người bào chữa, người bị hại, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch….. Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Bảo đảm” được hiểu là “Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”. "Suy đoán" bắt nguồn từ tiếng Latinh “praesumptino”, được hiểu là sự giả định một vấn đề nào đó là đúng cho đến khi chưa bị bác bỏ. Như vậy, có thể suy đoán một vấn đề nào đó là đúng hoặc suy đoán một vấn đề nào đó là sai. Từ "presume" trong tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt mang hai nghĩa khác nhau: 1) Suy đoán (dự đoán) và 2) Giả định. Vì vậy, trong khoa học Luật TTHS, nguyên tắc "presumption of innocence" có hai tên gọi khác nhau: Nguyên tắc "suy đoán vô tội" và nguyên tắc "giả định vô tội". Tuy nhiên, trong luận văn này chúng tôi không tranh luận về thuật ngữ mà xem xét nguyên tắc này với tên gọi "suy đoán vô tội" (theo cách gọi phổ biến từ trước tới nay ở Việt Nam) để làm rõ khái niệm "nguyên tắc suy đoán vô tội" [6] - Thuật ngữ “nguyên tắc” bắt nguồn từ tiếng Latinh là “pirincipium” có ba nghĩa: 1) Luận điểm cơ bản, luận điểm gốc của học thuyết; 2) Niềm tin, quan điểm đối với sự vật; 3) Nguyên lý cấu trúc và hoạt động của dụng cụ, thiết bị. Theo Từ điển tiếng Việt, “nguyên tắc” là “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”.[26- tr.672] 8 Theo Triết học Mác- Lênin thì “nguyên tắc” là“những tư tưởng xuất phát điểm, có tính chất chỉ đạo, có tính chất chủ đạo, định hướng là nguyên tắc cơ bản của hành động”.[13] Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “nguyên tắc của pháp luật” được định nghĩa như sau:“Nguyên tắc của pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo, cơ bản mang tính chất xuất phát điểm, định hướng, chịu sự quy định của những quy luật phát triển khách quan của xã hội, xuyên suốt nội dung, hình thức pháp luật, toàn bộ thực tiễn pháp luật, hoạt động xây dựng, áp dụng pháp luật, hành vi pháp luật, ý thức luật”.[7-tr.344] Với tư cách là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật tố tụng hình sự cũng có những nguyên tắc riêng mang đặc điểm đặc chung của nguyên tắc pháp luật vừa mang những đặc trưng riêng của luật tố tụng hình sự - một ngành luật hình thức. Đến nay khái niệm nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự là một vấn đề vẫn đang gây tranh cãi. Theo PGS.TS Trần Đình Nhã thì việc sử dụng khái niệm: “nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự” là sự nhầm lẫn khi coi TTHS và pháp luật TTHS là một. Các nguyên tắc của TTHS là những chế định pháp lý, được thể hiện bởi những quy phạm pháp luật TTHS, thể hiện bản chất của TTHS và mang tính định hướng cho các hoạt động và hành vi TTHS.[16] Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì nguyên tắc TTHS là những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về quá trình giải quyết vụ án hình sự đã được thể chế hóa trong BLTTHS mà các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước, tổ chức và mọi công dân phải tuân theo. Khi nguyên tắc được quy định trong BLTTHS thì đó là nguyên tắc của TTHS... Nếu tư tưởng, quan điểm nào đó là quan điểm, tư tưởng chủ đạo của Luật TTHS thì chúng cũng là nguyên tắc của Luật TTHS. Ví dụ: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc của TTHS và là nguyên tắc của Luật TTHS.[14] Theo GS.TSKH Lê Cảm thì nguyên tắc của luật TTHS là tư tưởng chủ đạo, định hướng cơ bản của hoạt động TTHS được thể hiện trong pháp luật TTHS, trong 9 việc giải thích và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS thông qua quy phạm hay chế định của nó.[3] Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chí thì "Luật tố tụng hình sự" là khái niệm để chỉ tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. "Luật tố tụng hình sự" là một phạm trù chủ quan, là nhận thức hiện tượng khách quan của nhà làm luật. Vì vậy, những phương châm, định hướng quan trọng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của quá trình TTHS, quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS được gọi là các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS.[4] Từ việc nghiên cứu trên nhiều quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học ta có thể hiểu về định nghĩa nguyên tắc suy đoán vô tội như sau: Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, là tư tưởng chủ đạo, cơ bản mang tính xuất phát điểm, bảo đảm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không bị coi là có tội khi lỗi của họ chưa được cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Chủ thể của việc bảo đảm nguyên tắc SĐVT là các cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn xét xử sơ thẩm (Tòa án, Viện kiểm sát). Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp [28]. Chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất mới có quyền xét xử các vụ án hình sự, trong quá trình thực hiện chức năng của mình Tòa án đóng vai trò phán quyết, việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào quá trình điều tra và diễn biến tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Trong khi Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố, ngoài giám sát việc xét xử thì Viện kiểm sát còn thực hiện hoạt động truy tố, buộc tội bị cáo trước Tòa. Xét về góc độ lý luận một chủ thể đang thực hiện chức năng buộc tội thì không thể đồng thời thực hiện việc SĐVT cho bị cáo trước Tòa được. Như vậy, Tòa án sẽ là chủ thể quan trọng nhất trong việc thực hiện hoạt động bảo đảm nguyên tắc SĐVT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 10 Như vậy, ta có thể hiểu về khái niệm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm là: Việc Tòa án và những người có thẩm quyền ở cấp xét xử lần đầu vụ án hình sự có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và tạo các điều kiện cần thiết để bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không bị coi là có tội cho đến khi có Bản án kết tội của Tòa án. Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng được thể hiện không chỉ trong Hiến pháp mà còn cả trong luật tố tụng hình sự. Hiến pháp 1992 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tòa án”. Điều 31 Hiến pháp năm 2013; Luật tố tụng hình sự 2003 quy định tại Điều 9 và Điều 10 nguyên tắc này, Hiến pháp 2013 quy định : “Luật tố tụng hình sự 2015 quy định tại Điều 13. 1.2. Nội dung bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội Trong bài viết: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, sự thể chế hóa cho phù hợp với Hiến pháp, tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải đưa ra quan điểm về nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội bao gồm: - Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật; - Người bị tình nghi, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. - Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình nghi, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo.[21] Tác giả Lê Văn Sua với bài viết “Nguyên tắc suy đoán vô tội và vấn đề bảo đảm thực thi trong hoạt động tụng hình sự” đã đưa ra quan điểm về nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội bao gồm: - Không ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện chưa được chứng minh theo đúng các quy định của BLTTHS năm 2015 và chưa được xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. 11 - Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội. - Bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra; cáo trạng của Viện kiểm sát và bản án kết tội của Tòa án phải dựa trên các chứng cứ khẳng định chắc chắn về hành vi khách quan, mối quan hệ nhân – quả, lỗi của người bị buộc tội trong việc thực hiện tội phạm cụ thể. [17] Tác giả Minh Thảo trong bài viết Nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp năm 2013 và việc thể chế hóa nguyên tắc này trong BLTTHS để phù hợp với tinh thần của Hiến pháp mới cho rằng nguyên tắc suy đoán vô tội có nội dung gồm: - Không ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện chưa được chứng minh theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và chưa được xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tòa. - Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội. - Bản cáo trạng của Viện kiểm sát và bản án kết tội của tòa phải dựa trên các chứng cứ khẳng định chắc chắn về lỗi của người bị buộc tội trong việc thực hiện tội phạm. - Mọi nghi ngờ về lỗi của bị can, bị cáo nếu không thể loại trừ được theo trình tự, thủ tục do luật định và khi chưa có sự thống nhất trong việc giải thích, áp dụng các quy phạm pháp luật đều phải được giải quyết theo hướng có lợi cho họ.[20] Tác giả Nguyễn Thành Long có ý kiến cho rằng nguyên tắc suy đoán vô tội bao gồm những nội dung sau: - Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được suy đoán vô tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. - Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội. - Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, thì phải được giải thích có lợi cho họ. 12 - Bản án kết tội của Tòa án không được dựa trên những giả định.[14] Như vậy, các quan điểm nêu trên đều thống nhất ở một số nội dung như: Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật; trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; mọi nghi ngờ về lỗi của bị can, bị cáo nếu không thể loại trừ được theo trình tự, thủ tục do luật định thì phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ,... Tuy nhiên, có một nội dung khác biệt đó là: chủ thể của quyền được suy đoán vô tội, Tòa án có hay không có trách nhiệm chứng minh tội phạm, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi thỏa mãn cả điều kiện được chứng minh theo trình tự luật định ngoài điều kiện có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật - là điều kiện được tất cả các tác giả thừa nhận. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra khi nghiên cứu về nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội, nhưng qua nghiên cứu, tổng hợp, tác giả luận văn cho rằng nguyên tắc suy đoán vô tội và bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, Bảo đảm người bị buộc tội được suy đoán vô tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Người bị buộc tội có quyền được suy đoán vô tội. Điều đó nghĩa là tuy đang bị buộc tội, đã tham gia vào tố tụng, chịu sự hạn chế nhất định về quyền tự do cá nhân theo quy định của pháp luật nhưng người bị buộc tội vẫn có quyền được coi như không phạm tội cho đến khi bản án kết tội của toà án có hiệu lực pháp luật. Khác với các quan điểm của các tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải, Lê Văn Sua, Minh Thảo và tác giả Nguyễn Thành Long khi sử dụng các cụm từ: Ai, người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người bị tạm giữ.... tác giả luận văn cho rằng việc sử dụng thuật ngữ người bị buộc tội là phù hợp và bao quát tất cả các trường hợp. Nguyên tắc suy đoán vô tội cần được áp dụng ngay khi bắt đầu có sự buộc tội từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, vì vậy, việc sử dụng thuật ngữ người bị buộc tội mới có thể bao quát được tất cả các trường hợp, tất cả các chủ thể cần được suy đoán vô tội. Khi nghiên cứu về nguyên tắc suy đoán vô tội, việc đưa ra nội dung nguyên tắc cần 13 bảo đảm tính ổn định, tính nghiên cứu, việc sử dụng thuật ngữ cần bảo đảm tính bao quát, phù hợp với sự thay đổi của pháp luật thực định. Vì vậy, việc sử dụng thuật ngữ “người bị buộc tội” đáp ứng yêu cầu của việc nghiên cứu khoa học. Pháp luật tố tụng hình sự có thể thay đổi theo đó, các thuật ngữ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng hình sự về chủ thể được suy đoán vô tội có thể thay đổi, ví dụ như: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về chủ thể được suy đoán vô tội là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về chủ thể được suy đoán vô tội là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo. Vì vậy, thuật ngữ “người bị buộc tội” đã bao quát được tất cả các chủ thể cần được suy đoán vô tội và phù hợp với pháp luật hình sự ở từng giai đoạn. Trong pháp luật hình sự, thuật ngữ “người phạm tội” dùng để chỉ người đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm, hành vi của người đó đã cấu thành tội phạm. Do vậy, thuật ngữ người “người bị buộc tội” khác với thuật ngữ “người phạm tội”. Bất kỳ ai bị buộc tội đều có quyền được suy đoán là không phạm tội. Người bị buộc tội được hiểu là người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo hoặc người đã bị xét xử sơ thẩm và bản án chưa có hiệu lực pháp luật. Đó là những chủ thể của quyền được suy đoán vô tội tương ứng với tư cách tham gia tố tụng trong mỗi giai đoạn tố tụng nhất định. Những người này vẫn có đầy đủ các quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, để làm sáng tỏ bản chất của vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm thu thập và ghi nhận chứng cứ, các biện pháp ngăn chặn, thực hiện các biện pháp điều tra… Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm và thông qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều tra công khai tại phiên tòa. 14 Suy đoán vô tội là quyền của người bị buộc tội, dẫn đến trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan buộc tội. Tuy nhiên, suy đoán ở đây không được hiểu theo nghĩa là hoạt động tư duy đơn thuần mà phải thể hiện thành hành vi cụ thể trong tố tụng hình sự được thực hiện trong suốt quá trình thực hiện hoạt động điều tra, truy tố xét xử, trong việc áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và đưa ra các quyết định tố tụng. Người có thẩm quyền buộc tội không được đối xử với người bị buộc tội theo định kiến rằng họ là người phạm tội mà ngược lại, vẫn phải tôn trọng và bảo đảm các quyền của người bị buộc tội. Mọi sự cưỡng chế, hạn chế, ngăn chặn được áp dụng đối với người bị buộc tội trong tố tụng hình sự đều phải dựa trên cơ sở cần thiết theo đúng quy định của pháp luật. Thứ hai, Bảo đảm trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội. Cùng với việc khẳng định một người không thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án có hiệu lực pháp luật thì cũng có nghĩa thừa nhận người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Để xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là người thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó. Trên thực tế, có thể một người đã thực hiện tội phạm tức là về khách quan, họ là người phạm tội, nhưng nếu không chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi được luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó. Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. Quyền và trách nhiệm chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà còn thuộc về Tòa án. Tại phiên tòa, Tòa án tham gia vào việc xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do pháp luật quy định để chứng minh làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội; nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự để 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan