Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật ...

Tài liệu Luận văn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh long an

.PDF
90
128
82

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ THỚI ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ THỚI ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN Hà Nội, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Các thông tin và tài liệu trích dẫn trong Luận văn được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Cao Thị Thới MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: CÁC CƠ SỞ CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ..........................................................................6 1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ....6 1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .18 1.3. Cơ sở thực tiễn của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. ...............................................................................................................................35 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH LONG AN ................................................39 2.1. Khái quát tình hình xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Long An .................................................................................................................39 2.2. Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Long An .................................................................................................................40 Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ....................63 3.1. Các yêu cầu của định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ..........................................................................................................................63 3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .....................................................................................................................66 KẾT LUẬN ..............................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADPL :Áp dụng pháp luật BLHS :Bộ luật hình sự BLTTHS :Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT :Cơ quan điều tra CTTP :Cấu thành tội phạm HĐXX :Hội đồng xét xử LDTNCĐTS :Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản PLHS :Pháp luật hình sự TAND :Tòa án nhân dân TNHS :Trách nhiệm hình sự TTHS :Tố tụng hình sự VKSND :Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Số liệu phản ánh tình hình khởi tố, truy tố, xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018. Bảng 2.2. Thống kê số các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018. Bảng 2.3. So sánh tỉ lệ các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018 Bảng 2.4. Số liệu phản ánh tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự cho thấy, hiện nay các cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh nói chung nhất là các tội xâm phạm sở hữu nói riêng như tội cướp tài sản; tội cướp giật tài sản; tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (viết tắt LDTNCĐTS) và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản…Có nhiều trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng có sự nhầm lẫn giữa các tội danh này với nhau hay trường hợp phạm nhiều tội nhưng lại định tội danh là một tội, hoặc không xác định được có sự chuyển hóa tội danh từ các tội chiếm đoạt tài sản sang tội cướp tài sản. Từ đó, dẫn đến việc oan sai, bỏ lọt người phạm tội, áp dụng mức hình phạt, loại hình phạt không đúng, gây dư luận không tốt, giảm uy tín các cơ quan bảo vệ pháp luật và giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tỉnh Long An là tỉnh nằm ở đồng bằng sông Cửu Long, thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cận kề với Tp. Hồ Chí Minh, có vai trò đặc biệt quan. Với những thuận lợi đã đạt được, thì tình hình tội phạm không ngừng gia tăng, đặc biệt là các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội LDTNCĐTS. Nhiều năm qua, công tác khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án này tại tỉnh Long An cho thấy về cơ bản việc định tội danh được thực hiện tương đối chính xác nhưng vẫn có một số trường hợp giữa CQĐT, VKSND và TAND trong quá trình giải quyết vụ án xuất hiện quan điểm khác nhau về định tội danh dẫn đến có vụ án phải trả hồ sơ nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà đặc biệt từ chính hoạt động của các chủ thể định tội danh do chưa nắm vững và nhận thức đúng những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS. Từ những thực trạng nêu trên cần phải có sự nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động định tội danh tội phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp đảm bảo định tội danh đúng tội phạm trong thực tiễn để hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nhằm đảm bảo quyền con người 1 trong TTHS, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như phù hợp với yêu cầu cải cách của nền tư pháp nước ta hiện nay đã đặt ra. Chính vì những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài“Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” làm đề tài luận văn nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý cho việc định tội danh tội LDTNCĐTS được áp dụng trong thực tiễn cho thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay có rất nhiều công trình khoa học liên quan đến đề tài của tác giả đã được đề cập và công bố như: Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Tập 2, NXB Tp. Hồ Chí Minh; Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập 2, NXB Công an nhân dân, Hà Nội…Ngoài ra, còn có các Luận văn Thạc sĩ Luật học của nhiều tác giả liên quan đến vấn đề định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn của nhiều tỉnh, thành phố của cả nước như: Hoàng Thị Kim Chi (2017) Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thiện Tâm (2019) Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Đước, tỉnh Long An; Đặng Xuân Sơn (2017) Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa...Những công trình nghiên cứu, các bài viết, đề tài khoa học nêu trên đều có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn nhưng một số nội dung các đề tài chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội phạm LDTNCĐTS trong mối quan hệ tách biệt hoàn toàn với những kiến thức lý luận về định tội danh. Mặc dù, có rất nhiều công trình nghiên cứu về định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS nói riêng. Tuy nhiên, tác giả cho rằng một số công trình nghiên cứu cách đây khá lâu nên không còn phù hợp với tình hình tội phạm nước ta hiện nay về mặt giá trị lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, BLHS năm 2 2015 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, trong đó những quy định về phần chung cũng như phần các tội phạm có nhiều sửa đổi, bổ sung so với quy định trong BLHS năm 1999 nhưng chưa có công trình, đề tài nghiên cứu nào xem xét vấn đề định tội danh tội LDTNCĐTS ở góc độ hoàn chỉnh, toàn diện từ tỉnh Long An. Những giá trị lý luận và thực tiễn của những công trình, kết quả nghiên cứu đã công bố là một trong những nguồn tài liệu quan trọng mà tác giả có thể vận dụng, tham khảo để hoàn thiện cho luận văn cuối khóa của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh, các quy định của pháp luật hình sự về tội LDTNCĐTS và thực tiễn định tội danh này tại tỉnh Long An, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm việc định tội danh đúng tội LDTNCĐTS ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Phân tích những quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Phân tích, đánh giá thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An; Đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu quan điểm khoa học, các quy định của BLHS Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và thực tiễn định tội danh tội này trên địa bàn tỉnh Long An nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong định tội danh tội LDTNCĐTS, đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội LDTNCĐTS ở nước ta. 3 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. Về mặt thực tiễn, đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp số liệu xét xử các vụ án LDTNCĐTS của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Long An trong thời gian 05 năm từ năm 2014 đến 2018. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS đảm bảo được tính chính xác, độ tin cậy cao và từ đó đưa ra một số giải pháp bảo đảm cho việc định tội danh nêu trên một cách có hiệu quả nhất trong thời gian tới. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tội phạm, về hình phạt, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về cải cách tư pháp… Đồng thời, đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu điển hình nhằm làm rõ nội dung các vấn đề cần trình bày nêu trên và đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng định tội danh về tội phạm này trên địa bàn tỉnh Long An một cách có hiệu quả nhất. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nghiên cứu đề tài luận văn sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận có liên quan đến hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Long An nói riêng và cho cả nước nói chung. Ngoài ra, việc nghiên cứu của luận văn còn có ý nghĩa rất lớn, có thể được vận dụng như một tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy đối với các cán bộ công tác thực tiễn, đặc biệt là cán bộ làm công tác xét xử sẽ giúp ích một phần nào cho việc vận dụng vào quá trình giải quyết các vụ án đã và đang xảy ra trong thực tế. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và được kết cấu gồm ba chương. 4 Chương 1. Các cơ sở của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Chương 2. Thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Long An; Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 5 Chương 1 CÁC CƠ SỞ CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1.1. Khái niệm định tội danh Theo khoa học luật hình sự, BLHS là văn bản pháp lý duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt. Chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS với tên gọi cụ thể mới được xem là tội phạm và phải chịu hình phạt. Có thể xác định định tội là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra với các dấu hiệu tương ứng trong quy phạm PLHS sẽ trở thành khuôn mẫu pháp lý làm cơ sở cho người tiến hành tố tụng để có thể so sánh, đối chiếu với những hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trên thực tế, từ đó xác định được người phạm tội đã phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của BLHS. Tuy nhiên, khái niệm và đặc điểm định tội danh, chưa được quy định trong phần chung của BLHS năm 2015. Hiện nay, các luật gia, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về định tội danh: Quan điểm khác cho rằng“Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định,nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [9, tr.716]. 