Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn cảm hứng thế sự đời tư trong thơ việt nam 1975 2000...

Tài liệu Luận văn cảm hứng thế sự đời tư trong thơ việt nam 1975 2000

.PDF
109
121
88

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN TRỊNH THỊ HẰNG Cảm hứng thế sự đời tư trong thơ Việt Nam 1975 - 2000 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC 5.04.33 Người hướng dẫn: GS.TS. Lê Văn Lân Hà nội - 2006 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 4 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................ 13 CHƢƠNG1 TÌNH HÌNH Xà HỘI VÀ SỰ ĐỔI MỚI THƠ VIỆT NAM 131975-2000 ...... 13 1.1.Đời sống xã hội và đời sống thơ ca. ........................................................................... 13 1.1.1.Những chuyển biến của đời sống xã hội mười năm sau chiến tranh và một giai đoạn thơ ca. ................................................................................................................ 14 1.1.2. Đời sống xã hội những năm sau đổi mới( Đại hội Đảng VI. 1986) và sự tồn tại của hai xu hướng thơ ca: Xu hướng quay về thế sự đời tư và xu hướng hiện đại chủ nghĩa. 18 1.2. Đổi mới còn là nhu cầu nội tại của bản thân văn học. ................................................ 27 1.2.1. Quan niệm về hiện thực và vai trò của chủ thể sáng tạo. .................................... 27 1.2.2. Quan niệm chức năng văn học và sự hình thành của lớp độc giả kiểu mới. ......... 31 1.2.3. Lực lượng sáng tác. ........................................................................................... 33 CHƢƠNG 2 CẢM HỨNG THẾ SỰ ĐỜI TƢ TRONG THƠ VIỆT NAM 1975-2000. ....... 36 2.1. Cảm hứng thế sự trong thơ Việt Nam 1975-2000. ..................................................... 36 2.1.1 Sự lật trở các giá trị hiện thực, con người, xã hội. ............................................... 36 2.1.2. Sự mở rộng phản ánh các trạng thái xã hội trên bình diện đạo đức. ................... 41 2.1.3. Trở về với các giá trị truyền thống. .................................................................... 48 2.2. Cảm hứng đời tƣ trong thơ Việt Nam 1975-2000. ..................................................... 53 2.2.1. Hành trình đi tìm bản ngã. ................................................................................. 53 2.2.2. Tình yêu là chủ đề chính. ................................................................................... 63 CHƢƠNG 3 HÌNH THỨC THỂ HIỆN THƠ VIỆT NAM 1975-2000 ................................ 72 3.1. Ngôn ngữ. ................................................................................................................ 73 3.1.1. Ngôn ngữ đời thường suồng sã. ......................................................................... 74 3.1.2 Ngôn ngữ trong sáng, giản dị. ............................................................................. 78 3.1.3. Ngôn ngữ hàm ẩn, giàu sức gợi.......................................................................... 81 3.2. Hình ảnh. ................................................................................................................. 83 3.2.1. Nhiều vấn đề của cuộc sống được nhận thức lại dẫn đến sự thay đổi ý nghĩa của một số biểu trưng trong thơ. ........................................................................................ 83 3.2.2. Sự xuất hiện của một số biểu trưng mới.............................................................. 86 3.2.3. Các biểu trưng mang dáng dấp dân gian. ........................................................... 87 3.3. Thể loại. ................................................................................................................... 88 3.3.1. Giới thuyết về khái niệm. ................................................................................... 88 3.3.2 Một số thể thơ, truyền thống và cách tân. ............................................................ 89 1 PHẦN KẾT LUẬN. .......................................................................................................... 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 103 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1, L‎ý do chọn đề tài. 1.1 Một thời kỳ thơ ca đang lưu chuyển. Thơ ca Việt Nam sau chiến tranh, tính từ thời điểm 1975 đến nay đã diễn ra hơn 1/4 thế kỷ và vẫn đang trong giai đoạn định hình. Nhận diện một giai đoạn thơ ca đang lƣu chuyển là công việc không dễ dàng. Những năm trở lại đây vấn đề nhìn nhận văn học sau chiến tranh đang gây nên nhiều cuộc tranh cãi trong giới phê bình và sáng tác với nhiều ý‎kiến phân tán, không trùng khớp và thậm chí đối nghịch nhau. Một trong những khó khăn của việc đánh giá đó là chúng ta chƣa có một khoảng cách cần thiết để nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan, toàn diện văn học trong những tƣơng quan nhiều mặt: thời đại, lịch sử, dân tộc và sự phát triển của con ngƣời Việt Nam. Mặt khác, văn học nói chung và thơ ca nói riêng đang chịu sự tác động sâu sắc của nền kinh tế thị trƣờng. Bên cạnh thuận lợi là chúng ta có thể tự do sáng tác( ai có khả năng đều có cơ hội viết hết mình, và viết bằng chính suy nghĩ, cảm xúc của mình chứ không phải bằng bất cứ dạng đặt hàng ép uổng nào (nói cách khác, cái gọi là “cá tính sáng tạo” hay “chủ thể sáng tạo”đã đƣợc coi trọng); hạn chế của kinh tế thị trƣờng đối với văn học là nhiều ngƣời sẽ lợi dụng vào cái gọi là “tự do sáng tạo” để phát ngôn bừa bãi, phục vụ lợi ích cá nhân hay thị hiếu của một thiểu số độc giả thiển cận nào đó. Ngay trong lĩnh vực phê bình, khái niệm “Tự do” cũng có nhiều vấn đề phải bàn cãi. Có nhiều đánh giá, nhiều nhận định, nhiều cách tiếp cận nghiêm túc nhƣng cũng không thiếu thái độ phá phách, lăng xê hoặc hạ bệ thái quá vì những lý do ngoài văn chƣơng, đôi khi đánh mất định hƣớng đối với những ngƣời sáng tác vẫn trong giai đoạn tìm đƣờng. 1 Yêu cầu đƣa ra một cách nhìn khách quan, khoa học để phán xét phân minh đối với nền thơ ca đang lƣu chuyển và còn nhiều phức tạp là vấn đề cấp thiết. 1.2.Vai trò chủ đạo của cảm hứng thế sự đời tư. Đánh giá một cách hệ thống và toàn diện thơ Việt Nam 1975-2000, có thể thấy rằng cảm hứng thế sự đời tƣ đóng vai trò chủ đạo thu hút phần lớn nỗ lực tìm kiếm sáng tạo của giới sáng tác về nội dung cũng nhƣ hình thức. Điều này tạo nên những thay đổi căn bản của thơ sau chiến tranh so với các giai đoạn trƣớc. Sau chiến tranh, thơ quay về với những vấn đề nhân sinh, thế sự và đời sống cá nhân. Tinh thần dân chủ, cảm hứng sự thật và những định hƣớng thơ ca sau thời kỳ đổi mới đã đem đến cho thơ giai đoạn này nhiều sắc thái mới lạ. Tìm kiếm các giá trị cũng nhƣ những hạn chế về nội dung- hình thức của một thời kỳ thơ ca, nguyên nhân hình thành và xu hƣóng phát triển của nó cũng là vấn đề quan trọng góp phần vào công cuộc xây dựng một nền văn học mang giá trị nhân văn sâu sắc. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1.Tình hình nghiên cứu chung về thơ sau 1975. Thơ Việt Nam từ 1975 đến nay mới đi đƣợc trên một phần tƣ thế kỷ. Vì thế, những công trình nghiên cứu thực sự có bề dày về thơ ca giai đoạn này còn rất ít ỏi. Nhƣng với đặc điểm của một nền thơ ca đang lƣu chuyển, thêm vào đó là tác động mạnh mẽ của tinh thần dân chủ trong sáng tác cũng nhƣ phê bình và những biến đổi nội tại của nó…thơ ca giai đoạn này lại có khả năng tạo nên những cuộc tranh luận sôi nổi( đặc biệt cuộc tranh luận kéo dài tới nửa năm trên báo Văn Nghệ). Vấn đề nhận định giá trị văn học thời kỳ này trong tƣơng quan so sánh với thành tựu thơ ca dân tộc, thêm vào đó là cách đặt vấn đề định hƣớng sáng tác, về đổi mới - sáng tạo vì thị hiếu hay vì những giá trị đích thực của văn chƣơng…là những vấn đề mang tính thời sự của thơ 1975-2000. Có thể 2 nói, lý‎ luận phê bình về thơ sau chiến tranh vẫn còn đang ở dạng phân tán và chƣa ngã ngũ. Cuộc tranh luận tốn nhiều giấy mực nhất và theo chúng tôi cũng là vấn đề thời sự nhất của thơ Việt Nam sau chiến tranh là sự ra đời của chủ nghĩa hiện đại. Chúng tôi hệ thống thành ba quan điểm: Quan điểm cổ vũ và giới thuyết cho thơ hiện đại. Đó là quan điểm của các nhà thơ Lê Đạt, Hoàng Hƣng, Nguyễn Quang Thiều và các nhà nghiên cứu văn học nhƣ Đỗ Đức Hiểu, Phạm Xuân Nguyên…Họ cho rằng sau 60 năm, cuộc cách mạng thơ ca lần thứ nhất đang kết thúc. Lịch sử văn học đang chờ đợi một cuộc cách mạng thi ca mới và lần này hƣớng đi của nó là tƣợng trƣng siêu thực. Những ngƣời theo quan điểm này tích cực giới thiệu các tập thơ Người đi tìm mặt(Hoàng Hƣng), Ô mai, Bến lạ(Đặng Đình Hƣng), Bóng chữ(Lê Đạt)…và cho rằng các tập thơ này là thơ hiện đại đang đến cả về quan niệm lẫn thi pháp. Quan điểm thứ hai phủ nhận triệt để thơ hiện đại hôm nay , cho đó là thứ thơ quái dị do chịu nhiều ảnh hƣởng của các trào lƣu chủ nghĩa hiện đại suy đồi ở Phƣơng Tây đã từ lâu trở thành đồ phế thải. Tiêu biểu cho quan điểm này là Trần Mạnh Hảo với tập phê bình Thơ phản thơ. Giữ một giọng điệu châm biếm trong hàng loạt bài viết: Thơ hiện đại và hiện đại thơ, Thơ- phản thơ, Đổi mới hay đổi gác, Nhân đọc “ bóng chữ” , bàn về chữ và nghĩa trong thơ… Trần Mạnh Hảo quyết liệt đến mức cực đoan trong đánh giá các tác giả thơ hiện đại. Thậm chí, Trần Mạnh Hảo còn đặt tên cho thơ hiện đại là Thơ hác hác, Thơ mít đặc, Thơ đồi mông, Thơ thoát y … Quan điểm thứ ba mà đại diện là các nhà phê bình Mã Giang Lân, Mai Hƣơng, Lê Lƣu Oanh, Vũ Tuấn Anh… cho rằng tuy chƣa có những đóng góp thực sự mới mẻ và không ít hạn chế, thơ chủ nghĩa hiện đại đáng đƣợc quan tâm phân tích và tìm hiểu nhƣ một trong những bƣớc mở của thơ Việt Nam đƣơng đại. 3 Bên cạnh cuộc tranh luận về chủ nghĩa hiện đại, vấn đề hƣớng nội hay hƣớng ngoại trong thơ cũng đƣợc chú ‎đặc biệt và có nhiều ý kiến trái ngựơc. Nhà thơ Tố Hữu, một cây bút có nhiều đóng góp cho thơ ca Cách mạng nhận định: “Chúng tôi không thích thơ bây giờ. Nó vụn vặt, nó rơi vào những tình cảm riêng tƣ nhiều quá. Trong khi cuộc đời có bao nhiêu chuyện đau khổ, chuyện liên quan đến cả sinh mệnh loài ngƣời, của cả dân tộc mà không đụng gì cả”. Trong cuốn Thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại, tác giả Nguyễn Bá Thành cũng nhận xét: “Hƣớng nội là đặc điểm lớn của toàn bộ nền thơ. Tƣ duy thơ hiện đại thiên về hƣớng nội sau một thời gian say sƣa hƣớng ngoại. Hƣớng nội mà vẫn có thể quan tâm sâu sấc đến đời sống chính trị xã hội, trong nƣớc và quốc tế, đến nhân tình thế thái bao la. Đó chính là đi tìm sự hài hoà. Ở thời điểm hiện nay thơ chúng ta chƣa làm đựơc điều đó. (70 - tr302) Trong khi đó nhận định của hội đồng tuyển chọn Tuyển tập thơ Việt Nam 1975-2000 lại toát lên sự lạc quan: “Kể từ 1945 đây là giai đoạn thơ nƣớc ta có bƣớc phát triển mở rộng nhất. Việc mở rộng các chủ đề và đa dạng hoá phƣơng pháp sáng tác tạo nên một bức tranh thơ rực rỡ sắc màu và còn đang biến đổi” (Tập1- tr5). Chúng tôi điểm qua các vấn đề đang đƣợc tranh luận trong thơ Việt Nam 1975-2000 với mong muón phản ánh đời sống văn học sau chiến tranh. Đó là một giai đoạn thơ ca đầy phức tạp và đang đòi hỏi đƣợc nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống để trả lời câu hỏi thơ Việt Nam đang đứng ở đâu. Tất nhiên điều này không xa mục đích đề tài: tìm kiếm sự ổn định của cảm hứng thế sự đời tƣ trong tính bất ổn của thơ đƣơng đại. 2. 2. Những vấn đề liên quan đến đề tài. 4 Nhận diện một giai đoạn văn học, nhất là giai đoạn văn học đang lƣu chuyển luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà nghiên cứu. Hầu hết trong các công trình nghiên cứu văn học có bề dày các tác giả đều cố gắng hệ thống các đặc điểm của thơ ca Việt Nam sau chiến tranh. Cảm hứng thế sự đời tƣ đựơc xem là một đặc điểm của thơ ca thời kỳ này. Tác giả Vũ Tuấn Anh trong chuyên luận: Nửa thế kỷ thơ Việt Năm 1945-1975 dành cả chƣơng ba để trình bày về các kiểu cái tôi trữ tình trong thơ sau 1975. Tác giả hệ thống thành các nội dung: “Cái tôi tiếp tục khuynh hƣớng sử thi và đối thoại với sử thi”, “Cái tôi gắn với những vấn đề nhân sinh thế sự”, “Cái tôi trở về với những giá trị truyền thống và nhân bản”, “Cái tôi sáng tạo có tính chất cực đoan” (tr189). Tác giả cũng đã bàn đến hình thức của thơ Việt Nam đƣơng đại trên bình diện cấu trúc, ngôn ngữ, hình tƣợng. Trong chuyên luận Thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990 tác giả Lê Lƣu Oanh cũng tập trung khảo sát cái tôi trữ tình trong thơ sau 1975. Tác giả nhận diện ba kiểu loại cái tôi: Cái tôi sử thi, cái tôi thế sự và đời tƣ, cái tôi mang xu hƣớng hiện đại chủ nghĩa. Tác giả Phạm Quốc Ca trong chuyên luận Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975-2000 cho rằng việc chỉ ra những đặc điểm của thơ Việt Nam là vấn đề tiếp tục phải giải quyết”(8- tr 10). Tác giả đã tập trung nghiên cứu thơ ca giai đoạn này trong tính toàn diện của nó; những tác động của đời sống xã hội, nội dung và hình thức, bao gồm 5 chƣơng chuyên luận: “Cơ sở hiện thức xã hội và ‎ý thức thẩm mỹ của thơ Việt Nam 1975-2000”, “Một giai đoạn tiếp nối thơ cách mạng với những đổi mới theo hƣớng sử thi và thế sự hoá”, “Một giai đoạn thơ trở về với trữ tình cá nhân”, “Một giai đoạn thơ trăn trở hiện đại hoá”, “Mấy đặc điểm về phƣơng diện thi pháp”( 8-tr 11). 5 Bài viết Nhận diện thơ qua hệ thống thể tài của tác giả Bích Thu cũng đã cố gắng hệ thống thơ Việt Nam sau chiến tranh và đã chỉ ra các chủ đề chính nhƣ: “Cảm hứng sự thật về hiện thực và con ngƣời”,”Đi tìm bản thân, trở về với cái tôi, khẳng định cá tính”, “Tình yêu trong thơ”, “Cảm nhận thời gian, cái chết”, “Thế giới tâm linh”…(54). Ngoài ra, một số bài viết của các tác giả nhƣ Nguyễn Văn Long, Vũ Văn Sỹ, Nguyễn Văn Hạnh, Hữu Thỉnh, Phong lê… cũng đƣa ra những nhận xét ban đầu về nội dung trữ tình thế sự đời tƣ trong thơ sau chiến tranh: “Từ nửa sau những năm tám mƣơi- đột nhiên và mạnh mẽ, nội dung thơ trữ tình chuyển hƣớng nhanh chóng sang các chủ đề xã hội”(54- tr 103); “Từ nửa sau những năm 80 chất liệu thơ đã dần dần thay đổi. Bây giờ là lúc có thể nói đến cái tôi trong những sắc thái bình thƣờng, tự nhiên hồn nhiên của nó, một cái tôi vẫn là trong cộng đồng nhƣng không bị chen lấn hoặc chi phối đến mất cả đƣờng biên riêng” (42tr619); “Bên cạnh cảm hứng độc lập tự do của cộng đồng, bây giờ đã nổi lên những suy ngẫm về hạnh phúc, về số phận của tập thể và từng cá nhân trong cuộc sống hiện tại”(24- tr 248). Các bài viết mang tính cảm nhận về các tác giả, tác phẩm thơ sau chiến tranh cũng xuất hiện khá nhiều trên các báo và tạp chí. Điều này tạo nên cái nhìn đa chiều về một thời kỳ thơ ca. Khảo sát các công trình nghiên cứu thơ ca sau chiến tranh, chúng tôi thấy rằng cảm hứng thế sự đời tƣ là một đặc điểm của thơ ca giai đoạn này và nó có tính khu biệt làm thay đổi diện mạo thơ ca đƣơng đại trong tiến trình thơ ca dân tộc. Tuy nhiên, nó chƣa đƣợc tập trung nghiên cứu độc lập nhƣ một đặc điểm quan trọng nhất của thơ Việt Nam sau chiến tranh cho đến thời điểm này, bắt đầu có dấu hiệu từ khuynh hƣớng phi sử thi và là một trong những nguyên nhân góp phần chi phối sự hình thành của chủ nghĩa hiện đại sau này. 3. Nhiệm vụ của luận văn. 6 3.1. Xác định mối quan hệ đời sống xã hội đối với sự chuyển biến của thơ ca về nội dung cũng như hình thức. Các khuynh hƣớng sử thi, khuynh hƣớng trở về với vấn đề nhân sinh thế sự, khuynh hƣớng chủ nghĩa hiện đại trong thơ ca 1975 đến nay đều có nguyên nhân xã hội. Tuy nhiên, mối quan hệ văn học- đời sống không phải mối quan hệ giản đơn, một chiều, và không phải bất cứ hiện tƣợng văn học nào cũng đƣợc lý‎ giải từ nguyên nhân xã hội, mà văn học có những quy luật sáng tạo riêng của nó. Luận văn chú ý mô tả tình hình xã hội Việt Nam từ Đại hội ĐCS lần thứ VI với tƣ cách là một nhân tố tác động sâu sắc đến sự hình thành cảm hứng thế sự đời tƣ sau 1975- là đối tƣợng nghiên cứu của luận văn.. Luận văn cũng xây dựng các nguyên tắc có tính lý luận đối với sự chuyển biến của thời kỳ văn học nhƣ: Quan niệm thẩm mỹ, hệ thống hình tƣợng, đề tài… 3.2. Trình bày nội dung cảm hứng thế sự đời tư. Xác định các luận điểm và đặc biệt tìm kiếm những đổi mới về nội dung cũng nhƣ hình thức cảm hứng thế sự đời tƣ ở cả phƣơng diện đồng đại và lịch đại. Sự thức tỉnh nhu cầu cá nhân, sự quan tâm nhiều hơn đến con ngƣời trong tính cụ thể, cá biệt với những nhu cầu trong thời bình là bƣớc chuyển tất yếu của ý‎ thức xã hội. Nói khác đi, tinh thần dân chủ và cảm hứng nhân bản là những đặc điểm nổi bật của văn học thời kỳ đổi mới. Con ngƣời đƣợc mô tả trong tính đa dạng đa chiều của nó, yếu tố tâm linh đựơc thể hiện, các vấn đề xã hội đƣợc lật trở lại nhƣ vấn đề về ngƣời lính, về hạnh phúc, về lịch sử, chiến tranh…là những đặc điểm mang đậm tinh thần thời đại hôm nay. Nhận diện cảm hứng thế sự đời tƣ trong thơ 1975-2000 với những đóng góp và hạn chế của nó một mặt luận văn muốn có định hƣớng khách quan trong đánh giá văn học thời kỳ này, mặt khác xác định vị trí thơ ca sau chiến tranh đang đứng ở đâu trong tiến trình thơ ca dân tộc. 3.3. Trình bày hình thức thể hiện thơ 1975-2000. 7 Xác định mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Những đổi mới về nội dung cảm hứng thế sự đời tƣ đã dẫn đến những thay đổi về hình thức so với truyền thống trên nhiều phƣơng diện: thể loại, hình ảnh, ngôn ngữ… 4. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Phương pháp thích hợp để giải quyết vấn đề luận văn là phân tích và quy nạp. Luận văn miêu tả, phân tích các nội dung của cảm hứng thế sự đời tƣ, quy nạp chúng từ các tác phẩm, xác định những lý‎ do thuộc chức năng thẩm mỹ và chức năng xã hội của chúng trong các cấp độ chỉnh thể nghệ thuật. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ: Phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp cấu trúc, phƣơng pháp loại hình... là những phƣơng pháp nghiên cứu hiện đại với mong muốn nhận diện một giai đoạn văn học trong tính toàn diện của nó. 4.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.. Thơ Việt Nam sau chiến tranh đƣợc xác định từ mốc 1975 đến nay và vẫn trong thời kỳ lƣu chuyển, có thể kéo dài về sau này, đến khi có một thời kỳ văn học mới với những yếu tố mới mẻ có thể thay đổi diện mạo của nó. Chúng tôi khu biệt từ 1975-2000 để có thể khảo sát và nghiên cứu đối tƣợng một cách tƣơng đối ổn định, nhất là trong thời kỳ thơ ca chịu ảnh hƣởng sâu sắc của kinh tế thị trƣờng và đƣợc xuất bản một cách ồ ạt không thể kiểm soát. Về nguyên tắc, phƣơng pháp tiếp cận tác giả tác phẩm là bình đẳng. Tuy nhiên, luận văn chú trọng phân tích những tác giả, tác phẩm đã đƣợc rộng rãi độc giả biết đến, hoặc đã đựơc in nhiều lần qua các tập thơ. 5. ‎Ý nghĩa và đóng góp của luận văn. Thực hiện đề tài cảm hứng thế sự đời tƣ trong thơ Việt Nam 19752000, chúng tôi mong muốn đạt tới những đóng góp sau: 8 5.1 Về mặt lịch sử văn học: Tiếp cận thể tài thế sự đời tƣ trong thơ Việt Nam 1975-2000 dƣới cả góc độ nội dung và hình thức, nhìn nhận nó nhƣ là yếu tố quan trọng nhất mang nhiều thành tựu cách tân về nội dung cũng nhƣ hình thức của thơ ca sau chiến tranh. Đề tài không nằm ngoài mục đích nhận diện cái tôi trữ tình của một giai đoạn thơ, khả năng phản ánh tinh thần thời đại của nó thông qua mối quan hệ giữa văn học và đời sống, quan hệ giữa con ngƣời với thơ ca. 5.2. Về mặt lý‎ luận văn học: Nghiên cứu cảm hứng thế sự đời tƣ trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Xem xét sự mở rộng chức năng xã hội- thẩm mỹ của các yếu tố phƣơng thức, phƣơng tiện thơ ca, nhƣ là sự tiến hoá của thể loại trữ tình. 5.3. Trong sự nghiệp đổi mới văn học hiện nay, luận văn góp phần đánh giá khách quan đối với một giai đoạn văn học, đặc biệt là khi mà thơ ca đang tìm kiếm một lối thể hiện mới, đang băn khoăn với câu hỏi nhƣ thế nào và thế nào là đổi mới. Con đƣờng triển vọng nhất để hiện đại hoá thơ là phát huy đƣợc bản chất và chức năng đặc thù của thơ, thể hiện đƣợc tinh thần thời đại, và luôn giữ đƣợc mối dây đồng cảm giữa ngƣời viết với ngƣời đọc. 6. Cấu trúc của luận văn. Tƣơng ứng với những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đựơc triển khai thành ba chƣơng: Chƣơng 1 - Tình hình xã hội và sự đổi mới thơ. Chƣơng 2- Cảm hứng thế sự đời tƣ trong thơ Việt Nam 19752000. Chƣơng 3- Hình thức thể hiện cảm hứng thế sự đời tƣ trong thơ Việt Nam 1975-2000. 9 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG1 TÌNH HÌNH Xà HỘI VÀ SỰ ĐỔI MỚI THƠ VIỆT NAM 1975-2000 1.1.Đời sống xã hội và đời sống thơ ca. Sau chiến tranh, thơ Việt Nam chuyển biến khá phức tạp và hình thành nhiều xu hƣớng khác nhau. Theo cách hình dung mà giới nghiên cứu văn học đang chấp nhận, chúng tôi tạm chia sự phát triển của thơ đƣơng đại làm hai chặng: Từ 1975-1985 và từ 1986 đến nay. Thực tế, sự phân chia này chỉ mang tính quy ƣớc. Một số bài thơ theo tinh thần đổi mới của những năm 1986 trở lại đây đã xuất hiện trƣớc đó nhƣ : Tản mạn thời tôi sống(Nguyễn Trọng Tạo), Đánh thức tiềm lực(Nguyễn Duy), Nói với con(Thạch Quỳ)…Tuy nhiên, những sáng tác theo xu hƣớng này vẫn chƣa có mảnh đất thực sự để phát triển, và các tác giả của nó một thời gian dài bị đem ra phê phán, chỉ trích, thậm chí là kỷ luật…Những hiện tƣợng nhƣ vậy không hiếm trong văn chƣơng khi mà sự đổi mới đã đƣợc 10 thực hiện nhƣ là nhu cầu tự nhiên của nghệ thuật nhƣng lại phải chịu sự ràng buộc của quan niệm và thi pháp cũ. 1.1.1.Những chuyển biến của đời sống xã hội mười năm sau chiến tranh và một giai đoạn thơ ca. Mƣời năm sau chiến tranh, xã hội Việt Nam có những chuyển biến quan trọng ảnh hƣởng sâu sắc đến đời sống văn học, ở cả khía cạnh thuận chiều và không thuận chiều. Sự kiện lịch sử có ‎ý nghĩa trọng đại là chiến thắng mùa xuân năm 1975 của quân và dân ta trong công cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc. Chiến thắng đã mở ra kỷ nguyên phát triển rực rỡ của dân tộc ta: Kỷ nguyên độc lập dân tộc, thống nhất đất nƣớc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh thắng lợi và thành tựu, chúng ta gặp không ít những khó khăn. Vừa rút chân ra khỏi chiến hào của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, chúng ta lại phải đối mặt với hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam. Ở một số lĩnh vực, các nhân tố Tƣ bản chủ nghĩa và bọn thù địch luôn tìm cách quấy phá sự nghiệp Xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Đời sống kinh tế, văn hoá và an toàn xã hội có nhiều biểu hiện tiêu cực. Nguyên nhân của tình trạng trên, bên cạnh yếu tố khách quan còn do những khiếm khuyết, sai lầm của các cơ quan Đảng và nhà nƣớc. Chúng ta bảo thủ, trì trệ không đánh giá đúng những thuận lợi và khó khăn của đất nƣớc. Chúng ta duy trì quá lâu cơ chế quản lý‎ hành chính quan liêu bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ, kìm hãm sản xuất. Bao nhiêu điều phi lý‎ đè nặng lên cuộc sống của nhân dân, đặc biệt công nhân viên chức và nông dân các vùng thiên tai địch hoạ vốn đã gặp vô vàn khó khăn. Đời sống xã hội có nhiều biểu hiện tiêu cực. Trƣớc những biến động phức tạp của đời sống xã hội, thơ ca giai đoạn này cũng có những dấu hiệu phân nhánh với nhiều màu sắc thẩm mỹ khác nhau. 11 Sau chiến tranh, thơ Việt Nam vẫn tiếp tục khuynh hƣớng sử thi. Những ký ức còn tƣơi nguyên về cuộc kháng chiến anh hùng và hy sinh vô bờ bến của nhân dân ta đã chi phối lên toàn bộ hệ thống thể loại, giọng điệu, đề tài, hình tƣợng…thơ ca những năm 1975-1985. Đặc biệt, sự phát triển mạnh mẽ của thể loại trƣờng ca đã ghi lại dấu ấn khó quên của một thời điểm lịch sử. Hàng loạt trƣờng ca ra đời: Những người đi tới biển, Những ngọn sóng mặt trời, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc(Thanh Thảo); Đường tới thành phố, Sức bền của đất(Hữu Thỉnh); Campuchia hy vọng, Ba dan khát, Người vắt sữa bầu trời, Quê hương mặt trời vàng(Thu Bồn); Con đường của những vì sao(Nguyễn Trọng Tạo), Trường ca sư đoàn(Nguyễn Đức Mậu), Ngày hội của rạng đông(Võ Văn Trực); Đất nước hình tia chớp, Mặt trời trong lòng đất(Trần Mạnh Hảo)…đã khiến nhiều ngƣời kỳ vọng vào một thời đại trƣờng ca trong tƣơng lai nhƣng trƣờng ca chỉ thực sự phát triển trong giai đoạn mƣời năm sau chiến tranh, nhƣ một thể loại có tính lịch sử đặc biệt. Với đặc trƣng là một hình thức tự sự có vần, dung lƣợng phản ánh rộng lớn, tổng hợp hiện thực khách quan, “Sự phát triển của trƣờng ca Việt Nam hiện đại chứng tỏ xu hƣớng thơ muốn vƣơn tới bao quát nhiều nội dung của cuộc sống hiện tại và quá khứ, của đất nƣớc và con ngƣời sau một thời kỳ biến động lớn của lịch sử dân tộc”(56- tr.114). Mƣời năm sau chiến tranh, chúng ta đã có một độ lùi cần thiết để có thể thức nhận cuộc sống một cách tỉnh táo, toàn diện, cụ thể hơn, ở cả bề rộng và bề sâu, ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Có lẽ đây cũng là sự khắc phục những hạn chế của thơ ca trong giai đoạn kháng chiến. Trong chiến tranh, do những yêu cầu mang tính thời sự , quá tập trung đề cao vấn đề dân tộc Tổ quốc mà đôi khi chúng ta lãng quên những gì thuộc về cá nhân, về riêng tƣ. Thời kỳ này các nhà thơ đều có mong muốn khái quát hình tƣợng về Tổ quốc, nhân dân, về chặng đƣờng đi tới chiến thắng của dân tộc. Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh là con đƣờng vƣợt qua gian khổ, là 12 “sẵn sàng giẫm lên nhiều thử thách”để tìm về ngọn lửa của niềm tin và lòng khát khao chiến thắng. Những người đi tới biển của Thanh Thảo cũng là cuộc hành trình nhiệt huyết và dữ dội của tuổi hai mƣơi vì tự do của nhân dân, của dân tộc. Trong cuộc hành trình ấy, chúng ta thấy hiện lên khuôn mặt đất nƣớc vừa khái quát vừa cụ thể. Đất nƣớc là sự góp mặt của nhân dân, của những ngƣời mẹ, ngƣời em, ngƣời chị…dịu dàng, bao dung, hiền hậu. Đất nƣớc ấy cũng là “tôi”, “chúng tôi”, “lứa tuổi hai mƣơi trập trùng áo lính, xanh màu áo lính”, thế hệ có thể làm nên lịch sử. Tất cả góp mặt làm nên một đất nƣớc vừa bình dị lại vừa hào hùng, vừa trầm tƣ sâu lắng lại vừa đắm say, mãnh liệt. Cái nhìn toàn diện đã bao quát đƣợc từ ý thức về dân tộc, nhân dân đến ý thức về thế hệ và hƣớng về ý thức cá nhân. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cho rằng ý thức về thế hệ trong trƣờng ca chính là một nốt đệm của bƣớc chuyển từ ý thức cộng đồng sang ý thức cá nhân. Thể loại trƣờng ca vẫn tiếp tục đặt các vấn đề về dân tộc, Tổ quốc lên hàng đầu. Trong mỗi tác phẩm vẫn khát cháy một ƣớc vọng hoà bình, độc lập dân tộc và cảm hứng sử thi vẫn vang vọng trong những tấm gƣơng hi sinh cao cả vì nhân dân, tổ quốc: Trùng điệp màu xanh là một tiếng trả lời- của nhân dân mẹ ơi, của nhân dân muôn đời không yên nghỉ(Thanh Thảo). Tuy nhiên, cách đặt vấn đề về hiện thực, lịch sử, con ngƣời đã có nhiều thay đổi. Trƣớc đây thơ ca chiến tranh thƣờng đƣợc biểu hiện bằng cái nhìn lãng mạn hoá, lý tƣởng hoá, giờ đây, với một khoảng cách về thời gian chúng ta có thể lắng lại để chiêm nghiệm về một thời đã qua. Bây gìơ là lúc thơ ca có thể nhìn nhận các vấn đề về cuộc sống một cách tỉnh táo, đầy dặn, cụ thể hơn, vƣơn tới những góc khuất, những miền kiêng kị trƣớc đây chƣa đề cập tới: hạnh phúc riêng tƣ, sự trả giá, nỗi niềm ngƣời vợ, ngƣời mẹ, ngƣời chị chờ đợi và hy sinh. Đây cũng đƣợc xem nhƣ điểm khác biệt giữa trƣờng ca ngƣời Việt cổ và trƣờng ca Việt Nam hiện 13 đại. Trƣờng ca Việt cổ, theo quan niệm của các nhà nghiên cứu là một hình thức tự sự có vần, dung lƣợng phản ánh rộng lớn, tổng hợp hiện thực khách quan làm nên tính đồ sộ của tác phẩm. Phong cách trang trọng, phóng khoáng, nhiều yếu tố kỳ vỹ. Xung đột chiến tranh là trung tâm tác phẩm. Trƣờng ca hiện đại vẫn giữ đƣợc các đặc trƣng cơ bản trên nhƣng đƣợc phát triển theo hƣớng trữ tình hoá, yếu tố tự sự, cốt truyện giảm, cảm xúc cá nhân gắn với những chấn động lịch sử lớn lao. Bên mạch cảm hứng chính về dân tộc, trong tác phẩm trƣờng ca xuất hiện một mạch ngầm là những suy tƣ rất riêng của cái tôi nghệ sĩ, dẫn dắt ngƣời đọc hƣớng đến chiều sâu số phận con ngƣời. Những suy tƣ đó thƣờng xuất hiện ở từng phần của trƣờng ca nhƣ một sự lặp lại đầy ám ảnh, kéo cảm xúc đi về phía suy tƣ, trầm lắng. Ngô Văn Phú mở đầu trƣờng ca của mình: “Tôi chạy loạn về quê- Sống bên bà ngoại- Cây dâu bóng toả nửa vườn- Tôi đi hái lá- Cho tầm mùa xuân”. Thanh Thảo trong “Những người đi tới biển” cũng chọn sự khởi đầu đầy suy tƣ: “Khi con thưa với mẹ- mưa bay mờ đồng ta- Ngày mai con đi- chiếc áo lính thức tròn đêm có mẹ”. Hữu Thỉnh lựa chọn Mẹ làm điểm tựa cho cảm xúc: “Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng- Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió”; “Nếu mẹ biết chỉ còn đêm nay-Đêm nay nữa là con vào thành phố- Mẹ sẽ khóc- Rồi mẹ đi nhóm lửa- Tưởng sáng ra là con đã có nhà”…Cách cấu trúc trƣờng ca nhƣ vậy đã mở ra chiều hiện thực thứ hai cho tác phẩm, hiện thực chiều sâu số phận con ngƣời trong bề dày thăm thẳm với nỗi khổ và niềm đau, bên cạnh một hiện thực mang tính khái quát và hoành tráng về sự vận động của số phận tổ quốc. Trong thơ đã xuất hiện khuynh hƣớng phi sử thi hoá. Sự không thuần khiết của sử thi là kết quả của cái nhìn đầy đủ, tỉnh táo và hiện thực đối với chiến tranh. Nhà thơ đứng từ nhiều góc độ hiện thực, nhập nhiều vai và nói bằng nhiều giọng. Không còn giàn đồng ca nhƣ trƣớc kia, thơ ca giờ đây cố gắng thể hiện những nét riêng biệt của đối tƣợng. “Con 14 ngừơi sử thi vốn vẫn tồn tại trong vô vàn các quan hệ và các bình diện: tập thể- cá nhân, lý tƣởng- hiện thực, tiền tuyến- hậu phƣơng, sống- chết, đƣợc- mất, cho- nhận, cống hiến- hƣởng thụ(…), nếu trƣớc đây con ngƣời đó đƣợc nhìn nghiêng về mặt dân tộc, tập thể, lý tƣởng, chiến trƣờng, cống hiến thì giờ đây những cảm nhận đã nghiêng về trục đối lập”(56- tr 92). Nhiều vấn đề về hiện thực đã đƣợc nhìn nhận lại bằng cái nhìn suy tƣ hơn và nhiều day dứt hơn. Chúng tôi cho rằng sự không thuần khiết của cảm hứng sử thi sau 1975 dƣới sự chi phối của điều kiện lịch sử xã hội và sự thay đổi của đời sống thẩm mỹ trong văn học chính là một bƣớc đệm để chúng ta bƣớc vào thời kì đổi mới với các xu hƣớng thơ thế sự đời tƣ, hiện đại chủ nghĩa…đa dạng, phức tạp, nhƣng cũng phần nào phản ánh đƣợc đời sống xã hội hôm nay. 1.1.2. Đời sống xã hội những năm sau đổi mới( Đại hội Đảng VI. 1986) và sự tồn tại của hai xu hướng thơ ca: Xu hướng quay về thế sự đời tư và xu hướng hiện đại chủ nghĩa. 1.1.2.1. Đời sống xã hội những năm sau đổi mới. Đại hội VI, 1986 là nỗ lực của Đảng và nhà nƣớc nhằm đổi mới trên nhiều phƣơng diện kinh tế, văn hoá, xã hội; là sự dũng cảm thừa nhận sai lầm và là quá trình lột xác đầy quyết liệt để đƣa đất nƣớc tiến lên thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây cũng là thời kỳ chúng ta mở rộng giao lƣu, tiếp xúc với quốc tế, đƣa đất nƣớc đi vào quỹ đạo chung của quá trình phát triển, hội nhập đang diễn ra không chỉ trong hệ thống các nƣớc xã hội chủ nghĩa mà ở khắp các quốc gia để mỗi nƣớc trở thành thành viên của ngôi nhà chung thế giới. Chúng ta đã thay thế nền kinh tế quan liêu bao cấp (duy trì trong suốt những năm tháng chiến tranh và không còn phù hợp với đời sống thời bình) bằng nền kinh tế thị trƣờng đầy năng động. Tính chất cởi mở và cạnh tranh của nền kinh tế thị trƣờng là động lực thúc đẩy sự phát triển 15 của xã hội- một môi trƣờng sáng tạo, cạnh tranh tích cực, giải phóng cá nhân, tạo nên bộ mặt mới lạ, sôi động trên đất nƣớc Việt Nam. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm thay đổi tận gốc rễ nền sản xuất, kiến tạo lại cơ sở hạ tầng xã hội. Trên nền tảng kinh tế đó, nhiều giá trị xã hội đã đƣợc đánh giá lại, nhiều quan niệm cũng đã đƣợc thay đổi. Ngƣời Việt Nam của những năm cuối thế kỷ XX sử dụng Computer, Internet, di chuyển trên xe ô tô và xe máy đời mới của nƣớc ngoài, mua hàng tiêu dùng của mọi quốc gia trong siêu thị. Trƣớc kia, nếu ngƣời ta đồng nhất cái nghèo với sự trong sạch thì giờ đây vƣơn lên làm giàu trở thành nỗ lực chung của toàn xã hội. Song song với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá là dòng ngƣời từ nông thôn ra thành phố để học tập, lao động và thử vận may trong nhiều lĩnh vực. Thông tin và kinh tế thị trƣờng đã đến với mọi gia đình trên khắp đất nƣớc, làm thay đổi nếp sống, nếp nghĩ có tính chất truyền thống, đƣa con ngƣời vào cuộc sống hiện đại. Đời sống văn hoá cũng có nhiều thay đổi. Từ một nền văn hoá mang đậm tính cộng đồng, làng quê, đã hình thành một nền văn hoá dân tộc, hiện đại. Trong công cuộc đổi mới đất nƣớc, chúng ta không ngừng nỗ lực vƣơn lên phát triển để phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Chúng ta cởi mở hơn trong tiếp nhận, giao lƣu văn hoá, kinh tế với các nƣớc trong khu vực cũng nhƣ các nƣớc Phƣơng Tây. Bên cạnh những sản phẩm vật chất du nhập từ nƣớc ngoài đƣợc ngƣời Việt Nam sử dụng thì các sản phẩm tinh thần cũng đựơc ta chú ý. Ý thức cá nhân gắn với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Tƣ bản. Ở Việt Nam, ý thức cá nhân manh nha trong thời kỳ phong kiến nhƣng không có cơ hội để phát triển thực sự hài hoà với ý thức cộng đồng xã hội. Diện mạo của nó đang hình thành nhƣng chắc chắn không thể là chủ nghĩa cá nhân cực đoan và suy đồi. Có thể nói, ý thức cá nhân của con ngƣời hôm nay là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài vì sự tiến bộ 16 và vì những giá trị nhân văn cuả loài ngƣời. Cơ sở pháp lý của ý thức cá nhân trong con ngƣời Việt Nam đƣơng đại là “Quyền sống, quyền tự do, quyền mƣu cầu hạnh phúc” đã đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng ghi nhận trong “Tuyên ngôn độc lập”(1945) và định hƣớng vì con ngƣời của Đảng cộng sản Việt Nam tại đại hội VI, 1986. Ý thức cá nhân còn xuất hiện từ mặt trái của lối sống tập thể, bình quân, máy móc, triệt tiêu tính năng động của con ngƣời: Từ sự khủng hoảng của mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu cũ đã bắt đầu ý thức cá nhân mới. Ngƣời ta nhận ra rằng phải làm chủ cuộc đời mình, vƣợt thoát khỏi những bao cấp, những bài học giáo điều, ấu trĩ để nhận thức thế giới nhƣ nó đang tồn tại. Ý thức cá nhân cũng hƣớng ngƣời ta đến chỗ giải quyết hài hoà mối quan hệ:lý tƣởng và thực tiễn, cá nhân và xã hội, cống hiến và hƣởng thụ…con ngƣời sống thiết thực hơn, duy lí hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những thay đổi có ý nghĩa tiến bộ trên nhiều phƣơng diện xã hội, đƣa đất nƣớc gia nhập vào ngôi nhà chung thế giới, nền kinh tế cũng kéo theo nó nhiều mặt tiêu cực. Lối sống cá nhân, ích kỷ, chạy theo đồng tiền, bất chấp tất cả, hƣởng thụ tức thời…là nguyên nhân hình thành những mặt trái của xã hội. Đó là mảnh đất màu mỡ cho tệ nạn tham nhũng và các tệ nạn khác phát triển. Sự học đòi văn hoá lai căng cũng làm cho nhiều giá trị truyền thống bị biến dạng và mai một. Nhƣng không phải vì thế mà chúng ta phủ nhận những giá trị mà nền kinh tế thị trƣờng mang lại. Vấn đề là phải xây dựng nhanh chóng một nhà nƣớc pháp quyền, một xã hội dân chủ để chế ngự mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng, đảm bảo cho những ƣu điểm của nó phát triển. Trên cơ sở của một xã hội đƣợc đặt vào quỹ đạo hoà bình, hữu nghị và phát triển đã xuất hiện những tiền đề cho sự đổi mới văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Có thể nói, thơ ca từ sau 1986 hình thành là kết quả không nhỏ của quá trình hội nhập với thế giới hiện đại sau những năm dài phân cách 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan