Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quả...

Tài liệu Luận văn bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

.PDF
91
142
76

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM MẠNH HÀ BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM MẠNH HÀ BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả những dẫn liệu, kết quả nghiên cứu đó. Luận văn này chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Phạm Mạnh Hà MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................ 5 1.1. Khái niệm về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự .................. 5 1.2. Những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt trong các Bộ luật tố tụng hình sự từ trước đến nay................................. 12 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TỈNH QUẢNG NINH .................. 30 2.1. Đặc điểm, tình hình địa bàn ............................................................. 30 2.2. Vấn đề bảo vệ quyền con người trong áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ...................................... 32 2.3. Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong các vụ án hình sự tại tỉnh Quảng Ninh ................................................................................. 35 2.4. Nhận xét, đánh giá về thực trạng áp dụng biện pháp bắt ................. 40 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH............................................................................................... 55 3.1. Phương hướng áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh .............................................................. 55 3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự ...................................................... 57 KẾT LUẬN .................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ANTT An ninh trật tự ANQG An ninh quốc gia BPNC Biện pháp ngăn chặn CQĐT Cơ quan điều tra TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát ĐTHS Điều tra hình sự UBND Ủy ban nhân dân ANĐT An ninh điều tra CSĐT Cảnh sát điều tra ĐTV Điều tra viên DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ PHẦN I: HỆ THỐNG CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Trình độ nghiệp vụ của CBCS trong CQĐT các cấp của Công an tỉnh Quảng Ninh Bảng 2.2: Thống kê chức danh trong CQĐT các cấp của Công an tỉnh Quảng Ninh Bảng 2.3: Số liệu điều tra, truy tố, xét xử Bảng 2.4: Tình hình áp dụng biện pháp bắt Bảng 2.5: Tương quan giữa các chủ thể bắt người phạm tội quả tang Bảng 2.6: Tương quan giữa các chủ thể bắt người trong trường hợp khẩn cấp và kết quả xử lý Bảng 2.7: Tương quan giữa các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, chủ thể áp dụng và kết quả xử lý Bảng 2.8: Tương quan giữa các chủ thể bắt người đang bị truy nã PHẦN II: HỆ THỐNG CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Trình độ nghiệp vụ của CBCS CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh Biểu đồ 2.2: Số đối tượng bị bắt trong giai đoạn 2014 -2018 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quảng Ninh là tỉnh công nghiệp, du lịch, biên giới, có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh; nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc, là cầu nối giữa ASEAN và Trung Quốc. Những năm qua, nhờ chính sách mở cửa, hội nhập của Đảng, Nhà nước cùng với những lợi thế sẵn có nên tỉnh Quảng Ninh có điều kiện phát triển về mọi mặt, trở thành điểm đến của nhiều đoàn khách quốc tế hoạt động giao lưu, thương mại, du lịch và thu hút đầu tư. Hàng năm, Quảng Ninh đón hàng triệu lượt khách quốc tế và trong nước đến địa bàn với nhiều mục đích khác nhau. Tình hình ANTT tại địa bàn trong những năm qua diễn biến phức tạp, số vụ phạm pháp hình sự và vi phạm pháp luật xảy ra nhiều với tính chất, thủ đoạn ngày càng tinh vi; số đối tượng thực hiện hành vi phạm tội có xu hướng chống đối, không hợp tác với cơ quan chức năng ngày càng nhiều… Trong đó nhiều đối tượng đã bị CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh khởi tố, điều tra, áp dụng các BPNC để xử lý. Một trong các BPNC trong TTHS, được các cơ quan chức năng trên địa bàn áp dụng nhiều nhất đó là biện pháp bắt. Có thể thấy rõ hiệu quả của việc áp dụng biện pháp này mang lại trong giai đoạn khởi tố, điều tra, xử lý vụ án hình sự; đã đóng góp tích cực trong phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm, bảo đảm ANTT, góp phần tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Tuy nhiên việc áp dụng biện pháp này là vấn đề hết sức nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh chính trị của mỗi người; làm hạn chế, một số quyền con người và quyền công dân được pháp luật bảo hộ như quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; quyền được tự do đi lại, cư trú… Đây cũng là biện pháp liên quan nhiều đến chủ trương, đường lối trong thực hiện chính sách pháp luật hình sự và TTHS; thể hiện rõ quan điểm cứng rắn, tinh thần kiên quyết đấu tranh, trấn áp tội phạm của Đảng và Nhà nước ta. Việc áp dụng biện pháp bắt tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong những năm qua vẫn còn bất cập, khó khăn; một số trường hợp nghiêm trọng dẫn đến sai phạm, gây dư luận xấu, làm ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ, thực thi pháp luật tại đây. Trong bối cảnh tỉnh Quảng Ninh ngày càng mở rộng thu hút đầu tư phát triển; tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm sẽ có xu hướng gia tăng và kéo theo 1 những vấn đề phức tạp về ANTT. Vì vậy, nghiên cứu tổng kết thực tiễn về biện pháp bắt trong TTHS từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh trong những năm qua là rất cần thiết để đánh giá, rút kinh nghiệm, tìm ra những thuận lợi, khó khăn, ưu nhược điểm, nguyên nhân, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này tại địa bàn tỉnh trong thời gian tới đây. Xuất phát từ những lý do trên, học viên chọn nghiên cứu đề tài “Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Luật Hình sự và TTHS. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn Những năm gần đây, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về biện pháp bắt ở các góc độ, địa bàn khác nhau, điển hình như: - “Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật tố tụng hình sự Việt nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Phạm Thị Hợp. - “Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong Luật Tố tụng hình sự Việt nam”. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Huân. - “Biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Bùi Thị Thảo. - “Áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Ninh Bình. - “Bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình”. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Lê Ngọc Diện. Qua tổng hợp, khảo sát, chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp, cụ thể, có hệ thống và chuyên sâu về biện pháp bắt trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy, đề tài “Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về bắt trong pháp luật TTHS và thực tiễn áp 2 dụng biện pháp này tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh, mục tiêu của luận văn nhằm làm rõ những căn cứ lý luận, pháp lý của biện pháp, đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau: - Làm rõ nhận thức cơ bản và những vấn đề liên quan đến biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam. - Phân tích những vấn đề có liên quan đến áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh. - Đánh giá thực trạng, rút ra ưu, nhược điểm, những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng biện pháp bắt người tại tỉnh Quảng Ninh. - Đưa ra các dự báo và đề xuất giải pháp có tính khoa học và khả thi nhằm nâng cao hiệu quả bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng biện pháp bắt trong pháp luật TTHS Việt Nam tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam; - Về chủ thể: Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát về biện pháp bắt người trong giai đoạn Điều tra vụ án hình sự với chủ thể áp dụng là CQĐT các cấp thuộc Công an tỉnh Quảng Ninh. - Về địa bàn nghiên cứu: Luận văn khảo sát, nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh. - Thời gian khảo sát, nghiên cứu: từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài luận văn được nghiên cứu trên nền tảng phép duy vật biện chứng và 3 duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, cũng như các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phòng ngừa, đấu tranh, trấn áp tội phạm và cải cách tư pháp. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể - Phương pháp tổng kết thực tiễn: Thu thập và phân tích các tài liệu, công trình khoa học về lý luận bắt; các báo cáo sơ kết, tổng kết; hồ sơ vụ việc, hồ sơ vụ án liên quan. - Phương pháp chuyên gia: Tọa đàm, trao đổi với các cán bộ Công an tỉnh Quảng Ninh trực tiếp chỉ đạo, tham mưu, thực hiện nhiệm vụ công tác bắt người, trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. - Phương pháp thống kê: Thu thập, xử lý, tổng hợp số liệu về bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. - Phương pháp so sánh: So sánh, đối chiếu số liệu hàng năm. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích những đặc điểm trong từng trường hợp bắt; trên cơ sở đó đánh giá, rút ra những khó khăn, tồn tại có liên quan đến áp dụng các biện pháp bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: Làm rõ một số vấn đề lý luận về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam, nhất là trong Bộ luật TTHS năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. - Về thực tiễn: Đề xuất một số giải pháp khoa học, khả thi có thể được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn giúp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận về bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong các vụ án hình sự tại tỉnh Quảng Ninh Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. 4 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm Bắt người là BPNC trong TTHS do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người được Nhà nước trao quyền được áp dụng trong các trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam và bắt người bị yêu cầu dẫn độ nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Như vậy, Bắt người là một trong những BPNC trong TTHS, đây là BPNC rất cơ bản và quan trọng, tạo tiền đề cho việc áp dụng các BPNC tiếp theo như tạm giữ, tạm giam…, nhằm làm rõ bản chất vụ án, ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình truy tố, xét xử và thi hành án. BPNC được hiểu là biện pháp cưỡng chế của nhà nước trong TTHS do cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, người thực hiện hành vi phạm tội bằng cách tạm thời tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền và lợi ích nhất định của họ nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội và tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, giải quyết vụ án hình sự. Các biện pháp cưỡng chế được chia thành nhiều loại như cưỡng chế dân sự, cưỡng chế hành chính, cưỡng chế hình sự và cưỡng chế TTHS tùy vào loại vi phạm pháp luật khác nhau. Trong đó, biện pháp cưỡng chế TTHS được hiểu là cách thức thực hiện quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng theo những trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định, tác động lên tư tưởng, thân thể, hành vi người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện nhằm bảo đảm cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Trong các biện pháp cưỡng chế của TTHS thì BPNC là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc hơn vì các biện pháp này tác động đến các quyền cơ bản của công dân, có thể hạn chế một số quyền của công dân trong một thời gian nhất định. Các BPNC được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015 gồm 08 biện pháp, cụ thể là: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt 5 tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Trong đó, Bắt người là BPNC được sử dụng phổ biến nhất, thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật đối với người phạm tội hoặc bị nghi ngờ phạm tội ở các trường hợp gồm: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ được quy định tại các Điều 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115 và 116 của Bộ luật TTHS năm 2015. Trong lịch sử, Bắt là một thuật ngữ đã xuất hiện từ lâu. Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội, xuất bản năm 1992 xác định: “Bắt là một động từ diễn tả sự nắm lại, giữ lại một người hay một sinh vật nào đó không để cho tự do hoạt động hoặc cử động ” [33, tr.60]. Theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb Đà Nẵng, xuất bản năm 2001 thì cho rằng bắt là “Nắm lại, giữ lại, không để cho tự do hoạt động hoặc cử động ” [32, tr.44]. Theo đó, bắt được hiểu là hoạt động của con người, được thực hiện một cách chủ động tác động lên một đối tượng khác (khách thể) khác nhằm không cho đối tượng này tự do hoạt động hoặc cử động (kiểm soát và giám sát đối tượng ấy). Với tư cách là một BPNC trong TTHS, hiện chưa có quy phạm pháp luật TTHS riêng nêu lên khái niệm về biện pháp bắt, do vậy còn có nhiều quan điểm khác nhau về biện pháp này. Từ điển Bách khoa CAND, Nxb. CAND, xuất bản năm 2005 xác định: “Bắt người phạm tội là một BPNC trong TTHS, được tiến hành theo quy định của pháp luật và theo lệnh của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhằm chặn đứng hành vi phạm tội và không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như việc đảm bảo thi hành luật.. ” [31, tr.35]. Cách hiểu này đã làm rõ được chủ thể áp dụng và mục đích áp dụng biện pháp bắt. Tuy nhiên, việc xác định chủ thể áp dụng biện pháp bắt ở đây là không đầy đủ vì còn các chủ thể khác cũng có thẩm quyền áp dụng; đồng thời, cũng chưa nêu được đối tượng bị áp dụng. Một số tác giả khi đi nghiên cứu về vấn đề này, cũng có những quan điểm riêng: Theo tác giả Nguyễn Văn Điệp: “Bắt là biện pháp cưỡng chế được quy định trong luật TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền do luật định áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố; người đang có hành vi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi có căn cứ do Bộ luật TTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [13, tr. 12-13]. 6 Tác giả Nguyễn Trọng Phúc thì cho rằng: "Bắt người trong TTHS là giữ người có hành vi phạm tội, không để cho họ tiếp tục phạm tội’’ [20, tr.50]. Tác giả Nguyễn Quang Nghĩa thì quan niệm: “Bắt là BPNC trong TTHS do những cơ quan có thẩm quyền tiến hành đối với bị can, bị cáo và những người đang có hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm, đã hoặc đang thực hiện hành vi phạm tội, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [19, tr.7]. Theo tác giả Trần Quang Tiệp: “Bắt người là BPNC trong TTHS, do người có thẩm quyền áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) theo những trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định, nhằm ngăn chặn tội phạm, người thực hiện tội phạm trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [30, tr.73-74] Nhìn chung, các khái niệm trên được xây dựng trên nền tảng là các quy phạm pháp luật TTHS về biện pháp bắt quy định trong Bộ luật TTHS năm 1988 (sửa đổi, bổ sung năm 1990, 1992 và 2000) và Bộ luật TTHS năm 2003, đã nêu được nhiều khía cạnh của biện pháp bắt, song đều chưa đầy đủ, chưa phản ánh hết nội hàm của biện pháp bắt như về bản chất pháp lý, chủ thể, đối tượng, căn cứ và mục đích áp dụng biện pháp này. Tiếp cận với những nội dung mới về biện pháp bắt trong Bộ luật TTHS năm 2015, tác giả Phạm Mạnh Hùng quan niệm: “Bắt người là BPNC, áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang, bị can, bị cáo, người đang, bị truy nã hoặc người bị yêu cầu dẫn độ ” [18, tr.206]. Tuy nhiên, khái niệm mới này lại chỉ phản ánh về đối tượng bị áp dụng, chưa xác định được chủ thể, căn cứ và mục đích áp dụng biện pháp bắt... Từ việc tổng hợp, phân tích một số quan điểm về biện pháp bắt nêu trên, có thể khái quát về cách hiểu về biện pháp bắt trong TTHS như sau: Biện pháp bắt là BPNC trong TTHS, do những người có thẩm quyền theo luật định tiến hành áp dụng đối với bị can, bị cáo, người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố hoặc người bị yêu cầu dẫn độ khi có căn cứ do luật định nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. 7 1.1.2. Đặc điểm 1.1.2.1. Về chủ thể áp dụng: chủ thể áp dụng biện pháp bắt bao gồm nhiều cá nhân, cơ quan có thẩm quyền khác nhau mà trong từng trường hợp bắt được xác định cụ thể theo luật định. Chẳng hạn, đối với trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, những người có thẩm quyền ra lệnh bắt là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp, trường hợp này, lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Nhưng đối với trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì bất kỳ ai cũng có quyền bắt khi phát hiện. 1.1.2.2. Về căn cứ áp dụng: biện pháp bắt có tác động, ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, tâm lý, quyền và lợi ích của đối tượng bị áp dụng. Do vậy, để đảm bảo tính thận trọng, không tùy tiện khi áp dụng biện pháp bắt phải xác định rõ các căn cứ theo luật định. Cụ thể tại khoản 1, Điều 109 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định cụ thể: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.” [27]. Đối với từng trường hợp bắt người cụ thể sẽ có những căn cứ áp dụng riêng được quy định trong bộ luật TTHS. Về mặt tổng thể, căn cứ để áp dụng biện pháp bắt có thể chia thành 02 nhóm như sau: Nhóm thứ nhất, là tài liệu, chứng cứ xác định một người có hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt; Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm; bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm ANQG... Nhóm thứ hai, là những tài liệu, chứng cứ có đủ cơ sở xác định khả năng bị can, bị cáo, người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố hoặc người bị yêu cầu dẫn độ sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi 8 hành án, việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành quyết định dẫn độ hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Đó là những tài liệu, chứng cứ xác định họ có thể bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, chuẩn bị phạm tội mới… 1.1.2.3. Về đối tượng bị áp dụng: các khái niệm về biện pháp bắt người được viện dẫn nêu trên đều đề cập đến đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt là bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố về hình sự. Đối với biện pháp bắt người đang bị truy nã thì đối tượng bị áp dụng là người đang có quyết định truy nã, bao gồm: “1. Bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; 2. Người bị kết án trục xuất, người chấp hành án phạt trục xuất bỏ trốn; 3. Người bị kết án phạt tù bỏ trốn; 4. Người bị kết án tử hình bỏ trốn; 5. Người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn” [5]. Ngoài ra, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung thêm trường hợp bắt người bị yêu cầu dẫn độ với đối tượng bị áp dụng là người bị yêu cầu dẫn độ. 1.1.2.4. Về mục đích áp dụng biện pháp bắt: mục đích là kết quả mà chủ thể áp dụng mong muốn đạt được khi thực hiện. Mục đích áp dụng biện pháp bắt thể hiện trên các phương diện sau: Thứ nhất, để kịp thời ngăn chặn tội phạm, bao gồm: ngăn chặn hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm và hành vi phạm tội đang thực hiện. Mặc dù, hành vi chuẩn bị phạm tội chưa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng nó là tiền đề cho việc thực hiện tội phạm, trực tiếp đe dọa đến các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Việc áp dụng biện pháp bắt trong trường hợp này, nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội xảy ra. Trong trường hợp tội phạm đang xảy ra, hành vi phạm tội đã được thực hiện, đang xâm hại đến các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ thì mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân đều có thể áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả tang để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội tiếp diễn, không để tội phạm được thực hiện đến cùng, qua đó sẽ hạn chế được hậu quả, thiệt hại xảy ra. Thứ hai, áp dụng biện pháp bắt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự của cơ quan có thẩm quyền. Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự còn có rất nhiều đối tượng tỏ thái độ bất hợp tác, chống đối lại cơ quan chức năng như: bỏ trốn; tiêu hủy tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án; thông cung, hợp lý hóa lời khai để che giấu sự thật khách quan; uy hiếp, đe dọa người làm 9 chứng, bị hại... Những đối tượng này, cần thiết phải áp dụng biện pháp bắt để đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi. 1.1.3. Vị trí, ý nghĩa, yêu cầu của bắt trong tố tụng hình sự 1.1.3.1. Vị trí: Trong số các BPNC được quy định trong Bộ luật TTHS thì bắt có thể coi là một trong những biện pháp nghiêm khắc nhất và thể hiện rõ quyền lực Nhà nước trong công tác phòng, chống tội phạm. Việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam tác động trực diện đến quyền tự do thân thể của công dân, thể hiện uy quyền và sức mạnh trấn áp của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. 1.1.3.2. Ý nghĩa: - Bắt người thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng các biện pháp bắt sẽ đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vững, đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. - Khi áp dụng biện pháp bắt người sẽ hạn chế một số quyền của công dân, quyền con người của người bị bắt. Nhưng đây là những biện pháp cưỡng chế cần thiết do các CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo, với người chưa bị khởi tố giúp ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. - Bắt người là biện pháp hữu hiệu đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao. Bởi nó loại bỏ những trở lực từ phía người bị buộc tội tác động đến các hoạt động này như: ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc xóa dấu vết phạm tội, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án, đe dọa, thủ tiêu nhân chứng, thông cung… và đảm bảo sự có mặt của họ theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng; từ đó đảm bảo sự chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng nói chung, điều tra vụ án hình sự nói riêng. Tuy nhiên, bắt cũng là công việc hết sức nhạy cảm, phức tạp. Bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt sai thẩm quyền… đều làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm thân thể và sinh mạng chính trị của con người. Ngoài ra nó còn xâm hại hoạt động đúng đắn của các CQĐT, truy tố, xét 10 xử; làm giảm sút uy tín của Nhà nước, giảm sút lòng tin của quần chúng đối với cơ quan tiến hành tố tụng. - Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt đối với người phạm tội mà là các biện pháp được áp dụng để tước bỏ điều kiện gây ra tội phạm, ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật của người thực hiện tội phạm, bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Do vậy với yêu cầu bảo vệ an ninh chính trị nói chung và cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng, bắt phải được tiến hành kiên quyết, kịp thời song không thể áp dụng tràn lan, lạm dụng. Đối với những trường hợp không cần thiết phải bắt thì tuyệt đối không áp dụng các biện pháp này mà có thể áp dụng các BPNC khác có tính chất ít nghiêm khắc hơn như: cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. 1.1.3.3. Yêu cầu của bắt: áp dụng biện pháp bắt không chính xác dễ dẫn đến hậu quả pháp lý nghiêm trọng mà cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải đối mặt, ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của cơ quan bảo vệ pháp luật. Do vậy, Bắt phải được tiến hành một cách thận trọng, hiệu quả và đảm bảo tất cả các yêu cầu về chính trị, pháp luật, cụ thể như sau: - Bắt người phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật: Các cơ quan tiến hành tố tụng và trực tiếp là những người có thẩm quyền trong việc thực hiện biện pháp bắt phải nắm vững và áp dụng đúng các quy định của pháp luật khi bắt bao gồm: căn cứ, đối tượng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời gian, thời hạn… Khi xét quyết định bắt ai thì phải có đủ tài liệu, chứng cứ làm căn cứ chứng minh họ là đối tượng bắt theo quy định của pháp luật; tuyệt đối không được bắt một người nếu họ không thuộc đối tượng theo luật định. Mỗi biện pháp, trường hợp bắt đều có đối tượng tương ứng, không được nhầm lẫn. Chỉ những người có thẩm quyền mới được áp dụng biện pháp bắt và phải tuân theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Bắt phải thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật và đảm bảo quyền con người, không được áp dụng bừa bãi, cẩu thả; bắt không được xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự, sức khỏe, tính mạng của đối tượng bị bắt. - Bên cạnh đó, Bắt người phải phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và của địa phương trong từng thời kỳ, thời điểm và trong từng giai đoạn cách mạng. Bắt một người không chỉ đơn thuần đúng pháp luật mà còn phải đặt trong mối quan hệ với việc thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của 11 Đảng, Nhà nước và địa phương. Việc có bắt đối tượng cần phải được cân nhắc, suy xét kỹ lưỡng trước khi thực hiện. Nếu thấy việc bắt không có lợi cho thực hiện chính sách đoàn kết, chính sách phát triển kinh tế, quan hệ đối ngoại hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, danh dự của Đảng, Nhà nước thì không nên áp dụng các BPNC này. Song nếu thấy việc bắt giúp tạo khí thế cách mạng, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng, Nhà nước, tạo sức mạnh trấn áp, răn đe trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm thì cần thiết phải áp dụng. Tóm lại khi bắt, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải cân nhắc kỹ những lợi - hại, được - mất, lợi ích - hậu quả về chính trị mà nó tạo ra. - Bắt người phải tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra và xử lý vụ án. Mục đích của bắt là nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, đảm bảo cho việc điều tra, truy tố xét xử và thi hành án hình sự được đúng đắn. Do vậy, một trong những yêu cầu của bắt là phải tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra và xử lý vụ án. Trong điều tra vụ án hình sự, CQĐT phải tiến hành nhiều biện pháp khác nhau để điều tra làm rõ vụ án. Bắt thường mở đầu cho việc triển khai các biện pháp điều tra khác như: hỏi cung, khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng…. Do vậy, khi thực hiện BPNC này phải đặt trong mối quan hệ với tổng thể các biện pháp mà CQĐT sẽ tiến hành. Bắt phải tạo tiền đề và điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện các yêu cầu điều tra nhằm đạt được mục tiêu chính là làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Đối với các vụ án có tính chất phức tạp hoặc người cần áp dụng có đặc điểm nhân thân đặc thù thì việc bắt họ phải được cân nhắc kỹ lưỡng, tránh trường hợp bắt nhưng không xử lý được do yêu cầu chính trị, đối ngoại. 1.2. Những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt trong các Bộ luật tố tụng hình sự từ trước đến nay Nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển các quy định về biện pháp bắt trong pháp luật TTHS nước ta qua các thời kỳ, cho thấy chất lượng các quy phạm pháp luật điều chỉnh về biện pháp bắt ngày càng được hoàn thiện, chặt chẽ, phù hợp với xu thế phát triển, đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong tình hình mới. 12 1.2.1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và luật sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992 và 2000 Trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 ra đời, biện pháp bắt được pháp luật quy định tại một số văn bản như: Sắc luật số 103-SL/005 ngày 20/5/1957, Sắc luật số 002-SL ngày 18/6/1057, Sắc luật số 02-SL ngày 15/3/1976, Nghị định số 301/TTg ngày 10/7/1957…, những quy định này theo hướng mở rộng dẫn đến việc áp dụng một cách tràn lan, tình trạng bắt oan, bắt sai nhiều, gây bức xúc trong dư luận nhân dân, làm giảm uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật... Để khắc phục những hạn chế nêu trên, ngày 28/6/1988 Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật TTHS năm 1988. Lần đầu tiên, những quy định về biện pháp bắt người được xây dựng tập trung, thống nhất trong Bộ luật TTHS năm 1988 và có những thay đổi sâu sắc, vượt bậc so với trước đây. Sau này, Bộ luật TTHS năm 1988 có ba lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992 và 2000; các lần sửa đổi, bổ sung đã kịp thời đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm giữ vững thành quả cách mạng, đóng góp cho sự phát triển về kinh tế, xã hội của đất nước; đồng thời, từng bước thể chế hóa những quan điểm mới về cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Bộ luật TTHS năm 1988 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS các năm 1990, 1992 và 2000 quy định về biện pháp bắt bao gồm: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, cụ thể: Một là, bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Điều 62 Bộ luật TTHS năm 1988 đã quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Đây là biện pháp bắt lần đầu tiên được quy định chính thức trong Bộ luật TTHS, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo; đem lại hiệu quả tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bối cảnh tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, với xu hướng ngày càng tăng, nảy sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm với tính chất đặc biệt nghiêm trọng đe dọa đến sự phát triển, ổn định của nước ta trong giai đoạn này. Hai là, bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Bộ luật TTHS năm 1988 đã kế thừa những quy định trong Sắc luật số 02/SL-76, nhưng theo hướng thu hẹp các căn cứ bắt khẩn cấp. Theo đó, Bộ luật TTHS này quy định chỉ còn ba căn cứ để bắt 13 khẩn cấp, thể hiện sự tôn trọng và quan tâm đến các quyền con người, các quyền cơ bản của công dân của Đảng và Nhà nước ta. Đối với người thực hiện tội phạm, việc áp dụng biện pháp bắt trong trường hợp khẩn cấp là hết sức cần thiết, nếu không bắt mà đối tượng bỏ trốn thì sẽ gây rất nhiều khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án. Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS năm 1990 đã sửa đổi hai căn cứ bắt khẩn cấp thành: “- Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. - Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ” [22]. Ngoài ra, để phù hợp với các quy định về phân loại tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 1999, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS năm 2000 đã sửa đổi một căn cứ bắt khẩn cấp thành: “Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [23]. Về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp, Bộ luật TTHS năm 1988 đã thu hẹp thẩm quyền so với các văn bản trước đây, hạn chế được tình trạng lạm quyền trong việc áp dụng. Sau đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS năm 1990 đã bổ sung thêm các chủ thể khác là: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp trong Quân đội nhân dân; Chỉ huy đơn vị quân đội độc lập tương đương cấp trung đoàn cũng có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp cho phù hợp với quy định trong Pháp lệnh Tổ chức ĐTHS năm 1989 và cơ cấu tổ chức trong Quân đội nhân dân. Ba là, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã: Điều 64 Bộ luật TTHS năm 1988 có sự kế thừa quy định tại Sắc luật số 02/SL-76 về bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Tuy nhiên, có thể thấy việc Sắc luật số 02/SL- 76 quy định bắt người đang có lệnh truy nã là một trường hợp bắt người phạm tội quả tang là chưa phù hợp vì bắt người phạm tội quả tang về bản chất khác nhiều so với bắt người đang có lệnh truy nã. Đây là lý do, Bộ luật TTHS năm 1988 đã bổ sung biện pháp bắt người đang bị truy nã. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan