Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn chủ đề cuộc sống hưởng lạc trong sáng tác của nguyễn tuân trước cách mạ...

Tài liệu Luận văn chủ đề cuộc sống hưởng lạc trong sáng tác của nguyễn tuân trước cách mạng tháng tám năm 1945

.PDF
118
97
115

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- PHẠM THỊ TÌNH CHỦ ĐỀ CUỘC SỐNG HƢỞNG LẠC TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- PHẠM THỊ TÌNH CHỦ ĐỀ CUỘC SỐNG HƢỞNG LẠC TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Văn Đức Hà Nội - 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Hà Văn Đức, người thầy đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Văn học – trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (ĐHQGHN) đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thành luận văn này! Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua! Hà Nội, ngày 08 tháng 12 năm 2016 Người viết Phạm Thị Tình MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài:........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................. 3 3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu: ............................................. 11 4. Phương pháp nghiên cứu:............................................................................ 11 5. Cấu trúc của Luận văn: ............................................................................... 12 NỘI DUNG..................................................................................................... 13 Chƣơng 1. HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM.................. 13 1.1. Đôi nét về con ngƣời Nguyễn Tuân ...................................................... 13 1.1.1. Tiểu sử ................................................................................................... 13 1.1.2. Con người .............................................................................................. 16 1.2. Sự nghiệp ................................................................................................. 19 1.2.1. Trước Cách mạng tháng Tám: .............................................................. 19 1.2.2. Sau Cách mạng tháng Tám ................................................................... 22 1.3. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Nguyễn Tuân ..................... 24 1.3.1. Giới thuyết chung về quan niệm nghệ thuật về con người .................... 24 1.3.2. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân ........................ 27 Chƣơng 2. CHỦ ĐỀ CUỘC SỐNG HƢỞNG TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG....................................................................... 36 2.1. Một cái tôi cô đơn, bế tắc, bất lực trƣớc cuộc đời ............................... 36 2.2. Một cái tôi nổi loạn, phá phách đi tìm con đƣờng giải thoát trong cuộc sống hƣởng lạc. ..................................................................................... 46 2.3. Một cái tôi luôn khao khát thế giới tinh khiết, thanh cao. ................. 63 Chƣơng 3. CHỦ ĐỀ CUỘC SỐNG HƢỞNG LẠC TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNH THÁNG TÁM NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT. ........................................................ 73 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật. ............................................................. 73 3.1.1. Khắc họa ngoại hình nhân vật. ............................................................. 73 3.1.2. Khắc họa nội tâm nhân vật .............................................................. 77 3.1.3. Khắc họa hành động nhân vật......................................................... 80 3.2. Giọng điệu ............................................................................................ 83 3.2.1. Giọng điệu khinh bạc ........................................................................ 83 3.2.2. Giọng điệu buồn thảm ........................................................................... 90 3.3. Sử dụng hình ảnh biểu tƣợng sự vật.....................................................93 3.4. Ngôn ngữ ................................................................................................. 97 KẾT LUẬN .................................................................................................. 106 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 109 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Nguyễn Tuân là một tài năng lớn, một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc. Ông là một trong số không nhiều nhà văn đạt được những thành tựu nổi bật trong cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám, được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình không chỉ trong và ngoài nước đánh giá cao. Ông được xem như “hòn đá tảng” [34, tr. 546] trong “cái nền còn mới mẻ của văn xuôi tiếng Việt ta” [34, tr. 546]. Trong suốt chặng đường dài hơn năm mươi năm cầm bút cùng với tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc, bền bỉ và hết mình, Nguyễn Tuân đã khẳng định được một phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa và uyên bác, không thể nhầm lẫn với bất kỳ một nhà văn nào khác được. Với bảy mươi bảy năm tuổi đời và hơn năm mươi năm tuổi nghề, Nguyễn Tuân đã để lại cho văn học hiện đại Việt Nam nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung một sự nghiệp đồ sộ, phong phú, đa dạng trên nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tùy bút, kịch, phê bình văn học, … Ở mỗi thể loại, mỗi tác phẩm của ông, chúng ta lại tìm thấy những điều lý thú, những dấu ấn đặc biệt riêng. Ông còn là một tác giả tiêu biểu được lựa chọn giảng dạy trong chương trình phổ thông và đại học. Nguyễn Tuân là một con người rất đặc biệt, đặc biệt không chỉ thể hiện trong đời sống sinh hoạt hàng ngày mà còn đặc biệt ngay cả trong sáng tác của mình. Là nhà văn của quan điểm duy mỹ, nghệ thuật vị nghệ thuật, cả cuộc đời Nguyễn Tuân luôn khát khao đi tìm cái đẹp và làm cho cái đẹp được tỏa sáng rực rỡ. Nguyễn Tuân đến với văn học với một phong cách cũng rất đặc biệt trong một cái xã hội phức tạp của một người dân thuộc địa mà ông gọi là “ối a ba phèng”. Ông đã mang vào trong sáng tác của mình là hơi thở của một cái “tôi” “ngông” đối lập với xã hội kim tiền ô trọc, là khác đời, khác người thậm chí là lập dị với xung quanh, không để cho ai bắt chước được giống mình: “Là người lỗi lạc, sống một cách rất đặc biệt, không giống 1 ai và không cho ai bắt chước được mình, chết là mang cả cái bản chính đi chứ không để lại một bản sao nguyên cảo nào” [56, tr. 49]. Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn đồng thời cũng là “một hiện tượng văn học phức tạp, nhất là trước cách mạng tháng Tám” [26, tr. 25]. Và để hiểu các tác phẩm của ông không phải là một điều đơn giản mà theo như Vũ Ngọc Phan thì “chỉ những người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” [34, tr. 52]. Có thể do chính những điều này mà tác phẩm của Nguyễn Tuân có sức hút lớn lao đối với độc giả. Việc đọc và tìm hiểu tác phẩm của ông sẽ mang tới cho người đọc một kho tri thức phong phú trên nhiều phương diện của đời sống từ đó mà tâm hồn được mở rộng hơn, sâu sắc hơn. Chủ đề cuộc sống hưởng lạc là một trong những chủ đề quan trọng trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Với chủ đề này, nhà văn đã chọn cho mình một lối đi riêng khác biệt. Đọc những sáng tác thuộc chủ đề này, người đọc thêm yêu mến một Nguyễn Tuân luôn chân thành, luôn muốn sám hối, luôn muốn được làm lại cuộc đời trong những ngày tháng sa ngã. Bởi trong con người đó là cái Tâm luôn day dứt, là Thiên lương trong sạch chống trả lại xã hội trưởng giả và những con người phàm tục ngoài đời kia. Mặc dù đã có khá nhiều bài viết và những nhận định khái quát về chủ đề cuộc sống hưởng lạc trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Tuy nhiên đó chỉ là những bài viết đơn lẻ, chưa thành hệ thống và chưa thực sự chuyên sâu nghiên cứu về đề tài. Riêng đối với bản thân từ khi còn học trong trường phổ thông, tôi đã rất yêu thích các tác phẩm của Nguyễn Tuân. Tôi xin phép góp chút năng lực nhỏ bé của mình vào việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu chủ đề cuộc sống hưởng lạc trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945 để làm rõ hơn phong cách một cây đại thụ của văn học hiện đại Việt Nam. 2 2. Lịch sử vấn đề: Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Tuân đã là một cây bút hấp dẫn, thu hút được sự chú ý của độc giả cũng như giới nghiên cứu phê bình. Cho đến tận hôm nay và có thể mai sau nữa, tác phẩm của Nguyễn Tuân vẫn là niềm say mê khám phá, nguồn cảm hứng vô tận của các thế hệ yêu văn chương. Đã có rất nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về cuộc đời, con người và tác phẩm của Nguyễn Tuân trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945: Nhà văn Thạch Lam là người đầu tiên có công trong việc khám phá và phát hiện ra những nét độc đáo trong sáng tác và tài năng của Nguyễn Tuân. Sau khi đọc tác phẩm của Nguyễn Tuân, Thạch Lam không khỏi vui mừng ông đã viết luôn những cảm nghĩ và nhận xét hết sức tinh tế của mình thông qua bài Đọc Vang bóng một thời viết năm 1940, đăng trên báo Ngày nay số 212, ngày 15 Juin 1940: “Trong cái vội vàng cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những tác phẩm hạ thấp văn chương xuống mực giá trị của sự đua đòi, người ta lấy làm vui sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng”. Cuối bài viết nhà văn khẳng định chắc chắn về một sự nghiệp văn học tươi sáng của Nguyễn Tuân: “Nguyễn Tuân là nhà văn có tài năng đặc biệt, một nghệ sĩ có lương tâm, ở đó chúng ta đặt những hy vọng tốt đẹp nhất về sự nghiệp”. Đặc biệt trong giai đoạn này không thể không nhắc tới đó là bài viết của nhà văn Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại. Với những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, Vũ Ngọc Phan đã đánh giá như sau“Ông là một nhà văn đứng hẳn ra một trường phái riêng, cả về văn lẫn tư tưởng”[47, tr. 415], người ta phải chú ý đến ông bởi “lối hành văn đặc biệt” [47, tr. 415] hoàn toàn Việt Nam, rồi “những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn bằng những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, 3 lúc thì bừa bãi, lôi thôi, như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy một trạng thái của tâm hồn” [47, tr. 415]. Ở mỗi đề tài lớn trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, Vũ Ngọc Phan đã đưa ra những nhận xét sắc sảo, toàn diện. Với Vang bóng một thời, Vũ Ngọc Phan cho rằng đây là “một văn phẩm gần tới sự toàn thiện toàn mỹ” [47, tr. 415]. Đọc Vang bóng một thời người ta có cảm tưởng gần giống những cảm tưởng khi ngắm “một bức họa cổ” [47, tr. 416] vô cùng quý giá và “cái quý giá ấy sẽ còn tăng lên nữa với thời gian như một thứ đồ cổ” [47, tr. 416]. Với các tác phẩm Chiếc lư đồng mắt cua, Tàn đèn dầu lạc và Ngọn đèn dầu lạc tiêu biểu cho đề tài về cuộc sống hưởng lạc, Vũ Ngọc Phan nhận xét đó là “những quyển mà thói khinh bạc của ông bộc lộ rõ ràng, gần như những “lời thú tội” [47, tr. 434]. Chiếc lư đồng mắt cua là “một tập tùy bút hay một tập về hồi ức về một quãng đời của tác giả, đều được cả” [47, tr. 435]. Vũ Ngọc Phan tin tưởng rằng:“Một ngày không xa, khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ có một địa vị xứng đáng hơn nữa” [47, tr. 439]. Niềm tin tưởng đó quả là không sai, ngày nay người ta vẫn tìm đọc và đọc rất nhiều tác phẩm của Nguyễn Tuân – “một nhà văn đặc Việt Nam” [47, tr. 439]. Sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975: Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân hăng hái nhập cuộc và tham gia kháng chiến, rất nhiều tác phẩm được ra đời từ đây như: Chùa đàn, Đường vui, Tình chiến dịch, … Giai đoạn này cũng có hàng loạt những bài viết về Nguyễn Tuân khen có chê có, bài viết đánh giá về tác phẩm có, bài viết nhận xét về con người cũng có. Qua hồi ức của Nguyễn Vỹ, Nguyễn Tuân hiện lên hóm hỉnh dễ mến với bài viết “Nguyễn Tuân gàn hay chú mày gàn”. Còn đối với Vũ Bằng, nhà văn gọi Nguyễn Tuân là “đứa con nuông của Thiên thần và Ác quỷ” [15, tr.293], trong con người Nguyễn cái tài và cái 4 tật luôn đồng hành song song, con người đó cũng thật phức tạp với nhiều mặt của đối lập mâu thuẫn. Đánh giá về Nguyễn Tuân trong cuốn sách Mười khuôn mặt văn nghệ, Tạ Tỵ đã viết: “Nguyễn Tuân là một trong những khuôn mặt lớn của nền văn học nghệ thuật Việt Nam ở trước và trong cuộc chiến”[59, tr. 51]; “Nguyễn Tuân đứng sững trước mặt chúng ta với một vóc dáng kiêu kỳ, với từng ngón tài hoa, với đôi cánh chập chờn bay lượn trên đỉnh cao nghệ thuật” [59, tr. 51] và cuối cùng ông gọi Nguyễn Tuân là “một văn tài lỗi lạc”. Viết về Nguyễn Tuân trong giai đoạn này cũng phải kể đến Trương Chính. Trương Chính quan tâm nhiều đến phong cách Nguyễn Tuân và ông đã có khá nhiều bài viết phê bình về các sáng tác của Nguyễn Tuân có thể kể tới như: Tùy bút kháng chiến – tùy bút kháng chiến – hòa bình, đăng trên báo Văn nghệ số 5 (7-5-1957); Đọc sông Đà của Nguyễn Tuân, đăng trên Tạp chí Văn nghệ số 10- 1960, Nguyễn Tuân và Vang bóng một thời (1989), … Qua các tác phẩm của Nguyễn Tuân, Trương Chính thấy “hiện lên hình ảnh một con người tài hoa, nhiều tình cảm, kinh lịch nhiều, sống kỹ lưỡng, sống rộng rãi, không bao giờ chịu gò bó vào một khuôn khổ nào nhất định. Con người ấy rất có ý thức về khả năng của mình và luôn khao khát sống được một cuộc đời thật đầy đủ. Nhưng trong xã hội cũ, một người như thế không thể tìm được một chỗ đặt chân. Thành ra, ông phải sống héo hắt, chật hẹp, rồi đâm ra khinh bạc với đời. Mà đã khinh bạc thì không còn căm phẫn sâu sắc được nữa. Khinh bạc là con đường đi đến thoát ly, thoát ly vào một thứ cá nhân chủ nghĩa tột bực” [34, tr. 54]. Nói về đề tài cuộc sống hưởng lạc thì Trương Chính có cái nhìn cảm thông chân thành với Nguyễn Tuân: “Nói cho đúng, người ta không thể trách Nguyễn Tuân sao không biết tìm một lý tưởng nào khác là lý tưởng “phóng túng hình hài”. Xã hội mục nát, không phải là một cái cớ để mình chìm đắm vào một thứ cá nhân chủ nghĩa ích kỷ và một thứ hành lạc chủ nghĩa quá quắt làm cho xã hội càng mục nát thêm. Nhưng, đọc 5 Nguyễn Tuân, ta cũng đồng thời không thể không nhận thấy rằng chính hoàn cảnh xã hội đó đã biến một người vốn yêu đời như Nguyễn Tuân thành một kẻ muốn tự hủy hoại mình như thế” [34, tr. 54-55]. Đầu năm 1957, Nguyễn Tuân viết bài tuỳ bút Phở đăng trên tuần báo Văn. Bài viết đã gây ra nhiều phản ứng khác nhau trong giới văn nghệ sĩ. Thế Toàn trong bài Tuần báo văn và con người thời đại in trong tạp chí Học tập số 7 (7/1957), với cái nhìn hẹp hòi, ông cho rằng: “Nhìn lại một số lớn thơ văn trên tuần báo Văn, chúng ta không khỏi ngạc nhiên, vì con người được miêu tả trong đó rất xa lạ với chúng ta. Con người trong thời đại chúng ta không phải là con người xa lánh cuộc sống, ngồi một góc phố nào đó để phân tích một món ăn (Phở của Nguyễn Tuân) phát hiện ra vấn đề quá “quan trọng” như xương với xẩu, như mũ phở…” [36, tr. 27-28]. Bác bỏ lại quan điểm của Thế Toàn là ý kiến của nhiều nhà văn như: Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng, Tế Hanh. Nguyên Hồng đã chỉ ra được những nét phong cách của Nguyễn Tuân trong Phở: “Một ngòi bút cách đây 15 năm với Chiếc lư đồng mắt cua, Nguyễn đã làm người đọc rợn hết cả tâm trí lên vì những ê chề, rã rượi, quằn quại dẫy đạp của một tâm trạng bế tắc trong lòng một chế độ ngột ngạt … giờ tha thiết tin yêu, hết lời ca ngợi hương vị của Tổ quốc: Phở cũng là những sự việc, cũng là những suy nghĩ, cũng là kiểu nói của Nguyễn nhưng cả một sự say sưa và niềm tin lấp loáng trên trang giấy “Hương vị phở… lành mạnh hơn” vì “tôi thấy Tổ quốc tôi còn có phở nữa…” [36, tr. 28]. Cũng trong năm 1957, nhân Vang bóng một thời được tái bản, Phan Cự Đệ đã viết liền hai bài đề cập đến tác phẩm này. Trong bài thứ nhất có tên Đọc Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân ký tên Thanh Hiền đăng trên báo Văn nghệ số 31 ngày 6-12-1957, Phan Cự Đệ cho rằng: “Nguyễn Tuân làm cái việc của một người khơi lại đống tro tàn của dĩ vãng, tìm lại những cái đẹp của ngày qua đã một thời vang bóng”. Trong bài viết thứ hai Nguyễn Tuân in trong Nhà văn Việt Nam, tập 2 (1945-1975), sau này được in trong 6 Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm (Nxb Giáo dục, H.1998) với tiêu đề: Nguyễn Tuân – một phong cách nghệ thuật độc đáo. Phan Cự Đệ đã khẳng định một cách chắc chắn: “Từ sau 1937, trong văn học lãng mạn Việt Nam xuất hiện một phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo: Nguyễn Tuân” [34, tr. 103]. Nhà nghiên cứu cũng luôn chú ý đối chiếu sự biến đổi của con người và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: “Giờ đây cái Tôi cá nhân chủ nghĩa của Nguyễn đã hoà hợp vào cái Ta chung của quần chúng và ngòi bút vốn sắc sảo, bướng bỉnh khi xưa nay đã có thêm nét đôn hậu ấm cúng” [34, tr.114]. Riêng về tác phẩm Chiếc lư đồng mắt cua, nhà nghiên cứu cũng đưa ra nhận xét đặc điểm nhân vật: “Các nhân vật trong Nguyễn, Chiếc lư đồng mắt cua, đã có lúc cảm thấy cuộc đời phóng túng hình hài của mình là vô vị, nhạt nhẽo, không tiếc gì mà thay bỏ nó đi” [34, tr. 105]. Cách mạng tháng Tám thành công có ý nghĩa lớn lao làm thay đổi con người Nguyễn Tuân hướng ngòi bút của ông nhận đường, tin yêu và đi theo cách mạng. Năm 1960, sau chuyến đi thực tế Tây Bắc, Nguyễn Tuân cho ra đời tập tuỳ bút Sông Đà. Tác phẩm ra đời thu hút được nhiều sự chú ý quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình. Nguyên Ngọc trong bài Cảm tưởng đọc Sông Đà đăng trên báo Văn học số 113 ngày 23-9-1960, đã khẳng định giá trị đặc sắc của tuỳ bút và coi đây là bước chuyển mới về đề tài. Nhà văn coi Sông Đà là “một cuốn tiểu thuyết viết theo lối riêng… là tác phẩm về non sông đất nước Tây Bắc. Khi nói cảm tưởng về Sông Đà, trước hết tôi muốn chào mừng ở anh Nguyễn Tuân một cách đứng mới, một vị trí mới”. Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Con đường đi đến bút ký chống Mỹ, đăng trên Tạp chí văn học số 8 – 1968 đã khẳng định: “Nhân tố tư tưởng cốt yếu làm nên phần giá trị chân chính của tác phẩm Nguyễn Tuân từ sau Cách mạng đến nay là tình yêu đất nước, tinh thần dân tộc”, và những yếu tố tinh thần ấy tuy đã biến đổi qua thời gian nhưng “vẫn giữ lại ít nhiều màu sắc riêng của nó, có mầm mống từ trước Cách mạng”. Vì dù sao đi chăng nữa, 7 các sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng có thoát ly vào con đường nào thì ở mỗi con đường đó vẫn còn ánh sáng của một trái tim luôn hướng về quê hương đất nước. Từ 1975 đến nay: Số lượng những bài viết nghiên cứu về Nguyễn Tuân thật phong phú đa dạng không chỉ có những bài viết của các nhà văn, nhà nghiên cứu trong nước mà còn có cả những bài viết của các nhà văn, nhà nghiên cứu nước ngoài có thể kể đến như: Vương Trí Nhàn với “Nguyễn Tuân, huyền thoại một thời” (1994), “Nhà văn Nguyễn Tuân”, Hà Văn Đức với “Nguyễn Tuân – một bậc thầy về ngôn ngữ” (1991), “Nguyễn Tuân về cái đẹp” (1994), “Nguyễn Tuân và quá trình nhận đường trong văn học của ông”. Marian Tôcasốp với “Mấy lời bàn về Nguyễn Tuân” đăng trên báo Văn nghệ số 36 ngày 5-9-1987… Đến năm 1981 bài viết tiêu biểu nhất phải kể tới là Lời giới thiệu cho Tuyển tập Nguyễn Tuân do Nguyễn Đăng Mạnh giới thiệu và biên soạn. Lời giới thiệu là những đánh giá sâu sắc và toàn diện cho tổng thể toàn bộ cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau Cách mạng của Nguyễn Tuân được rút ra từ quá trình dày công nghiên cứu và nhiều tâm huyết của Nguyễn Đăng Mạnh. Ông nhận định: “Nguyễn Tuân là một hiện tượng văn học phức tạp, nhất là trước Cách mạng”. Đối với chủ đề về cuộc sống hưởng lạc trong các nhà hát với thuốc phiện, trà, rượu trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, ông đã có những phân tích sắc sảo, khách quan và khoa học. Ông nói rằng viết về đề tài trụy lạc Nguyễn Tuân đã đi một đường hoàn toàn khác với các nhà văn cùng thời, mình ông có một lối riêng. Tiêu biểu là Chiếc lư đồng mắt cua, Nguyễn Tuân đã viết “như một lời thú tội về quãng đời chơi bời, lêu lổng của mình, nhưng không hẳn là có sự ăn năn, hối hận thật sâu sắc – vì nhân vật tôi nhiều phen muốn làm lại cuộc đời nhưng không bao giờ thành hiện thực”. Đồng quan điểm với Nguyễn Đăng Mạnh chủ đề cuộc sống hưởng lạc trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là 8 nhận xét của Hà Văn Đức, Văn Tâm, Vũ Ngọc Phan, Tôn Thảo Miên, … Văn Tâm viết rằng: “Nguyễn luôn sám hối; nhiều trang viết của Nguyễn Tuân có ý nghĩa tự thú chân thành, tiêu biểu là tác phẩm “phóng sự - nhật ký – tuỳ bút” Chiếc lư đồng mắt cua” [34, tr. 248]. Cũng trên quan điểm đó, trong bài viết của mình Hà Văn Đức đã nhấn mạnh: “Tập tuỳ bút Chiếc lư đồng mắt cua, như lời ông thú nhận trong phần Thay lời tựa của tác phẩm này, “là những trang tuỳ bút chép lại một ít tâm trạng của tôi trog những ngày phóng túng hình hài” [8, tr. 607]. Đối với hai thiên phóng sự Ngọn đèn dầu lạc và Tàn đèn dầu lạc nằm trong phạm vi nghiên cứu của chủ đề cũng nhận được một số nhận xét khái quát như sau: Vũ Ngọc Phan cho rằng hai thiên phóng sự đều “là tâm trạng, là tình cảnh của những người dưới quyền lực Nàng tiên nâu. Nào họp nhau để nói xấu người vắng mặt (Ngọn đèn dầu lạc, tr. 29), nào tính ích kỷ phô bày một cách thản nhiên giữa một chỗ cực kỳ bẩn thỉu (Ngọn đèn dầu lạc, tr. 51), nào dối trá, xa lánh đối với cả những người rất thân (Tàn đèn dầu lạc, tr. 12), nào những cái vui buồn không chừng, phút đến rồi phút đi (Tàn đèn dầu lạc, tr. 45 và 46), rồi những cảnh bòn rút của kẻ đã nương nhờ của Phật mà vẫn không dứt tình được với ả phù – dung đó là tất cả những tâm trạng và cảnh huống gây nên bởi ả phiền” [34, tr. 51]. Hà Văn Đức cũng đã khẳng định: “Hai thiên phóng sự Ngọn đèn dầu lạc và Tàn đèn dầu lạc viết về tình cảnh và tâm trạng của những người nghiện thuốc phiện. Tác giả đã lý giải những hành vi tâm địa thấp hèn như nói xấu nhau, dối trá lừa lọc nhau, ích kỷ đến độ trắng trợn của những kẻ nghiện hút. Nguyễn Tuân miêu tả những cảnh huống và tâm trạng ấy một cách sinh động, với giọng văn tài hoa và khinh bạc vốn có của mình” [8, tr. 606]. Thêm những nhận định về chủ đề cuộc sống hưởng lạc trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, Hoài Anh trong bài Nguyễn Tuân nhà nghệ sĩ ngôn từ đưa cái đẹp đến thăng hoa đã viết: “Ông không 9 phải là người ăn chơi trác táng trụy lạc như nhiều nghệ sĩ khác đương thời mà là một người nghệ sĩ đi tìm cái Đẹp trong mọi biểu hiện của cuộc sống”. Tiếp tục kế thừa từ những bài viết công trình nghiên cứu trên, năm 2003, tác giả Nguyễn Thị Thanh Minh đã viết luận án tiến sĩ của mình với nhan đề Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong sáng tạo nghệ thuật và cũng trong năm 2003 tác giả đã cho in luận án thành một cuốn sách cùng tên. Tác giả đã đi sâu và làm nổi bật trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân đó là luôn nhìn nhận sự vật và con người dưới góc độ nghệ thuật, góc độ thẩm mỹ. Khi nói về chủ đề cuộc sống hưởng lạc trong ba tác phẩm tiêu biểu: Chiếc lư đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc và Tàn đèn dầu lạc, tác giả cũng nghiên cứu tìm hiểu trên quan niệm về cái đẹp và cho rằng xuất phát từ chính khát khao cảm giác mãnh liệt đã đưa Nguyễn Tuân đến với chủ đề này. Song song bên cạnh đó, với số lượng tác phẩm đồ sộ trên cả hai chặng đường sáng tác, tác phẩm của Nguyễn Tuân trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều luận án, luận văn tiến sĩ, thạc sĩ. Có thể kể tới: Trương Việt Hùng với Tìm hiểu một số tuỳ bút Nguyễn Tuân (1985), Phạm Thị Bích Ngọc với Đặc trưng thi pháp Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân (1999), Nguyễn Thị Hồng Hà với Đặc trưng tuỳ bút Nguyễn Tuân (2004), Nguyễn Thị Ninh với Ngôn từ trong sáng tác Nguyễn Tuân (2005), … Ngoài các công trình nghiên cứu về sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân còn có rất nhiều bài viết về kỷ niệm gắn bó sâu sắc của các nhà văn, nhà nghiên cứu đối với ông như: Kỷ niệm với Chùa Đàn của Nguyễn Tuân (Yên Huy), Những lần gặp gỡ (Nguyễn Quang Sáng), Nhà văn – diễn viên Nguyễn Tuân (Trương Quân), Những người Sài Gòn và anh Nguyễn (Nguyễn Nguyên), Nguyễn Tuân trong lòng tôi (Đoàn Minh Tuấn), Hát ả đào đêm xuân (Hoàng Cầm), Nguyễn Tuân như thế đấy (Ngọc Trai), Bảy ngày với anh Nguyễn Tuân ở Côn Đảo (Phạm Tường Hạnh), Tôi nhớ mãi nụ cười bằng mắt (Bửi Chi), Sống đẹp từng ngày (Nguyên Ngọc), … Qua những bài viết này, ta 10 hiểu hơn được phong cách, cá tính và con người Nguyễn Tuân. Con người đời thường cũng như con người trong văn chương luôn có mối quan hệ gần gũi, khăng khít. Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu công trình nghiên cứu của những người đi trước, tôi sẽ cố gắng tìm hiểu chuyên sâu hơn về chủ đề cuộc sống hưởng lạc trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Luận văn hi vọng sẽ góp thêm những nét mới mẻ và làm phong phú hơn những đặc sắc trong sáng tác trước Cách mạng của nhà văn. 3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu: 3.1. Đối tƣợng: Trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu tập trung vào cái “tôi” được tác giả miêu tả trong các sáng tác tiêu biểu trước Cách mạng tháng Tám ở chủ đề cuộc sống hưởng lạc của Nguyễn Tuân theo đó làm nổi bật những đặc sắc về nghệ thuật thể hiện. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Cầm bút từ những năm đôi mươi của cuộc đời và vẫn miệt mài lao động nghệ thuật cho đến những năm cuối đời, Nguyễn Tuân đã để lại một di sản văn học đồ sộ với hàng trăm tác phẩm lớn nhỏ trên nhiều thể loại và cũng phong phú về đề tài sáng tác. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi xin tập trung đi sâu vào ba tác phẩm chính đó là: Hai phóng sự Ngọn đèn dầu lạc (1939), Tàn đèn dầu lạc (1941) và một tùy bút Chiếc lư đồng mắt cua (1941) để qua đó làm nổi bật đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong chủ đề cuộc sống hưởng lạc của nhà văn. 3.3. Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung tìm hiểu và khắc họa hình tượng cái “tôi” đầy mâu thuẫn, phức tạp của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Từ đó có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn về sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng về cuộc 11 đời và con người của ông, góp phần khẳng định lại một phong cách độc đáo mang tên Nguyễn Tuân. Thấy được vị trí vai trò của chủ đề cuộc sống hưởng lạc trong toàn bộ hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để luận văn được thực hiện trọn vẹn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp lịch sử - xã hội. - Phương pháp hệ thống. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp loại hình. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. 5. Cấu trúc của Luận văn: Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn của chúng tôi bao gồm có 3 chương cụ thể với các nội dung như sau: Chƣơng 1. Hành trình sáng tác và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng Tháng Tám. Chƣơng 2. Chủ đề cuộc sống hƣởng lạc trong sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng tháng Tám nhìn từ phƣơng diện nội dung. Chƣơng 3. Chủ đề cuộc sống hƣởng lạc trong sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng tháng Tám nhìn từ phƣơng diện nghệ thuật. Và cuối cùng là: Tài liệu tham khảo 12 NỘI DUNG Chƣơng 1. HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1.1. Đôi nét về con ngƣời Nguyễn Tuân: 1.1.1. Tiểu sử Nhà văn Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910, quê ở thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (thường gọi là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Sinh trưởng trong một gia đình Hán học, thân sinh của ông là cụ Nguyễn An Lan đã đỗ tú tài khoa thi Hán học cuối cùng và thường được gọi là cụ tú Hải Vân, một nhà nho tài hoa nhưng bất đắc chí sống trong thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc của chế độ thực dân phong kiến. Ở cụ Tú Lan mang nét tài hoa, cốt cách của một nhà nho tài tử, am hiểu tinh tường nét văn hóa cổ truyền, thú vui tao nhã của cha ông xưa. Chính cụ Tú Lan là người có sức ảnh hưởng lớn lao đến tư tưởng và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Điều này cũng đã được nhà văn thừa nhận trong nhiều cuộc trò chuyện của ông với các tác giả. Nguyễn Tuân tuy sinh ra tại Hà Nội – nơi phố cổ Hàng Bạc phồn hoa đô thị nhưng suốt thời thiếu niên, ông lại sống cùng với gia đình trên dọc nhiều tỉnh miền Trung, Khánh Hòa, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh, đặc biệt là quãng thời gian dài nhiều năm sống tại Thanh Hóa. Cuộc sống “xê dịch” nhiều nơi đã góp phần hình thành nên một thế giới quan phong phú cho nhà văn. Đi đến bất kỳ nơi đâu, ông đều có những quan sát tinh tế khám phá vẻ đẹp tận cùng của mỗi vùng đất, cảnh vật và con người. Và theo như Hoài Anh trong bài viết Nguyễn Tuân, nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa, tác giả đã nhận xét Nguyễn Tuân là một “nghệ sĩ đi tìm cái đẹp trong mọi biểu hiện của đời sống trần gian” [34, tr. 187]. Do hoàn cảnh gia đình đông anh em nhưng về sau chỉ còn lại hai anh em nên Nguyễn Tuân được bố mẹ cho lập gia đình sớm. Năm 1927, ông kết 13 hôn cùng bà Vũ Thị Tuệ tại Hà Nội khi ông 17 tuổi và bà 18 tuổi. Bà Vũ Thị Tuệ là một cô con gái Hàng Đào chăm chỉ, đảm đang, giàu đức hy sinh đặc biệt rất mực hiểu chồng. Trong một cuộc trò chuyện sau này với nhà văn Ngọc Trai, Nguyễn Tuân hóm hỉnh nói về người vợ của mình với tình cảm trân quý và “nể” bà. Thưở nhỏ, Nguyễn Tuân theo học chữ Nho sau chuyển sang học tiếng Pháp, tiếp tục học đến bậc trung học tại Thành phố Nam Định. Năm 1929, ông tham gia một cuộc bãi khóa phản đối giáo viên người Pháp nói xấu, xúc phạm người Việt Nam và bị đuổi học, trong vòng 5 năm không được bất kỳ một công sở nào được nhận ông vào làm việc. Bế tắc, chán ghét trước cuộc sống ngột ngạt, kìm kẹp của người dân thuộc địa nô lệ lầm than cùng với một tính cách phóng khoáng, Nguyễn Tuân luôn mơ tưởng đến những phương trời xa. Ông tìm cách ra nước ngoài nhưng không có giấy phép, Nguyễn Tuân bị mật thám bắt tại Băng Cốc (Thái Lan), giải về Hà Nội, cuối cùng đưa về giam tại Thanh Hóa năm 1930. Sau khi ở tù ra, trước khi bước vào con đường viết văn, làm báo, Nguyễn Tuân cũng đã làm một số công việc khác như thư ký nhà máy đèn Thanh Hóa, mở hiệu sách báo hay làm thông tín viên. Và cũng trong khoảng thời gian này, ông cũng bắt đầu sáng tác văn học, viết ký, truyện ngắn, thơ, phóng sự, làm báo đăng trên các tờ: Trung Bắc tân văn, Đông Tây, An Nam tạp chí, Tiểu thuyết thứ bảy, … Các tác phẩm của ông được đăng dưới nhiều bút danh khác nhau như: Ngôi Lôi Quật, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân, Nguyễn Tuân, Tuấn Thừa Sắc, Ân Ngũ Tuyên, … Bắt đầu từ năm 1937, Nguyễn Tuân đã thực sự sống với ngòi bút của chính mình. Tiếp tục sau đó với tác phẩm Một chuyến đi (1938) ông được công chúng chú ý và thực sự thành công tạo được tiếng vang lớn trên cả nước với tập truyện ngắn Vang bóng một thời (1939). 14 Năm 1941, Nguyễn Tuân bị bắt lần hai, bị giam một năm ở trại tập trung Vụ Bản, Nho Quan, Ninh Bình vì giao du và chứa chấp một người bạn thân Nhật ở “Am sông Tô”. Sau khi ở trại tập trung về, ông bắt đầu viết và cho ra mắt bạn đọc một loạt các tác phẩm: Thiếu quê hương, Tùy bút, Chiếc lư đồng mắt cua, Tóc chị Hoài, tập truyện Nguyễn. Không chỉ là một nhà văn đa tài viết và thành công trên nhiều thể loại khác nhau, Nguyễn Tuân còn hoạt động nhiệt tình, sôi nổi trong các hoạt động nghệ thuật khác. Ông đã từng tham dự đóng vai chính trong nhiều vở kịch diễn tại Hà Nội và là một trong những diễn viên đầu tiên của điện ảnh Việt Nam với một vai diễn nhỏ trong phim Cánh đồng ma được quay ở Hồng Kông năm 1938. Cách mạng tháng Tám thành công, chứng kiến trước sự đổi thay tươi sáng của toàn dân tộc, trong tâm thế một con người của một đất nước có chủ quyền, độc lập, Nguyễn Tuân nhanh chóng nhập cuộc, nhận đường, rũ bỏ cái tôi cá nhân cực đoan, hăng hái tham gia kháng chiến, tìm thấy được vẻ đẹp ngay chính trong những con người lao động bình dị đời thường. Ngay trong năm 1945, Nguyễn Tuân đã cho ra tác phẩm Lột xác, tác phẩm đánh dấu mốc chuyển biến quan trọng trong việc thay đổi nhân sinh quan, thế giới quan của bản thân, tin yêu vào cuộc sống. Năm 1946, Nguyễn Tuân được gặp và tiếp xúc với một số nhà văn trong Hội văn hóa cứu quốc và đặc biệt là cuộc gặp gỡ với Tố Hữu, nhà thơ cách mạng này đã thuyết phục ông tham gia đoàn văn nghệ sĩ đi vào mặt trận Nam Trung Bộ và ông đã nhận lời. Nếu như trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân thích “xê dịch” đến nhiều vùng đất mới nhưng chủ yếu là đi để thoả mãn cái tôi cực đoan của bản thân thì giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đi nhiều lại là đi để phục vụ kháng chiến, phục vụ đất nước, nhân dân. Từ Vinh đến Thanh Hóa hay Tây Bắc đều in dấu bước chân Nguyễn Tuân, qua mỗi mảnh đất kháng chiến ông đã cho ra đời 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan