VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THANH HUYỀN
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẢO LĨNH TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THANH HUYỀN
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẢO LĨNH TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN NGỌC ANH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, thông tin và kết quả được nêu trong Luận văn là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đúng theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
TRẦN THANH HUYỀN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN BẢO LĨNH. .............................................................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh
trong tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................. 9
1.2. Khái quát lịch sử phát triển các quy định về biện pháp ngăn chặn
bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ ......................... 18
1.3. Các quy định về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong pháp luật tố
tụng hình sự một số nước .......................................................................... 26
Kết luận chương 1 ..................................................................................... 34
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2015 VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẢO LĨNH ........................................ 35
2.1. Quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh .............. 35
2.2. Quy định về đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh ......... 38
2.3. Quy định về chủ thể nhận bảo lĩnh và trách nhiệm pháp lý của các
chủ thể ....................................................................................................... 43
2.4. Quy định về thẩm quyền và trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp
ngăn chặn bảo lĩnh .................................................................................... 46
2.5. Quy định về hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh ..... 47
Kết luận chương 2 ..................................................................................... 50
Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO
ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẢO LĨNH
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM................................................... 51
3.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong tố tụng
hình sự Việt Nam ...................................................................................... 51
3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng biện pháp ngăn chặn bảo
lĩnh trong tố tụng hình sự. ......................................................................... 66
Kết luận chương 3 ..................................................................................... 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 75
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật Hình sự
BLTTHS:
Bộ luật Tố tụng hình sự
BPNC:
Biện pháp ngăn chặn
THTT:
Tiến hành tố tụng
TTHS:
Tố tụng hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1: Tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên phạm vi toàn quốc
từ năm 2015 đến năm 2019 ................................................................... 511
Biểu đồ 3.1: Tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên phạm vi toàn
quốc từ năm 2015 đến năm 2019 .......................................................... 522
Biểu đồ 3.2: Số bị can, bị cáo áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trên
phạm vi toàn quốc từ năm 2015 đến năm 2019 .................................... 544
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS), các
biện pháp ngăn chặn (BPNC) giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, các biện pháp ngăn chặn được quy
định tại Mục 1 Chương VII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 gồm có: Bắt,
tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, tạm
hoãn xuất cảnh. Các biện pháp ngăn chặn này là công cụ hữu hiệu, được các
cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị
nghi thực hiện tội phạm nhằm ngăn chặn tội phạm, không cho người phạm tội
tiếp tục thực hiện tội phạm, gây khó khăn cho công tác điều tra, đảm bảo cho
công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đúng pháp luật.
Thực tiễn cho thấy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự là vấn đề rất nhạy cảm và được các quốc gia trên thế giới, các tổ chức
quốc tế rất quan tâm do hoạt động này trực tiếp tác động đến các quyền con
người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật các quốc gia quy định
như: Quyền bất khả xâm phạm thân thể, quyền tự do đi lại, quyền làm việc,
sinh hoạt, học tập...Chính vì vậy, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói
chung và biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh nói riêng đòi hỏi các cơ quan có thẩm
quyền phải cân nhắc thận trọng khi áp dụng, tránh gây thiệt hại đến quyền con
người, quyền công dân. Đồng thời, thể hiện việc tuân thủ các quy định của
pháp luật quốc tế cũng như tôn trọng cam kết giữa các quốc gia về bảo vệ
quyền con người, quyền công dân.
Ở Việt Nam, vấn đề tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công
dân ngày càng được đề cao, tôn trọng và bảo vệ. Điều này được thể hiện
thông qua đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đảm bảo công dân
không bị áp dụng BPNC một cách tùy tiện. Tại Khoản 1 Điều 14 Hiến Pháp
1
năm 2013 ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.” [1], tại
Điều 8 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã khẳng định nguyên tắc
tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra
tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy
bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc
không còn cần thiết” [2]. Nội dung này đã được đề cập trong Nghị quyết số
08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp. Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 đã đưa ra
yêu cầu:“Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt giam, giữ đảm bảo đúng
pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết
không phê chuẩn lệnh bắt tạm giữ, tạm giam” [3] và trong Nghị quyết số 49 –
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020” cũng nêu rõ: “Hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối
với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định
việc áp dụng các biện pháp tạm giam; xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo
đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; hoàn thiện các thủ
tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch,
tôn trọng và bảo vệ quyền con người” [4]. Việc thể hiện vấn đề tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong các văn kiện quan trọng của
Đảng vừa thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc hạn chế
áp dụng các BPNC có tính nghiêm khắc, vừa đảm bảo yêu cầu đấu tranh
2
phòng, chống tội phạm gắn liền với việc bảo vệ quyền con người, quyền tự
do, dân chủ của công dân.
Trong số các biện pháp ngăn chặn kể trên, bảo lĩnh là một trong các
BPNC thể hiện được tính ưu việt khi vừa bảo đảm được yêu cầu chung của
một biện pháp ngăn chặn đó là ngăn chặn tội phạm, không cho người phạm
tội tiếp tục thực hiện tội phạm lại vừa tạo điều kiện cho bị can, bị cáo không
bị cách ly khỏi cộng đồng, không bị hạn chế các quyền công dân, miễn sao
việc thực hiện các quyền này không gây cản trở, khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các
cơ quan THTT. Tuy có nhiều ưu điểm nhưng thực tiễn áp dụng biện pháp bảo
lĩnh của các cơ quan THTT những năm qua cũng bộc lộ những hạn chế,
vướng mắc về pháp luật, về nhận thức, tổ chức thực hiện, nhất là những
vướng mắc khi áp dụng các chế tài đối với bị can, bị cáo vi phạm cam kết
hoặc chủ thể nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ bảo lĩnh. Trước tình hình đó,
cần đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu, khắc phục những hạn chế, vướng mắc liên
quan đến BPNC bảo lĩnh, hướng tới hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật tố
tụng hình sự cho phù hợp với tinh thần của Hiến pháp và định hướng của
Chiến lược cải cách tư pháp.
Việc nghiên cứu lý luận, phân tích thực tiễn áp dụng biện pháp chặn
bảo lĩnh trong tố tụng hình sự nhằm đánh giá được những mặt tích cực, hạn
chế khi áp dụng biện pháp này, xác định nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế và đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế đó là rất cần
thiết và có ý nghĩa về cả mặt lý luận và thực tiễn trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền hiện nay. Vì lẽ đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Biện
pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài Luận
văn Thạc sĩ Luật học của mình.
3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài nghiên cứu trên. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu sau:
- Về bài đăng trên tạp chí:
+ Bùi Kiên Điện (1999), Về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, Tạp chí
Luật học.
+ Nguyễn Văn Dũng (2002), Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
và những bất cập, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
+ Trịnh Tiến Việt (2006), Về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Tòa án nhân dân.
+ Trần Quang Tiệp (2006), Một số vấn đề về biện pháp bảo lĩnh quy
định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Kiểm sát.
+ Nguyễn Đức Thuận (2008), Về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Luật học.
+ Lê Thị Tuyết Hoa (2008), Về các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng
hình sự, Tạp chí Kiểm sát.
+ Nguyễn Đình Bình (2008), Một số ý kiến về hoàn thiện các quy định
về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát.
+ Trịnh Tiến Việt (2012), Pháp luật về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và
hướng sửa đổi bổ sung, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
+ Phạm Ngọc Ánh (2012), Một số vướng mắc bất cập khi áp dụng điều
92 Bộ luật tố tụng hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân.
+ Vũ Gia Lâm (2012), Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn, Tạp chí Luật học.
+ Nguyễn Ngọc Kiện (2014), Về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo
lĩnh và cấm đi khỏi nơi cư trú trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
4
- Về sách chuyên khảo:
+ Nguyễn Vạn Nguyên (1995), Các biện pháp ngăn chặn và vấn đề
nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
+ Nguyễn Mai Bộ (1997), Những biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng
hình sự, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
+ Trần Quang Tiệp (2005), Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố
tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Về luận văn, luận án:
+ Nguyễn Văn Điệp (1996), Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội.
+ Lê Thanh Bình (2010), Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội.
+ Hoàng Thị Diệp (2014), Biện pháp ngăn bảo lĩnh trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
+ Đỗ Quý Cường (2016), Các biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm theo luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
Có thể thấy, đã có khá nhiều luận văn, luận án nghiên cứu tổng quan
cũng như chi tiết các nội dung liên quan đến các BPNC nói chung và về
BPNC bảo lĩnh nói riêng. Các công trình khoa học nói trên, đã gợi mở cho tác
giả luận văn nhiều ý tưởng khoa học và là những tài liệu rất bổ ích được sử
dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy chưa có
công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu về những quy định mới
5
về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 so
với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và chỉ ra những bất cập, hạn chế trong
việc áp dụng BPNC trong thực tế qua đó đề xuất ý kiến góp phần hoàn thiện
hơn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do vậy, việc tác giả tiếp tục nghiên
cứu về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh một cách toàn diện là vấn đề cần thiết và
không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích khi nghiên cứu đề tài này là nhằm làm rõ những vấn đề lý
luận chung về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Đồng thời, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn
này và từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như
nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra việc cần
thực hiện các nhiệm vụ chính sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bảo
lĩnh cũng như lịch sử hình thành các quy phạm pháp luật về biện pháp ngăn
chặn này.
- Phân tích, đánh giá những quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh;
- Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh từ
năm 2015 đến 2019 trên phạm vi toàn quốc.
- Chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
bảo lĩnh và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
- Đề xuất những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng biện pháp ngăn chặn
bảo lĩnh trong thời gian tới.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn
bảo lĩnh;
- Phân tích, đánh giá những quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh;
- Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn này trên phạm vi toàn quốc.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong các vấn đề cơ bản sau:
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, ý
nghĩa của biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Bên cạnh việc đi sâu phân tích các
quy định về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, tác giả cũng có so sánh, đối chiếu với những quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 để tìm ra được những hạn chế, bất cập trong Bộ luật tố
tụng hình sự cũ đã được sửa đổi, bổ sung triệt để hay chưa.
- Về thời gian và không gian: Tác giả nghiên cứu trên cơ sở khảo sát
thực tế, thu thập số liệu, tài liệu về tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn
nói chung và biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh nói riêng trên phạm vi toàn quốc
trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phép duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các
quan điểm, chủ chương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về chính
sách hình sự và cải cách tư pháp.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với
yêu cầu của từng vấn đề cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, lịch sử cụ thể… để làm sáng tỏ nội dung
cần nghiên cứu.
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện những vấn
đề lý luận về BPNC bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Việc chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế đó và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong luận văn có giá trị tham khảo thiết thực đối với
các nhà lập pháp hình sự trong quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật tố
tụng hình sự cũng như đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong việc tìm
hiểu và áp dụng pháp luật. Cùng đó, luận văn cũng là một tài liệu tham khảo
bổ ích trong quá trình giảng dạy tố tụng hình sự và cho những ai quan tâm đến
vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử phát triển của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh.
Chương 2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện
pháp ngăn chặn bảo lĩnh
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam.
8
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
BẢO LĨNH.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bảo
lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh
Để việc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả, pháp luật tố tụng
hình sự (TTHS) nước ta đã quy định các biện pháp cưỡng chế khác nhau.
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế TTHS có các biện pháp ngăn chặn
(BPNC) nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện tội phạm gây
khó khăn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Chế định các
biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự.
Việc quy định và áp dụng một cách đúng đắn, chính xác các biện pháp ngăn
chặn là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS để
phát hiện chính xác, nhanh chóng, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh
đối với kẻ phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Pháp
luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới đều có quy định về các biện
pháp ngăn chặn. Tùy theo pháp luật của từng nước và ở từng thời điểm khác
nhau mà các biện pháp ngăn chặn được quy định có thể có sự khác nhau về số
lượng, tên gọi, thủ tục áp dụng… Mặc dù vậy, bản chất chung của các biện
pháp này đều là các biện pháp mang tính chất cưỡng chế, do cơ quan tiến
hành tố tụng (THTT) thực hiện nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn những
hành vi gây khó khăn, cản trở cho việc giải quyết vụ án hình sự.
Hiện nay, pháp luật TTHS Việt Nam quy định nhóm các BPNC tại
Chương VII Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 gồm có: Bắt người trong
trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; bắt bị
9
can, bị cáo để tạm giam; giữ người trong trường hợp khẩn cấp; tạm giữ; tạm
giam; cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm và tạm hoãn xuất
cảnh. Việc áp dụng các BPNC này có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của
cá nhân người bị áp dụng nhất là quyền nhân thân, quyền tự do cá nhân và các
quyền con người cơ bản khác. Các BPNC có tính nghiêm khắc hơn so với các
biện pháp cưỡng chế khác trong TTHS, nên khi áp dụng các cơ quan THTT
cần cân nhắc thận trọng, tránh gây thiệt hại đến quyền con người, quyền công
dân đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.
Bảo lĩnh là một trong những BPNC được quy định trong tố tụng hình
sự. Về khía cạnh ngôn ngữ, theo Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh thì bảo
lĩnh nghĩa là “nhận, gánh vác trách nhiệm về một việc gì hay một người nào” [5]
hay theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì bảo lĩnh là “dùng tư
cách, uy tín của mình để bảo đảm cho hành động, tư cách của người khác” [6].
Còn ở khía cạnh pháp lý, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau xung
quanh khái niệm bảo lĩnh, có thể nêu ra một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn của
TTHS áp dụng thay thế cho biện pháp tạm giam được các cơ quan tiến hành
tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy
cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy
tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan
tiến hành tố tụng” [7].
Quan điểm thứ hai cho rằng: Bảo lĩnh là BPNC được quy định trong
BLTTHS do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam
đối với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn
tạm giữ, tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm
giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm
10
sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát hoặc Tòa án [8].
Quan điểm này đã nêu lên được những nội dung cơ bản về BPNC bảo lĩnh
như chỉ ra được bản chất pháp lý của BPNC bảo lĩnh là biện pháp thay thế biện
pháp tạm giam, đối tượng bị áp dụng, điều kiện áp dụng cũng như mục đích khi
áp dụng BPNC này. Tuy nhiên, quan điểm này lại chưa đề cập đến các căn cứ cụ
thể áp dụng và chủ thể nào có thẩm quyền áp dụng BPNC bảo lĩnh.
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội lại có quan điểm cho rằng: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị
can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy cam đoan không để bị can,
bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy
triệu tập” [9]. Quan điểm này đã làm rõ được thẩm quyền áp dụng BPNC bảo
lĩnh thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; đối tượng áp dụng là bị
can, bị cáo; chủ thể nhận bảo lĩnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức; mục đích
của biện pháp này là nhằm bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy
triệu tập… Song, quan điểm này cũng chưa đưa ra được căn cứ cụ thể để áp
dụng biện pháp này là gì?
Còn theo khoản 1 Điều 121 BLTTHS năm 2015 thì: “Bảo lĩnh là biện
pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh”.
Như vậy, theo quan điểm của nhà lập pháp thì căn cứ áp dụng BPNC bảo lĩnh
chính là căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội và nhân thân của bị can, bị cáo nhưng cũng chưa đề cập đến các tiêu chí khác
như chủ thể nhận bảo lĩnh, điều kiện và mục đích áp dụng biện pháp này.
11
Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về cùng một khái niệm “bảo
lĩnh”, nhưng về cơ bản các quan điểm nêu trên ở phương diện nào đó đều đã
chỉ ra được nội hàm của khái niệm bảo lĩnh. Song phân tích từng quan điểm
có thể thấy mỗi quan điểm lại có những hạn chế nhất định. Có quan điểm nêu
ra được bản chất của BPNC bảo lĩnh nhưng lại không nêu căn cứ áp dụng; có
quan điểm chỉ ra được căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng thì lại thiếu các
nội dung liên quan đến điều kiện áp dụng, mục đích áp dụng… Có thể thấy,
việc khái niệm này được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau như vậy là do
hiện nay chưa có sự hướng dẫn cụ thể của các nhà làm luật cũng như chưa có
sự thống nhất chung trong giới khoa học về nội hàm của khái niệm bảo lĩnh.
Qua việc phân tích và tổng hợp các quan điểm về BPNC bảo lĩnh, tác
giả nhận thấy để xây dựng được khái niệm về BPNC bảo lĩnh một cách đầy
đủ, chính xác thì trong khái niệm đó phải đề cập được đến các dấu hiệu đặc
trưng của biện pháp này như: Bản chất pháp lý của bảo lĩnh là gì? Thẩm
quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này? Căn cứ áp dụng? Đối tượng bị áp
dụng? Chủ thể nhận bảo lĩnh gồm những ai? Thủ tục và mục đích áp dụng?
Từ những vấn đề trên, có thể đưa ra một nhận định khoa học, đầy đủ về
khái niệm bảo lĩnh như sau: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn do những người
có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng thay thế
biện pháp ngăn chặn tạm giam trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, cho
phép cá nhân hoặc tổ chức làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp
tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có
mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.
Từ khái niệm trên có thể chỉ ra một số đặc điểm của BPNC bảo lĩnh
như sau:
Một là, BPNC bảo lĩnh được áp dụng để thay thế cho BPNC tạm giam.
Trong trường hợp xét thấy việc áp dụng BPNC tạm giam đối với bị can, bị
12
cáo là không cần thiết và có đủ căn cứ, điều kiện theo quy định của pháp luật
để bảo đảm bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội hoặc cản trở hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử thì cơ quan THTT áp dụng BPNC bảo lĩnh đối với họ.
Hai là, tính chất của BPNC bảo lĩnh ít nghiêm khắc hơn so với biện
pháp tạm giữ hay tạm giam. Bởi đối với một số loại tội phạm với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
lần đầu, có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng và có cá nhân hoặc tổ chức đứng
ra nhận bảo lĩnh… thì được áp dụng BPNC bảo lĩnh. Theo đó, bị can, bị cáo
sẽ không bị tách ra khỏi cộng đồng, không bị hạn chế các quyền công dân
khác như người bị tạm giữ, tạm giam. Điều này đã thể hiện được chính sách
nhân đạo của Nhà nước ta. Bên cạnh đó, ưu điểm của việc áp dụng BPNC này
là tránh được tình trạng quá tải trong các nhà tạm giữ, trại tạm giam, giúp tiết
kiệm cho ngân sách Nhà nước.
Ba là, đối tượng bị áp dụng BPNC bảo lĩnh chỉ có thể là bị can, bị cáo.
Không phải tất cả các bị can, bị cáo thuộc đối tượng bị tạm giam đều có thể
được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh mà chỉ bị can, bị cáo thuộc đối
tượng bị tạm giam và có đủ các căn cứ, điều kiện áp dụng quy định tại khoản
1 Điều 109 và khoản 1 Điều 121 BLTTHS năm 2015 thì mới có thể được áp
dụng BPNC bảo lĩnh. Thực tiễn cho thấy, bị can, bị cáo được áp dụng BPNC
này phải là phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng,
thái độ khai báo thành khẩn… đồng thời có cá nhân hoặc tổ chức đứng ra
nhận bảo lĩnh [10].
Bốn là, BPNC bảo lĩnh chỉ được áp dụng khi có đủ căn cứ và điều kiện
do pháp luật quy định. Theo đó, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn
được quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS năm 2015. Ngoài ra, các cơ
quan THTT cần phải dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
13
hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo để xem xét việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn này.
Năm là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC bảo lĩnh là những người
có thẩm quyền của các cơ quan THTT (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án), khi xét thấy các căn cứ và điều kiện để áp dụng BPNC bảo lĩnh đã đáp
ứng theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp
dụng BPNC bảo lĩnh, đề nghị cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh làm giấy
cam đoan về nghĩa vụ bảo lĩnh của mình.
Sáu là, mục đích của BPNC bảo lĩnh là nhằm bảo đảm không để bị can,
bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo
đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan THTT.
BPNC bảo lĩnh tạo điều kiện để bị can, bị cáo không bị cách ly khỏi cộng
đồng, xã hội cùng với đó là nhận được sự giúp đỡ, giám sát, giáo dục từ phía
gia đình, không bị hạn chế các quyền tự do, miễn sao việc thực hiện các
quyền đó không gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Qua những phân tích về khái niệm, đặc điểm của BPNC bảo lĩnh ở trên
giúp chúng ta hiểu hơn về BPNC bảo lĩnh trong TTHS và tránh được tình trạng
nhầm lẫn với biện pháp bảo lãnh trong quan hệ pháp luật dân sự. Cụ thể như sau:
Xét về cách phát âm, nhiều người cho rằng bảo lĩnh với bảo lãnh thực
chất là một, còn việc phát âm khác nhau là do tính chất vùng miền. Điều này
hoàn toàn không chính xác bởi ngay trong Sổ tay thuật ngữ pháp lí thông
dụng cũng đã có ghi rõ về hai thuật ngữ này như sau:
Bảo lĩnh: Sự cam kết của cá nhân hoặc tổ chức trước Cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án về việc nhận bị can, bị cáo về để quản lý, giáo
dục… [11].
Bảo lãnh: Một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong đó người
bảo lãnh cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ này thay cho
14
- Xem thêm -