6 Theo quan điểm nêu trên, thì định tội danh trước hết là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, có nghĩa là khi tiến hành định tội danh phải tuân theo các quy luật nhận thức nhất định, là hoạt động thực tiễn ADPLHS, hoạt động này là do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo quy định và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự được thu thập theo đúng quy định của PLTTHS, để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng do LHS quy định nhằm đạt được sự thật khách quan. Từ khái niệm chung này, cần nêu khái niệm định tội danh tội LDTNCĐTS. Hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS nói riêng là tổng hợp các quy định của PLHS và pháp luật TTHS nhằm đảm bảo cho việc xác định chính xác hành vi của người phạm tội thỏa mãn CTTP quy định tại Điều, Khoản nào của BLHS, là cách thức mà các chủ thể lựa chọn các quy phạm tương ứng để điều chỉnh hành vi cũng như các quy định của pháp luật TTHS về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử cần áp dụng để việc truy cứu TNHS người phạm tội được tiến hành nhanh chóng, chính xác, khách quan. Tội LDTNCĐTS là một trong những tội phạm khá phổ biến và xảy ra trong thực tiễn cuộc sống nhất là trong lĩnh vực dân sự và được PLHS qua các thời kỳ xác định là tội phạm bằng nhiều quy định khác nhau. Khi chưa có BLHS năm 1985 thì việc xử lý tội phạm LDTNCĐTS được thực hiện thông qua các văn bản pháp luật riêng lẻ được Nhà nước ban hành, điển hình là hai Pháp lệnh được ban hành năm 1970 gồm Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân. Thời điểm này, tội LDTNCĐTS được xác định là hành vi“bội tín” cho đến khi BLHS Việt Nam đầu tiên được ban hành năm 1985 đã quy định về tội danh này mới được sửa đổi và thống nhất với tên gọi là tội LDTNCĐTS nhưng có sự tách biệt ở hai điều luật cụ thể tương ứng với các hình thức sở hữu tài sản và được Nhà nước ưu tiên bảo vệ ở các mức độ khác nhau mức hình phạt áp dụng với quy định về tội LDTNCĐTS của Nhà nước nặng hơn so với quy định hình phạt áp dụng hành vi phạm tội LDTNCĐTS của công dân. Đến khi BLHS năm 7 1999 có hiệu lực quy định tại Điều 140 đã đánh dấu cột mốc quan trọng quy định thống nhất hành vi của người phạm tội LDTNCĐTS của công dân, của Nhà nước trong một tội danh. Trước yêu cầu đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế, Quốc hội đã ban hành luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 theo hướng quy định nâng cao giá trị định lượng đối với tài sản bị chiếm đoạt từ một triệu đồng lên mức bốn triệu đồng. Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập cũng như phù hợp với tình hình thực tiễn về phát triển kinh tế – xã hội nên BLHS năm 2015 ra đời đánh dấu một bước tiến mới trong kỹ thuật lập pháp Tội LDTNCĐTS được thực hiện bằng những hành vi cụ thể, bao gồm: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối. Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. Tuy nhiên, muốn đảm bảo tính chính xác khi xây dựng khái niệm về tội LDTNCĐTS cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa quy định về tội phạm nói chung tại Khoản 1 Điều 8 BLHS và Điều 175 BLHS năm 2015. Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy định “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá…”[29, tr.13]. Đây là khái niệm đầy đủ và hoàn chỉnh về mặt khoa học, nội dung cũng như hình thức, thể hiện đầy đủ các đặc trưng của tội phạm, là cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về CTTP với từng tội danh cụ thể. Hiện nay hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận hành vi LDTNCĐTS trong BLHS cũng giống như ở nước ta là quy định hình phạt tương ứng với hành vi này ở các mức độ khác nhau như: BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không ghi nhận trực tiếp về tội phạm này nhưng tại Điều 270 quy định “Người nào chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác được người đó nhờ bảo quản với số lượng tương đối lớn và không chịu hoàn trả người đó thì bị phạt....” [16, tr.172]. 8 Theo Đề cương bài giảng luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học An ninh nhân dân định nghĩa“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản được giao trên cơ sở hợp đồng đã được giao kết giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt” [46, tr.120]. Theo bình luận khoa học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của TS Trần Văn Biên và TS Đinh Thế Hưng đưa ra định nghĩa“ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc, đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [4, tr.226]; hay theo bình luận khoa học phần chung BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của luật gia Nguyễn Ngọc Điệp biên soạn khái niệm“ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [15, tr.121]. Tóm lại, theo quan điểm tác giả cho rằng khái niệm“tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc đến thời hạn trả lại mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả lại tài sản hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. Khi chúng ta nêu được khái niệm tội LDTNCĐTS có ý nghĩa quan trọng cho việc nghiên cứu và tiếp cận các vấn đề có liên quan đến việc định tội danh đối với tội phạm này ở phần sau, góp phần làm rõ về mặt lý luận trong việc định tội danh đối với tội phạm này ở nhiều phương diện khác nhau mà đặc biệt góp phần làm rõ về các yếu tố CTTP này. 9 1.1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Trước hết, định tội danh tội LDTNCĐTS được tiến hành bởi những chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, là hoạt động có tính logic được tiến hành bởi các cơ quan có tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKS, TA và một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thông qua những người tiến hành tố tụng thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể trong BLTTHS năm 2015. Các chủ thể này ngoài việc được trang bị vốn kiến thức nhất định về pháp luật còn được phép sử dụng tất cả các công cụ cần thiết cũng như biện pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép trên cơ sở trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định để xác định sự tương thích giữa hành vi phạm tội và dấu hiệu cấu thành của tội LDTNCĐTS, trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn về mặt tội danh đối với người phạm tội để đưa ra mức hình phạt hợp lý. Thứ hai, định tội danh tội LDTNCĐTS là hoạt động ADPL trong thực tiễn được tiến hành bởi các chủ thể tiến hành tố tụng và một số chủ thể có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật TTHS, là quá trình phức tạp đòi hỏi khi thực hiện phải có sự hỗ trợ tích cực từ các biện pháp nghiệp vụ cần thiết. Do vậy, muốn đảm bảo tính chính xác trong việc định tội danh tội LDTNCĐTS thì hoạt động này phải được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKS, Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Phải xác định có hành vi nguy hiểm cho xã hội hay không. Việc xác định có hành vi phạm tội LDTNCĐTS xảy ra hay không là rất khó. Cho nên các chủ thể có thẩm quyền cần áp dụng các biện pháp, kết hợp với kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, vốn kiến thức lý luận và thực tiễn để đưa ra kết luận hành vi có dấu hiệu tội phạm hay không hay chỉ đơn thuần là những vi phạm dân sự, lẽ ra họ là bị đơn trong vụ án dân sự hay vụ án kinh doanh thương mại. Thứ ba, định tội danh tội LDTNCĐTS là việc ADPLHS vào thực tiễn bởi các chủ thể tiến hành tố tụng bằng việc ban hành các văn bản, quyết định tố tụng nhằm 10 mục đích giải quyết vụ án hình sự phù hợp với các quy phạm PLHS và các quy phạm pháp luật TTHS. Thứ tư, mục đích của việc định tội danh tội LDTNCĐTS là xác định chính xác người thực hiện hành vi phạm tội, phạm tội gì, thuộc điều, khoản nào được quy định trong BLHS nhằm buộc họ phải chịu TNHS, hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội đã gây ra. 1.1.1.3.Ý nghĩa của việc định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS sẽ giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này có căn cứ; là cơ sở để áp dụng đúng các quy định TTHS, đảm bảo việc truy cứu TNHS đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội góp phần nâng cao uy tín, chất lượng của các cơ quan ngành tư pháp mà đặc biệt là Tòa án án. Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS là tiền đề cho việc quyết định hình phạt đảm bảo tính chính xác; thể hiện ý thức tuân thủ pháp luật, trình độ chuyên môn, hiệu quả hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng nhưng quan trọng nhất là Thẩm phán trong việc ban hành quyết định, bản án thật sự nghiêm minh, công bằng và đúng pháp luật. Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS sẽ giúp cho việc ADPL một cách đúng quy định, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà người phạm tội thực hiện được quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015. Định tội danh sai hậu quả tất yếu là quyết định hình phạt sẽ sai, làm cho hình phạt đã tuyên không phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm cho người bị kết án không thấy được lỗi do hành vi mà mình thực hiện. Từ đó, không tự giác tuân thủ pháp luật, không thuyết phục quần chúng nhân dân về tính đúng đắn và tính nghiêm minh của bản án, làm giảm tính tuyên truyền và giáo dục pháp luật của bản án. Tóm lại, định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý là đảm bảo quyền con người và công bằng xã hội, là kênh hiện thực hóa chính sách hình sự 11 vào thực tiễn, là yếu tố bảo đảm chính xác tình hình tội phạm trong một không gian, thời gian nhất định. 1.1.2. Chủ thể, các giai đoạn và các trường hợp định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.2.1. Chủ thể của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Từ việc nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn thấy rằng, định tội danh tội LDTNCĐTS do bởi các chủ thể là cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành. Theo qui định tại Khoản 1 Điều 34 BLTTHS năm 2015, thì chủ thể tiến hành định tội danh gồm: CQĐT, VKS, Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ như: Bộ đội biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; Các cơ quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan cụ thể được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định tại Khoản 1 Điều 35 BLTTHS năm 2015 [32, tr.25, 26,27,28]. Bên cạnh đó, còn có các cán bộ khoa học, tác giả các bài viết, bài báo, giảng viên, sinh viên luật hay bất kỳ một người nào quan tâm, có kiến thức pháp luật cũng có thể tiến hành định tội danh. Các chủ thể trên có đặc điểm chung là khi tiến hành định tội danh cũng thực hiện việc lựa chọn và so sánh các dấu hiệu của quy phạm pháp luật với thực tế khách quan để làm cơ sở cho sự xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với CTTP cụ thể. Người tiến hành tố tụng khi tiến hành định tội danh sẽ có ưu thế hơn với các chủ thể khác vì họ có điều kiện tiếp cận và nắm chính xác, cụ thể các tình tiết khách quan của vụ án nên định tội danh sẽ chính xác và phản ánh được bản chất của vụ án hình sự, còn định tội danh do các chủ thể khác chỉ là sự thể hiện ý kiến cá nhân, quan điểm pháp lý nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu pháp luật. 1.1.2.2. Các giai đoạn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Để bảo đảm định tội danh đúng cần tiến hành theo trình tự nhất định, gồm các giai đoạn: 12 Thứ nhất, xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội Là một trong những bước rất quan trọng của định tội danh, bởi vì hành vi xảy ra như thế nào nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của định tội danh cho nên các chủ thể có thẩm quyền cần phải vận dụng kiến thức lý luận, thực tiễn và kết hợp những kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp để đưa ra kết luận hành vi có dấu hiệu tội phạm hay là những vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế. Chính vì thế, các chủ thể cần phải xác định tầm quan trọng của thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh sự thật của vụ án. Các chủ thể khi xác định sự thật khách quan của vụ án, khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử phải đảm bảo sự vô tư, khách quan, không suy diễn hay định kiến, mà phải dựa vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập hợp pháp, đúng trình tự pháp luật và được kiểm tra, phân tích, đánh giá theo quy định của pháp luật. Thứ hai, nhận thức nội dung của các quy định trong BLHS một cách đúng đắn Một hành vi phạm tội được xác định do chủ thể có năng lực TNHS và độ tuổi mà BLHS đã quy định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì cần tiến hành đối chiếu, so sánh các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nhận định mức độ liên quan và sự phù hợp giữa hành vi diễn ra trên thực tế với các yếu tố CTTP xem có thỏa mãn cấu thành tội LDTNCĐTS hay không? Nếu có thì thuộc Điểm, Khoản, Điều 175 của BLHS năm 2015. Khi ban hành BLHS, nhà làm luật đã đánh giá một cách toàn diện tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi tương ứng, quy định chế tài áp dụng đối với từng loại hành vi cũng như hiệu quả đạt được khi áp dụng các chế tài. Từ thực tiễn ADPLHS cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc về định tội danh tội LDTNCĐTS và quyết định hình phạt đối với các loại tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không mang tính chiếm đoạt dễ dẫn đến sự nhằm lẫn định tội danh giữa tội này với tội khác. Thứ ba, xác định mối quan hệ giữa các dấu hiệu thực tế và các dấu hiệu được quy định trong luật, trên cơ sở đó rút ra kết luận 13 Đây là bước quan trọng nhất của quá trình định tội danh. Các dấu hiệu của tội phạm được quy định trong luật và các tình tiết thực tế của vụ án là hai nhóm hiện tượng được hợp nhất, thống nhất trong quá trình định tội danh. Do đó, để định tội danh đúng, sau khi xác định sự thật khách quan của vụ án và tìm hiểu, phân tích các quy phạm PLHS để nhận thức đúng đắn, sâu sắc nội dung của nó nhằm lựa chọn đúng quy phạm PLHS tương ứng đã thoả mãn quy định tại Điều, Khoản nào của BLHS năm 2015. Thứ tư, đưa ra kết luận Trong từng giai đoạn tố tụng của từng cơ quan tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự thì sẽ kết luận về hành vi phạm tội gì, phải ban hành các văn bản tố tụng khác nhau và phải tương ứng với từng giai đoạn tố tụng như CQĐT ban hành Quyết định khởi tố, Quyết định không khởi tố…Viện kiểm sát ban hành Quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định, lệnh của CQĐT…, Tòa án, thì ban hành Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, xử lý vật chứng…[32, tr.29, 40, 45]. Như vậy, định tội danh tội LDTNCĐTS phải được thực hiện bởi các giai đoạn nêu trên. Do đó, đòi hỏi người ADPL mà đặc biệt là Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa phải cân nhắc, am hiểu pháp luật mới thực hiện tốt mới đảm bảo cho việc định tội danh đúng và ban hành quyết định, bản án đúng người, đúng tội, nghiêm minh và có hiệu quả cao trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. 1.1.2.3. Các trường hợp định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản * Định tội danh theo CTTP cơ bản Các trường hợp phạm tội cụ thể của loại tội nhất định đều có những nội dung biểu hiện giống nhau ở cả bốn yếu tố của tội phạm. Đây là những dấu hiệu chung, đặc trưng của loại tội phạm đó và tổng hợp những dấu hiệu này chính là CTTP. Như vậy, “cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự” [47, tr.53]. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan