Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn...

Tài liệu Luận văn định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

.PDF
87
133
104

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LONG BÌNH ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LONG BÌNH ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Đức Hạnh HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Đức Hạnh. Nội dung và các kết luận trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Học viên Nguyễn Thị Long Bình MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU ...........................................................................................7 1.1. Những vấn đề lý luận về định tội danh tội buôn lậu ........................................7 1.2. Pháp luật về định tội danh tội buôn lậu……………………………………22 Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU VÀ THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU TẠI TP HỒ CHÍ MINH 2.1. Khái quát về tình hình tội phạm buôn lậu trên địa bàn TP.HCM ..................38 2.2. Thực tiễn định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh từ năm 2014 – 2018……………………………………………………………………..42 Chương 3:CÁC GIẢI GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu............................... 63 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu…..................67 KẾT LUẬN ..............................................................................................................75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCA : Bộ Công an BLHS : Bộ luật hình sự. BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự. CQĐT : Cơ quan Điều tra CTTP : Cấu thành tội phạm. TANDTC : Tòa án Nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự. VKSNDTC : Viện Kiểm Sát Nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Kết quả phát hiện tội phạm kinh tế của lực lượng Cảnh sát Kinh tế Công an Tp.Hồ Chí Minh từ 2014 -2018 ....................................................... 41 Bảng 2.2. Tình hình tội phạm về buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh từ 2014 -2018....................................................................................................... 41 Bảng 2.3. Thống kê kết quả phát hiện xử lý phạm pháp buôn lậu của Lực lượng CSKT Công an Tp.HCM từ năm 2014 -2018...................................... 42 Bảng 2.4. Bảng mức độ tăng, giảm của các vụ án về buôn lậu và số bị cáo phạm tội buôn lậu đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh. ........ 43 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thời gian gần đây, tình trạng buôn lậu ngày càng diễn biến phức tạp với công nghệ ngày càng hiện đại, kẻ phạm tội đã lợi dụng triệt để để phục vụ cho hành vi phạm tội của mình với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Đặc biệt, Việt Nam với vị trí địa lý thuận lợi, địa hình phức tạp, có đường biên giới dài (trên đất liền và biển) giáp với nhiều nước và với địa hình biên giới hiểm trở nên tình trạng buôn lậu trở nên phổ biến. Tội phạm buôn lậu đã gây ra những hậu quả, tác hại to lớn, làm suy yếu các ngành công nghiệp, sản xuất; giảm nguồn thu ngân sách, ảnh hưởng tới chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, gây thiệt hại cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh và cho cả người tiêu dùng. Tội phạm này còn tác động xấu đến môi trường cạnh tranh và phát triển lành mạnh của nền kinh tế, làm giảm sút lòng tin của người tiêu dùng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh. Và điều đó làm cho các nhà đầu tư trong nước thiếu an tâm khi đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh. Thêm vào đó, do đặc thù về chính sách thuế nhập khẩu của nước ta nên việc nhập lậu hàng hóa qua biên giới vào nước ta đã đem lại lợi nhuận khổng lồ, càng kích thích thêm cho hành vi buôn lậu. Đặc biệt, từ khi Luật Doanh nghiệp được ban hành, việc thành lập doanh nghiệp ngày càng trở nên “thoáng”, tạo điều kiện cho hàng chục nghìn doanh nghiệp được thành lập thêm cho mỗi năm. Đây là một thuận lợi góp phần cho sự phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng là gánh năng cho công tác quản lý nhà nước khi mà số lượng doanh nghiệp quá lớn, việc thành lập doanh nghiệp quá dễ dàng và nhanh chóng. Lợi dụng vào sự thông thoáng của chính sách thành lập doanh nghiệp, một số người đã tiến hành thành lập doanh nghiệp “ma” với mục đích hợp thức hóa cho việc nhập lậu hàng hóa, thiết bị, khiến thực trạng buôn lậu càng thêm phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước. Từ năm 2018, thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 có hiệu lực, quan điểm về tôi phạm buôn lậu đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt, luật hình sự đã bổ sung thêm hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Điều này đã giúp các cơ quan tố tụng có thêm nhiều hành lang pháp lý để định tội danh tội buôn 1 lậu cũng như phòng, chống tội phạm buôn lậu hiệu quả hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác đấu tranh đối với tội phạm buôn lậu không hề dễ dàng hơn khi mà các thủ đoạn thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi hơn. Theo Bộ luật Hình sự, tội phạm buôn lậu phải được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau như: Mua hoặc bán hàng hóa qua biên giới không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép xuất, nhập khẩu và các quy định khác của hải quan; mua bán hàng hóa đúng với giấy phép nhưng kê khai không đúng số lượng; giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng, tiền… hoặc đi qua đường mòn, lối mởi, đi vòng đường biển vào đất liên không qua cảng, cửa khẩu để tránh sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, để xác định một hành vi là tội phạm buôn lậu phân biệt với các tội phạm khác, ví dụ như: Tội vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới, Tội trốn thuế, Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm cũng là một vấn đề vẫn còn gây tranh cãi. Trên thực tế xét xử vẫn còn có sự chưa thống nhất về việc định tội danh đối với tội phạm này, mà điển hình là vụ án Nguyễn Minh Hùng – Tổng Giám đốc Công VN Pharma và đồng phạm nhập thuốc ung thư giả mà thời gian qua TAND TP.HCM đã đưa ra xét xử. Việc định tội danh đúng đối với tội phạm buôn lậu sẽ có nghĩa rất lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và nâng cao hơn nữa việc đấu tranh, phòng chống với loại hình tội phạm này hiệu quả. Ngược lại nếu việc định danh tội phạm này không đúng cũng sẽ gây ra những tiền lệ xấu cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, gây ra sự bất nhất giữa quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cũng sẽ không đạt được những kết quả như mong đợi. Qua nghiên cứu cho thấy hoạt động định tội danh tội buôn lậu có những khó khăn, hạn chế nhất định. Bên cạnh đó một số quy định của pháp luật vẫn còn chưa hoàn chỉnh, đi kịp với sự phát triển đã tạo kẽ hở cho tội phạm lợi dụng, các tội phạm hoạt động rất tinh vi, phức tạp, mặt khác cũng có một số nguyên nhân xuất phát từ ý chí chủ quan của Người định tội. Thành phố Hồ Chí Minh đã được Trung ương xác định là đầu tàu kinh tế của cả nước với tỷ trọng đóng góp ngân sách cho cả nước lớn nhất. Cùng với thị trường kinh tế vô cùng năng động, thành phố Hồ Chí Minh cũng là nơi tập trung nhiều vụ 2 án về kinh tế, trong đó có tội phạm về buôn lậu, buôn bán hàng giả nhiều nhất và phức tạp nhất nước. Xuất phát từ thực tế và từ những yêu cầu nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: "Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn thạc sỹ Luật học. Đề tài sẽ góp phần làm rõ về hoạt động định tội danh tội Buôn lậu theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Từ việc tổng hợp, phân tích về thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh để đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng định tội danh tội buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng như cả nước nói chung. Từ việc nâng cao hiệu quả, chất lượng định tội danh tội buôn lậu cũng góp phần nâng cao công tác đấu tranh phòng chống tội buôn lậu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Định tội danh là một đề tài không mới trong hệ thống nghiên cứu pháp lý về hình sự, tuy nhiên, do sự phát triển không ngừng của xã hội, của khoa học kỹ thuật nên phương thức phạm tội ngày càng tinh vi, phức tạp và luôn biến đổi, chính vì vậy, định tội danh đặc biệt là các tội danh về kinh tế luôn là một đề tài thời sự. Theo tìm hiểu của tác giả, kể từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực, đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả tiếp cận đề tài tội buôn lậu dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhưng hầu hết các công trình nghiên cứu đó chỉ tiếp cận ở góc độ nghiên cứu chung về tội phạm buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam; về đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất buôn bán hàng giả chứ chưa đi chuyên sâu về vấn đề định tội danh. Điển hình là các công trình nghiên cứu của các tác giả sau: - PTS Lê Thanh Bình, “Chống buôn lậu và gian lận thương mại”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 1998. - Trần Đình Hòa, luận án tiến sĩ “Tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng cảnh sát nhân dân đối với vụ án buôn lậu”, Học viện Cảnh sát nhân dân năm 2001. 3 - Hoàng Anh Tuấn, luận văn Thạc sĩ “Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu ở nước ta – Thực trạng và giải pháp “, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2003. - Nguyễn Thị Vui, luận văn thạc sĩ “Tội buôn lậu trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Giang), Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014. - Dương Xuân Sinh, luận văn thạc sĩ “Điều tra các vụ án buôn lậu của cơ quan Hải quan”, Học viện Khoa học xã hội năm 2016; - Ngô Thị Thùy Trang, luận văn Thạc sĩ “Đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh”, Trường Đại học Cảnh sát TP.Hồ Chí Minh năm 2019; Ngoài ra, còn có một số bài viết về tội phạm buôn lậu đăng trên các báo, tạp chí; một số luận văn khác nghiên cứu về định tội danh của các tội phạm như giết người; các tội phạm về ma túy; về tội hủy hoại tài sản… Tuy nhiên, nghiên cứu riêng về định tội danh tội buôn lậu vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu. Như vậy, tuy đã có nhiều tác giả nghiên cứu về một số nội dung có liên quan đến đề tài nhưng hầu hết chỉ tiếp cận ở góc độ chung về tội phạm buôn lậu, về gian lận thương mại hoặc nếu có đi sâu về định tội danh thì cũng chưa đi vào định tội danh tội buôn lậu. Hiện chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về đề tài định tội danh tội buôn lậu vì vậy Tác giả đã thực hiện đề tài trên tinh thần có sự tiếp thu, kế thừa những điểm phù hợp từ các công trình nghiên cứu trước đó để phát triển, làm sáng tỏ thêm cho mục đích nghiên cứu của đề tài định tội danh tội buôn lậu từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh và đề tài này không trùng với đề tài nghiên cứu nào về tội buôn lậu trước đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu việc định danh tội phạm buôn lậu theo Bộ luật Hình sự hiện hành thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đối với 4 loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2014-2018. Đồng thời, đề tài sẽ phân tích nhằm làm rõ nhữn vấn đề còn khó khăn, hạn chế, trong pháp luật cũng như trong thực tiễn việc định tội danh đối với tội phạm Buôn lậu tại Tp.Hồ Chí Minh. Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật định tội danh tội buôn lậu và góp phần nâng cao hoạt động định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh được chính xác. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về cấu thành của tội buôn lậu, đặc điểm của tội buôn lậu và phương thức định danh về tội buôn lậu theo pháp luật Hình sự nước Việt Nam. Khảo sát, đánh giá và những khó khăn của pháp luật Việt Nam liên quan đến hoạt động định danh tội phạm buôn lậu, thông qua việc định tội danh tội phạm buôn lậu trong một số vụ án điển hình đã điều tra, truy tố, xét xử tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây. Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về tội buôn lậu cũng như định tội danh tội buôn lậu và góp phần nâng cao hoạt động định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh được chính xác. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu, khảo sát trong phạm vi quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về định tội danh tội Buôn lậu trong phạm vi địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018. Các số liệu sử dụng trong đề tài dựa trên số liệu về thụ lý điều tra, truy tố, xét xử về tội buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian 05 năm (từ 2014 đến 2018) của Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các số liệu đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn này sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích, so sánh, hệ 5 thống, phương pháp phân tích lịch sử cụ thể kết hợp với lý luận thực tiễn… để giải quyết những vấn đề đặt ra từ nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về mặt khoa học: Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc định tội danh tội buôn lậu theo quy định của pháp luật Việt Nam; phân tích những khó khăn, hạn chế trong hệ thống pháp luật Việt Nam và trong áp dụng thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, từ đó rút ra những kinh nghiệm và có hướng hoàn thiện, bổ sung pháp luật Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Góp phần bổ sung, hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong các quy định về tội phạm buôn lậu, về việc định tội danh buôn lậu trong thực tiễn. Đây có thể sẽ là một tài liệu tham khảo đối với cơ quan hữu quan khi nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật, trong việc áp dụng vào thực tiễn việc định danh tội buôn lậu của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần vào đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng. Đây cũng có thể được xem là tài liệu tham khảo đối với hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về định tội danh tội buôn lậu Chương 2: Thực tiễn tình hình định tội danh và định tội danh tội buôn lậu tại Tp.Hồ Chí Minh. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU 1.1. Những vấn đề lý luận về định tội danh tội buôn lậu 1.1.1 Khái niệm định tội danh tội buôn lậu Định tội danh là một trong những hoạt động của việc áp dụng pháp luật hình sự. Pháp luật hình sự bao gồm một hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về tội phạm và hình phạt. Quá trình áp dụng pháp luật hình sự là quá trình xem xét hành vi của một người, một pháp nhân có phải là tội phạm không, nếu có thì là tội phạm gì, được quy định tại điều, khoản nào của BLHS, có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt không, nếu không thì phải chịu hình phạt như thế nào. Trong quá trình đó, việc xem xét để xác định hành vi của một người, một pháp nhân phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS là hoạt động định tội danh, hoạt động này diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định được gọi là quá trình định tội danh. Có thể nói hiện nay, trong Khoa học hình sự Việt Nam có nhiều quan điểm về khái niệm định tội danh nói chung, điển hình như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự” [39, tr 9,10]. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Định tội danh là một quá trình logic nhất định, là hoạt động của cán bộ có thẩm quyền trong việc xác nhận sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm pháp luật thuộc Phần các tội phạm Bộ luật hình sự” [9, tr 90-91] Quan điểm thứ ba cho rằng: “định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả quy định trong Bộ Luật Hình sự để xác định tội phạm đã xảy ra và người phạm tội, cũng như xác định không có 7 tội phạm xảy ra hoặc không có người phạm tội hoặc người bị tình nghi không phải là người thực hiện tội phạm (tức họ không phạm tội) bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự”. [15, tr 8] Và nhiều quan điểm khác, tuy nhiên về cơ bản được hiểu định tội danh là một quá trình logic, là quá trình so sánh, đối chiếu, tìm sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. BLHS quy định các yếu tố cấu thành của các tội phạm cụ thể mà dựa vào đó người áp dụng pháp luật, người bào chữa so sánh với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã thực hiện, tìm ra sự phù hợp giữa chúng để xác định hành vi đã thực hiện phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS. Vì định tội danh là quá trình tư duy logic, nên nó bao gồm các bước (các giai đoạn) có mối quan hệ chặt chẽ, được thực hiện đồng thời và xen kẽ nhau. Cụ thể là: - Xác định đầy đủ, chính xác các tình tiết thực tế của vụ án, phản ánh đúng thực tế khách quan. - Nhận thức chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự, các dấu hiệu pháp lý của từng cấu thành tội phạm cụ thể. - So sánh, đối chiếu các tình tiết của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cụ thể, tìm ra sự phù hợp giữa chúng. - Rút ra kết luận về sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS và ra văn bản áp dụng pháp luật. Quá trình định tội có thể do các chủ thể khác nhau tiến hành, trong đó việc định tội của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, TA) có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Kết quả của việc định tội do các cơ quan này thực hiện được thể hiện ở các quyết định tố tụng, như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can, đình chỉ điều tra miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can, kết luận điều tra đề 8 nghị truy tố của CQĐT; quyết định đình chỉ vụ án miễn trách nhiệm hình sự, quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện Kiểm sát, bản án kết tội của Toà án... Định tội của người bào chữa có ý nghĩa trong việc tranh tụng với đại điện Viện kiểm sát và là cơ sở để Tòa án xem xét, kết tội bị cáo. Với những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về định tội danh như sau: Định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự do các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng thực hiện, được thể hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nhất định với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm trong các giai đoạn tố tụng do pháp luật quy định góp phần giải quyết vụ án hình sự. Từ các phân tích khái niệm chung về định tội danh như trên thì có thể hiểu đối với hoạt động Định tội danh tội buôn lậu là hoạt động nhận thức, áp dụng pháp luật hình sự trên cơ sở xác định đầy đủ các hành vi khách quan, chủ thể, khách thể theo cấu thành chung của tội phạm cũng như cấu thành riêng biệt của tội buôn lậu để xác định hành vi nguy hiểm của các chủ thể đó có phải là tội buôn lậu hay không, hậu quả đến đâu, trách nhiệm hình sự tới đâu… Từ cơ sở khái niệm chung về định tội danh thì chúng ta có thể khái quát về định tội danh tội buôn lậu như sau: " Định tội danh tội buôn lậu là hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền hoặc do những người bào chữa, người bảo vệ quyền vì lợi ích của đương sự.. đối chiếu hành vi mà bị can, bị cáo đã thực hiện trên thực tế với hành vi được mô tả trong cấu thành tội buôn lậu được quy định trong Bộ luật hình sự để khẳng định hành vi của bị can, bị cáo đã thực hiện có phạm tội buôn lậu hay không nhằm thực hiện các chức năng tố tụng hình sự của chủ thể định tội, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ" 1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội buôn lậu Từ khái niệm chung về định tội danh và định tội danh tội buôn lậu nói riêng, chúng ta có thể thấy các đặc điểm như sau: Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp 9 luật hình sự bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình: Thứ nhất: Xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế đã xảy ra đối với vụ án buôn lậu; Thứ hai: Nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS về tội buôn lậu; Thứ ba: Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để đối chiếu chính xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế. Như vậy quá trình định tội danh cũng như định tội danh tội buôn lậu bao gồm 3 giai đoạn cơ bản: - Làm sáng tỏ những dấu hiệu chung đặc trưng nhất của hành vi, cụ thể ở đây là buôn lậu - Làm sáng tỏ hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào và được quy định ở chương nào, điều nào của Bộ luật hình sự - Chỉ rõ cấu thành tội phạm về tội cụ thể nào được áp dụng về mặt khách thể, chủ quan, mặt khách quan và chủ quan của tội phạm. [9,tr. 92,93,102-105] Như vậy, từ việc phân tích các đặc điểm chung về với định tội danh thì hoạt động định tội danh tội buôn lậu nói riêng thì có thể rút ra các đặc điểm như sau: đó là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để xác định hành vi khách quan đã xảy ra đó có là hành vi nguy hiểm cho xã hội và có đủ các yếu tố cấu thành tội buôn lậu hay không, bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình: Thứ nhất: xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế vụ án buôn lậu; Thứ hai: nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS bao gồm phần chung và phần quy định về tội buôn lậu; Thứ ba: lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để đối chiếu chính xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế: Xem xét về thời điểm xảy ra hành vi buôn lậu: điều này quan trọng trong thời điểm chuyển giao giữa BLHS năm 1999, sửa đổi 2009 và BLHS năm 2015, sửa 10 đổi 2017. Áp dụng nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với nhiều quy định có lợi cho người phạm tội; So sánh, đối chiếu với các quy phạm pháp luật cũ, mới để lựa chọn định tội danh đúng, nếu hành vi khách quan, khách thể… đó đã được hủy bỏ, thay đổi, có dấu hiệu của một tội phạm khác thì phải thực hiện việc đình chỉ hoặc đổi tội danh cho bị can bị cáo. Ví dụ: tội buôn lậu trong BLHS 2015 quy định tại điều 188 đã bỏ hoàn toàn hàng cấm ra khỏi điều luật mà hành vi khách quan chỉ là buôn bán trái phép hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật. Còn hàng cấm được quy định riêng ở điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm). Tại BLHS 1999 quy định tội buôn lậu tại điều 153, tại điểm c khoản 1 nêu là hàng cấm, quy định này trùng lặp với điều 155 (Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm). Do vậy, nếu vụ án đã được khởi tố trước ngày luật này có hiệu lực nhưng chưa giải quyết xong thì có thể xem xét đổi tội danh cho bị can bị cáo theo đúng quy định của BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Như vậy quá trình định tội danh tội buôn lậu cần chú ý các yếu tố: - Làm sáng tỏ những dấu hiệu chung đặc trưng nhất của hành vi buôn lậu: - Làm sáng tỏ hành vi nguy hiểm cho xã hội đó thuộc tội buôn lậu quy định ở điều nào, khoản nào của BLHS, ngoài ra có những quy phạm pháp luật nào hướng dẫn áp dụng cụ thể; - Chỉ rõ các dấu hiệu đặc trưng của cấu thành tội phạm buôn lậu (dấu hiệu định tội và dấu hiệu định khung) [9, tr. 112-114], [14, tr. 31-33]. 1.1.3 Nội dung của định tội danh tội buôn lậu Định tội danh là một quá trình gồm nhiều bước, là quá trình trình xác định sự đồng nhất của các tình tiết cơ bản, điển hình nhất của một hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm nào đó được quy định trong pháp luật hình sự, bao gồm các nội dung: 11 Thứ nhất: Xác định quan hệ xã hội nào đã bị tác động bởi hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại phần các tội phạm của BLHS. Nói cách khác là xác định khách thể của tội phạm được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Trong các loại khách thể của tội phạm (khách thể chung, khách thể loại, khách thể trực tiếp) thì xác định khách thể trực tiếp của tội phạm có ý nghĩa để xác định tội phạm cụ thể vì khách thể trực tiếp của tội phạm chính là dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể. Một tội phạm cụ thể có thể có một khách thể trực tiếp, nhưng cũng có thể có nhiều khách thể trực tiếp. Trong nhiều trường hợp, việc xác định khách thể của tội phạm được thực hiện thông qua việc xác định đối tượng tác động của tội phạm. Do vậy, xác định đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa trong việc định tội. Ví dụ, tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303 BLHS), tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 BLHS), tội huỷ hoại rừng (Điều 243 BLHS), tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 413 BLHS). Trong trường hợp có sự nhận thức sai lầm của một người về khách thể của tội phạm thì việc định tội phải tùy từng trường hợp cụ thể. Nếu người thực hiện hành vi không có ý định xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng thực tế đã xâm hại đến khách thể của tội phạm thì về nguyên tắc, người thực hiện hành vi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với lỗi vô ý. Nếu người thực hiện hành vi cho rằng mình xâm hại đến khách thể của tội phạm nhưng thực tế không gây thiệt hại được vì không có đối tượng hoặc đối tượng không có những đặc tính mà người thực hiện hành vi tưởng là có thì việc định tội phải căn cứ vào đặc điểm các dấu hiệu của từng cấu thành tội phạm cụ thể (có thể người thực hiện hành vi phạm tội hoặc không phạm tội). Vậy, với tội buôn lậu để xác định quan hệ bị tác động thì người định tội cũng đi theo trình tự đầu tiên là xác định quan hệ xã hội bị tác động hay là khách thể bị tác động là hoạt động quản lý kinh tế nhà nước về ngoại thương, xuất nhập khẩu; đối tượng tác động trực tiếp được quy định rõ trong quy định của BLHS về tội buôn lậu. 12 Thứ hai: Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là hành vi gì, mức độ tác động, bằng phương thức, thủ đoạn nào…hành vi đó được quy định trong BLHS hay không, hậu quả của hành vi đó đến đâu, chủ thể thực hiện là cá nhân hay pháp nhân thương mại, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành vi khách quan của tội phạm) là dấu hiệu bắt buộc trong tất cả các cấu thành tội phạm. Để xác định hành vi thực tế do một người hoặc một pháp nhân thực hiện phạm tội gì, người định tội phải đối chiếu hành vi đã thực hiện của người đó hoặc của pháp nhân đó với dấu hiệu hành vi khách quan của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, xác định xem hành vi đã thực hiện có phù hợp với dấu hiệu hành vi được quy định trong điều luật cụ thể của BLHS không. Trên cơ sở đó rút ra kết luận về việc người hoặc pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS. Trong trường hợp một điều luật trong Phần các tội phạm của BLHS quy định về tội phạm có nhiều hành vi, khi định tội cần chú ý một số vấn đề sau: - Trường hợp một người hoặc một pháp nhân chỉ thực hiện một trong các hành vi phạm tội được quy định tại điều luật đó thì định tội với tên tội danh về hành vi phạm tội đã thực hiện theo điều luật tương ứng. Ví dụ: Một người chỉ mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì chỉ định tội về tội mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 253 BLHS mà không định tội là tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy. - Nếu một người hoặc một pháp nhân thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia), thì định tội với tên tội đầy đủ đối với tất cả các hành vi đã được thực hiện theo điều luật tương ứng. Ví dụ: Một người mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy rồi vận chuyển đến một địa điểm mới và tàng trữ tiền chất đó, thì định tội với tên tội danh là mua bán, vận chuyển, tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 253 BLHS. 13 -Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà các hành vi đó độc lập với nhau, thì phải định tội về tất cả các tội mà người ấy đã thực hiện. Ví dụ: Một người mua bán trái phép hêrôin bị bắt, khi khám nhà phát hiện người đó còn có hành vi sản xuất thuốc phiện. Trong trường hợp này người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 251BLHS và tội sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 248 BLHS. - Trên thực tế, một hành vi có thể cấu thành nhiều tội khác nhau. Đây là những trường hợp hành vi cụ thể cấu thành nhiều tội. Về nguyên tắc, khi hành vi cấu thành nhiều tội thì phải định tội về nhiều tội. Nếu một hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành hai tội phạm cụ thể độc lập. Ví dụ: Hành vi giết người để lấy tài sản. Phải định tội người thực hiện hành vi phạm hai tội là giết người (Điều 123 BLHS) và cướp tài sản (Điều 168 BLHS). Nếu một hành vi vừa thoả mãn một cấu thành tội phạm cụ thể, vừa thoả mãn cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm khác. Ví dụ: Nhân viên hải quan nhận hối lộ để cho người khác mang hàng qua biên giới trái phép. Phải định tội hành vi của nhân viên hải quan về hai tội: Nhận hối lộ và đồng phạm tội buôn lậu. Nếu một hành vi đồng thời thoả mãn hai cấu thành tội phạm của hai hành vi đồng phạm khác nhau. Ví dụ: Cho người khác mượn vũ khí để giết người và chiếm đoạt tài sản. Phải định về hai tội với vai trò là người giúp sức giết người và giúp sức cướp tài sản. Với tội phạm buôn lậu là xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là xuất nhập khẩu thì người định tội cần xác định rõ hành vi nào của người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội là nguy hiểm cho xã hội là trái pháp luật, hành vi được thực hiện ra sao, phương thức thủ đoạn như thế nào phải phù hợp với quy định của BLHS, trình tự, thủ tục phải đảm bảo theo quy định của BLTTHS, đặc biệt là trong quá trình thu thập chứng cứ chứng minh hành vi nguy hiểm cho xã hội đó là phạm tội buôn lậu, ví dụ hành vi giả mạo hợp đồng, giả mạo giấy phép để nhập khẩu, hay hành vi khai báo gian dối (tăng, bớt, khai sai về tên hàng hóa…) để nhập khẩu…phải được cụ thể, rõ ràng… Thứ ba: Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi được coi là dấu hiệu cơ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan