TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA
NGỮ VĂN
======
======
ĐÀO THỊ KIM HUẾ
GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
TRONG MINH QUYÊN THI TẬP
CỦA NGUYỄN HÀNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI, 2018
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
ĐÀO THỊ KIM HUẾ
GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
TRONG MINH QUYÊN THI TẬP
CỦA NGUYỄN HÀNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. AN THỊ THÚY
HÀ NỘI, 2018
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới cô
giáo An Thị Thúy – ngƣời thầy tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn và chỉ bảo cho tôi
trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Ngoài ra, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Ngữ văn,
các thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam của trƣờng ĐHSP Hà Nội 2 đã tận
tình truyền đạt kiến thức trong những năm tôi học tập và nghiên cứu.
Nhân đây, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ,
động viên tôi hoàn thành khóa luận.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên thực hiện
Đào Thị Kim Huế
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan : Khoá luận tốt nghiệp với đề tài Giá trị nội dung và
giá trị nghệ thuật trong Minh Quyên thi tập của Nguyễn Hành là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi. Kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề
tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Những thông tin
tham khảo trong khóa luận đều đƣợc trích dẫn cụ thể nguồn sử dụng.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên thực hiện
Đào Thị Kim Huế
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..... ................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 3
4. Đối tƣợng nghiên cứu .......................................................................................... 3
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 3
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 3
7. Đóng góp của khóa luận ....................................................................................... 4
8. Cấu trúc của khóa luận ......................................................................................... 4
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 5
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................... 5
1.1.Tác giả Nguyễn hành ......................................................................................... 5
1.1.1.Thời đại .......................................................................................................... 5
1.1.2. Cuộc đời và con người ................................................................................... 8
1.2. Sự nghiệp sáng tác .......................................................................................... 13
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................. 14
Chƣơng 2. MINH QUYÊN THI TẬP NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG ....... 15
2.1. Nỗi niềm đau xót trƣớc cuộc sống khốn cùng của nhân dân .............................. 16
2.2. Cuộc sống nghèo khổ, cô đơn của nhà Nho nơi đất khách quê ngƣời ................. 23
2.3. Phẩm chất tốt đẹp của nhà Nho ........................................................................ 35
2.4. Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nƣớc .......................................................... 38
Tiểu kết chƣơng 2. ....................................................................................................... 45
Chƣơng 3. MINH QUYÊN THI TẬP NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ... 46
3.1. Hình tƣợng thơ ............................................................................................. 46
3.2. Ngôn ngữ thơ................................................................................................ 49
3.3.Thể thơ ......................................................................................................... 53
3.4. Giọng điệu ................................................................................................... 54
Tiểu kết chƣơng 3................................................................................................ 56
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Nguyễn Hành (1771 - 1824) là ngƣời hiểu biết rộng, thông minh, có tài
văn chƣơng, ông đƣợc ngƣời đời tôn vinh là một trong “An Nam ngũ tuyệt”.
Sự nghiệp của ông để lại bao gồm hai tập thơ chữ Hán là Quan Đông hải
(Trông bể Đông) và Minh quyên thi tập (Tiếng kêu của chim quyên). Trong
đó tập thơ Minh quyên thi tập là tập thơ chứa nhiều nội dung tƣ tƣởng và nghệ
thuật đặc sắc hơn. Nguyễn Hành sống vào nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế
kỷ XIX, đây là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động. Đó là tan hoang, sụp đổ
liên tiếp của hai triều đại, nội chiến xảy ra triền miên, và bùng lên mạnh mẽ
hơn bao giờ hết. Hàng loạt các Nho sĩ – trí thức hoặc mỗi ngƣời thờ một chúa,
hoặc băn khoăn trƣớc thời cuộc, nhân dân lâm vào khốn cùng, cảnh lƣu lạc,
chia ly... Có thể nói, Nguyễn Hành là nhà thơ suốt đời sống cuộc sống đói
nghèo ở quê nhà, hoặc lƣu lạc ở Thăng Long; cho nên ta thấy những bài thơ
hay nhất, có giá trị nhất là những bài ông nói tới hiện thực xã hội. Hiện thực
xã hội qua cái nhìn của nhà thơ hiện lên rất chân thực, đó là cuộc sống nghèo
khổ, đói kém, bệnh dịch tràn lan, vì thế mà dân chúng phải ly tán, phiêu bạt
khắp nơi. Thơ ông thể hiện sự phê phán, tố cáo hiện thực đƣơng thời một cách
sắc nét, chân thực.
Do nhiều yếu tố khách quan nên sự nghiệp văn thơ của ông vẫn chƣa đƣợc
quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống. Tuy không đƣợc giảng dạy trong
chƣơng trình phổ thông, nhƣng Nguyễn Hành cũng là một trong những tác giả
đƣợc nhắc đến rất nhiều ở giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX.
Vì vậy, tìm hiểu Giá trị nội dung và nghệ thuật của Minh quyên thi tập sẽ
giúp chúng ta hiểu rõ hơn gƣơng mặt của một trong những Ngũ tuyệt xứ An
Nam. Đồng thời tập thơ còn cho ta những hiểu biết chân thực về tâm sự, về
cuộc đời của Nguyễn Hành và cả về thời đại ông sống.
1
2. Lịch sử vấn đề
Năm 1984, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc, trong bộ “Từ điển văn học” (nhà
xuất bản Khoa học Xã hội), đề cập đến Nguyễn Hành với những chi tiết khá
đầy đủ về cuộc đời, sự nghiệp và tƣ tƣởng của ông.
Cuốn “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”, in lần thứ tƣ (1997), Nguyễn
Thắng, Nguyễn Bá Thế, NXB Văn hóa (Hà Nội), (tr.553), đề cập một cách
giản lƣợc nhất về thân thế, cuộc đời của Nguyễn Hành.
Năm 1999, “Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ thứ XVIII, nửa đầu thế kỷ
XIX”, Đặng Lê Thanh, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận, có điểm qua vài nét về
Nguyễn Hành và thơ văn của ông.
Năm 2009, cuốn “Từ điển nhân vật xứ Nghệ”, nhà xuất bản Tổng hợp
TP.HCM, Ninh Viết Giao giới thiệu về Nguyễn Hành và các tác phẩm.
Tác giả Phạm Nhật Khang (2012), Tìm hiểu Minh quyên thi tập của
Nguyễn Hành – một trong “An Nam ngũ tuyệt”, Khóa luận tốt nghiệp,
Trƣờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuốn tuyển Thơ Nguyễn Hành do tác giả Mai Quốc Liên chủ biên (2015),
nhận xét về lời Tựa của Minh quyên thi tập tác giả có viết: “Kêu thương ai
oán đó trong thơ Nguyễn Hành, bây giờ ta đã hiểu nguyên do. Một là, do
“thời buổi suy loạn, dân đen ly tán oán hận...”, hai là, ông đau đớn nhớ tiếc
triều Lê cũ, triều mà ông cha ông vô cùng gắn bó và hiển quý. Chuyện “đời
suy loạn”, “dân đen ly tán oán hận” là chuyện của chính cuộc đời Nguyễn
Hành. Xuất thân từ hào môn vọng tộc triểu Lê – Trịnh, Lê – Trịnh đổ xuống
làm “bách tính”, ăn nhờ, ở đậu, sống tha phương. Con đông không kế sinh
nhai “thuở trước là công tử giàu sang, hôm nay là gã học trò già nua”[9,tr8].
Có thể nói, tác giả bài viết đã khái quát những nội dung chính Minh quyên thi
tập. Đó là thời đại đầy biến động, loạn lạc, dân đen ly tán tha phƣơng lánh
nạn; và còn là sự đau đớn nhớ tiếc triều Lê cũ của Nguyễn Hành.
2
Ngoài ra, còn có bài viết của tác giả Nguyễn Thị Huấn (2017), Cảm hứng
thế sự trong thơ Nguyễn Hành, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà
Nội.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đã mang đến
những nhận định khái quát về Nguyễn Hành – một nhà Nho yêu nƣớc, thƣơng
dân, có nhân cách cao đẹp, bản lĩnh hơn ngƣời, luôn khao khát đƣợc giúp
nhân dân, lo đƣợc cho nhân dân qua cơn đói nghèo, khốn khổ, bệnh tật.
Trên tinh thần tiếp thu và kế thừa những công trình nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu đi trƣớc, đồng thời dựa vào nền văn hóa tƣ tƣởng đƣơng thời;
chúng tôi mong muốn đƣa ra những phát hiện thuyết phục và góp phần nghiên
cứu Minh quyên thi tập đầy đủ và sâu sắc hơn.
3.Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ vị trí văn học sử và những đóng góp của thơ ca Nguyễn Hành.
- Dựng lại chân dung tinh thần, cũng nhƣ con đƣờng đời của Nguyễn
Hành, cùng những vấn đề nhân sinh trong thời đại ông sống.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu chính của khóa luận là tuyển Thơ Nguyễn
Hành.gồm 222 bài thơ, do Mai Quốc Liên chủ biên dịch, Nguyễn Thị Hằng
biên khảo, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Nxb. Văn học ấn hành năm 2015.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Minh quyên thi tập của
Nguyễn Hành, chúng tôi chỉ khảo sát nội dung tiêu biểu và nghệ thuật đặc sắc
trong Minh quyên thi tập của Nguyễn Hành..
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã thực hiện các phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp phân tích
- Phƣơng pháp lịch sử - xã hội.
3
- Phƣơng pháp tiểu sử học sử .
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phƣơng pháp, kỹ năng khác để
hỗ trợ cho quá trình thực hiện đề tài khóa luận: Phƣơng pháp so sánh, đối
chiếu, giải thích, kỹ năng đọc – hiểu – cảm nhận... Chúng tôi vận dụng phối
hợp tất cả các phƣơng pháp để đạt hiểu quả cao nhất trong khóa luận.
7. Đóng góp của khóa luận
- Trên cơ sở nghiên cứu khuynh hƣớng thơ hiện thực, khóa luận làm
sáng tỏ những đặc điểm nổi bật về giá trị nội dung và nghệ thuật trong Minh
quyên thi tập của Nguyễn Hành.
- Qua so sánh đối chiếu với một số sáng tác cùng thời, khóa luận góp
phần dựng lại diện mạo độc đáo, riêng biệt của Nguyễn Hành và khẳng định
vị trí văn học sử quan trọng của tác giả.
- Cuối cùng, khóa luận góp thêm một góc nhìn để hiểu sâu hơn về thơ
trung đại Việt Nam nói chung, tập thơ Minh quyên thi tập nói riêng trong thơ trung đại.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Những vấn đề chung
- Chƣơng 2: Minh quyên thi tập nhìn từ phƣơng diện nội dung
- Chƣơng 3: Minh quyên thi tập nhìn từ phƣơng diện nghệ thuật
4
NỘI DUNG
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.Tác giả Nguyễn Hành
1.1.1.Thời đại
Về mặt lý luận văn học cho thấy, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
một tác giả luôn có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau. Có thể nói,
cuộc đời chính là nền tảng cho sự nghiệp sáng tác. Không chỉ vậy, ta thấy lịch
sử khoa học không những nghiên cứu ngôn ngữ trong từng giai đoạn, mà còn
cung cấp cho ngƣời đọc những đóng góp quan trọng về phƣơng diện cuộc đời
cũng nhƣ sự nghiệp sáng tác của một tác gia trong thời đại. Đi cùng lịc sử, tác
phẩm văn chƣơng luôn chịu sự chọn lọc, thử thách khắc nghiệt của thời gian;
vì thế nhiều tác phẩm rơi vào quên lãng. Dƣờng nhƣ ngƣợc với quy luật ấy,
đã có những tác giả và tác phẩm lại không ngừng đƣợc bàn luận qua các thời
kì lịch sử. Chính bởi cuộc đời, tác phẩm của họ mang nhiều tâm tƣ sâu sắc,
đồng thời quy tụ đƣợc nhiều vấn đề xã hội. Có thể khẳng định rằng, tác giả
Nguyễn Hành cùng các tác phẩm của ông là một minh chứng điển hình cho
việc tái hiện chân thực bức tranh hiện thực xã hội đƣơng thời.
Thời đại theo nghĩa rộng, thời đại là một khái niệm chính trị – kinh tế
– xã hội khái quát tiến trình phát triển của lịch sử loài ngƣời, là thời gian rất
dài để chỉ sự phân kỳ lịch sử xã hội và để phân biệt những nấc thang phát
triển của hình thái kinh tế xã hội mà theo đó nấc thang cao hơn, tiến bộ hơn sẽ
phủ định nấc thang cũ, lạc hậu để mở đƣờng cho sự phát triển một thời đại
mới. Theo nghĩa hẹp thì thời đại đƣợc hiểu là khái niệm về thời gian để chỉ xu
thế và nội dung phát triển trên các phƣơng diện kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ
thuật, công nghệ… Có thể nói, thời đại chính là cơ sở, là nền tảng bồi đắp nên
những tâm hồn lớn, những nhà văn, nhà thơ lớn. Mặt khác, nhà văn, nhà thơ
phải biết đời sống xã hội của thời đại, phải cảm nhận đƣợc những nỗi đau đớn
5
của con ngƣời trong thời đại, phải sống, thấu hiểu nhân tình thế thái, hiểu
những thăng trầm lịch sử, những cuộc bể dâu…để thấu cảm và biến nó thành
nguồn cảm hứng trong những đứa con tinh thần của mình.
Nguyễn Hành sinh năm 1771, mất năm 1824. Ông sống vào khoảng
những năm cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là một giai đoạn đầy
những sự biến động đến kinh thiên động địa, có thể nói là bi thƣơng nhất thời
trung đại. Trong cuộc đời mình, Nguyễn Hành lần lƣợt chứng kiến sự khủng
hoảng, sụp đổ và thay thế nhau của ba triều đại: nhà Lê, Tây Sơn, Nguyễn, và
cùng với đó là sự đấu tranh, phân hóa phức tạp của nhiều phe phái, nhiều xu
thế chính trị khác nhau. Có thể nói, thời đại của Nguyễn Hành là thời đại chế
độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng, giai cấp thống trị tranh giành quyền
lực gây ra chiến tranh triền miên, kinh tế đình đốn, đời sống nhân dân vô cùng
cực khổ…
Không chỉ vậy, thời đại của Nguyễn Hành còn là thời đại các cuộc khởi
nghĩa của nông dân nở rộ mạnh mẽ nhất. Trƣớc năm 1771, có các cuộc khởi
nghĩa của Nguyễn Danh Phƣơng, Nguyễn Tuyển, Lê Duy Mật, Nguyễn Hữu
Cầu, Nguyễn Cừ, Hoàng Công Chất. Nhƣng đỉnh cao của phong trào khởi
nghĩa của nông dân là phong trào Tây Sơn. Đến năm 1771, Nguyễn Nhạc
khởi binh ở đất Quy Nhơn, Bình Định, sau đó mở rộng thế lực ra các tỉnh
Quảng Ngãi. Một năm sau, năm 1776, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đánh chiếm
Gia Định, chúa Nguyễn phải bỏ chạy. Sau đó năm 1786, Nguyễn Huệ kéo
quân ra Thăng Long, phù Lê, diệt Trịnh. Năm 1787, nhà Tây Sơn lại cho quân
ra Bắc Hà, diệt Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền. Năm 1788, Nguyễn Huệ
lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, đồng thời thống lĩnh đại
binh đánh tan quân Thanh. Năm 1792, Nguyễn Huệ mất, phong trào Tây Sơn
cũng từ đấy tan rã…
6
Thời đại của Nguyễn Hành còn là thời đại mà ngƣời dân bị rơi vào
cảnh khốn khổ đến cùng cực bị dồn vào đƣờng cùng, những gia đình ly tán,
phiêu bạt khắp trốn, hạn hán mất mùa, bệnh dịch tràn lan, nạn đói, ngƣời chết
khắp nơi. Những biến động vừa phức tạp ấy là chất liệu quý giá cho những
sáng tác hiện thực của Nguyễn Hành sau này. Những biến cố thời đại đã gây
cho ông sự khủng hoảng và đổ vỡ lớn lao. Nói chung, Nguyễn Hành là nhân
chứng của cuộc biến thiên lịch sử, cho nên ông đã phơi bày tất cả hiện trạng
ấy rất phong phú, với muôn mặt của nó. Đọc thơ Nguyễn Hành chúng ta sẽ
thấy ông ghi lại chân thực cảnh đời biến loạn thời bấy giờ.
Hơn nữa, ở thời bấy giờ, bên cạnh tình hình xã hội rối ren còn có sự
đan xen nhiều luồng tƣ tƣởng lớn, nó đã có ảnh hƣởng không nhỏ tới thế giới
quan cũng nhƣ tƣ tƣởng của nhà thơ. Đạo Nho lúc ấy đã khủng hoảng nghiêm
trọng, bộc lộ những mặt hạn chế trƣớc lịch sử. Cùng với đó, đạo Phật và đạo
Lão hồi sinh, hòa đồng cùng đạo Nho trong một màu sắc mới, cũng phần nào
tìm đƣợc tiếng nói xoa dịu nỗi đau trong lòng con ngƣời. Đây cũng chính là lý
do nhiều bài thơ của Nguyễn Hành có nhắc đến các điển tích, hình ảnh đặc
trƣng của Đạo giáo, Phật giáo. Đó là sự trỗi dậy mạnh mẽ của tƣ tƣởng nhân
văn, nhân đạo chủ nghĩa, mà gắn liền với nó là thể hiện sự quan tâm đến thân
phận con ngƣời; đặc biệt là ngƣời phụ nữ, với yêu cầu khẳng định quyền đƣợc
sống, quyền đƣợc hạnh phúc thật chính đáng. Bấy nhiêu luồng tƣ tƣởng ảnh
hƣởng, chuyển hóa lẫn nhau và tạo nên những xáo trộn, cùng những biểu hiện
vừa tích cực, vừa tiêu cực đối với thế giới quan cũng nhƣ cảm hứng chủ đạo
trong sáng tác của Nguyễn Hành.
Cũng bởi sống trong thời đại đầy biến loạn nhƣ thế đã ảnh hƣởng rất
lớn đến sáng tác của Nguyễn Hành. Điều này đƣợc thể hiện qua những bài thơ
hiện thực đầy ám ảnh của ông. Đồng thời đây cũng là điều kiện để Nguyễn
7
Hành hiểu, thấm thía đời sống của những ngƣời dân cùng khổ khác, mà hơn
nữa bản thân ông cũng là một trong những ngƣời dân cùng đƣờng, khốn khổ ấy.
1.1.2. Cuộc đời và con người
1.1.2.1. Cuộc đời
Nguyễn Hành (1771 - 1824) vốn tên là Viêm, Đạm, tự Tử Kính, hiệu
Nam Thúc, biệt hiệu Ngọ Nam, Nam Song và Tâm Trai. Ông là ngƣời làng
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay là tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn
Hành thuộc dòng dõi quý tộc phong kiến. Ông là con vợ thứ của Điền Nhạc
hầu Nguyễn Điều (1745-1824), là cháu nội Xuân quận công Nguyễn Nghiễm,
gọi Nguyễn Du là chú ruột. Nguyễn Nghiễm (1708-1776) thuộc đời thứ 6
trong dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền, đời thứ 15 của họ Nguyễn; là con thứ hai
của Lãnh Nam công Nguyễn Quỳnh - đỗ Hoàng giáp, làm Thị lang bộ Hình,
Tham tụng rồi Thƣợng thƣ bộ Công, Thƣợng thƣ bộ Hộ. Các đời trƣớc
Nguyễn Nghiễm, trong họ Nguyễn đều có rất nhiều ngƣời giỏi văn chƣơng,
đỗ đạt cao và làm quan to dƣới triều Lê Trung Hƣng và trong phủ Chúa Trịnh.
Thân phụ Nguyễn Hành cũng đỗ tam trƣờng, làm Thị nội văn chức rồi Trấn
thủ Hƣng Hóa, Trấn thủ Tuyên Quang, Trấn thủ Sơn Tây. Mẹ của Nguyễn
Hành là vợ kế của Nguyễn Điều, họ Nguyễn, con thứ tƣ của Thiếu Bảo Đạt
Vũ Hầu, quê ở xứ Kinh Bắc. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền trong mục ghi về
Nguyễn Nghiễm có viết, Nguyễn Hành “được tập ấm chức Hiển cung đại
phu, Phó Trung úy, tước Hành nhặc bá. Ông là người thông minh, nhớ lâu,
hiểu rộng, đọc nhiều sách. Ông được xếp thứ hai cùng với chú là Thanh Hiên
công trong An Nam ngũ tuyệt…” [10,tr79]. Cũng trong Gia phả họ Nguyễn
Tiên Điền, khi nói về Nguyễn Du, có đoạn viết: “Nguyễn Du là người học
rộng, nhớ lâu, có tài làm thơ. Trong năm nhà thơ giỏi nhất An Nam “An Nam
ngũ tuyệt” thì ông và người cháu ruột là Nam Thúc (tức Nguyễn Hành) chiếm
hai tên.” [10,tr96].
8
Năm 1780, Nguyễn Khản - con trai trƣởng của Nguyễn Nghiễm bị
buộc tội liên quan đến “vụ án Canh Tý”. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền còn
ghi lại, Tuyên phi Đặng Thị Huệ và A Bảo Huy quận công kết bè lập con của
Đặng Thị Huệ là Trịnh Cán làm thế tử. Cũng trong năm đó, Nguyễn Nghiễm
bị vu tham gia lập mƣu phế Trịnh Cán, giúp Trịnh Khải (Trịnh Tông) làm thế
tử, Trịnh Vƣơng xuống chỉ cho gọi Nguyễn Khản về kinh đô, bắt giam.
Những ngƣời phạm vào âm mƣu này đều bị xử tội chết, riêng Nguyễn Khản
do niệm tình có công giảng dạy mình nên Trịnh Vƣơng cho đƣợc miễn tội
chết, và ông chỉ bị cách chức. Nguyễn Điều (thân phụ của Nguyễn Hành), là
con thứ hai của Nguyễn Nghiễm. Trong “vụ án Canh Tý”, Nguyễn Điều bị
giáng chức làm Thắng trung trong đội thuyền.
Đến năm 1784, Nguyễn Điều làm Trấn Thủ Sơn Tây, gặp loạn kiêu
binh đốt phá dinh thự quan lại Bộ Thƣợng thƣ Nguyễn Khản. Nguyễn Khản
trốn lên Sơn Tây toan cùng em hợp binh các trấn về giết kiêu binh, nhƣng
kiêu binh giữ chặt chúa Trịnh nên không làm gì đƣợc, kiêu binh làm áp lực
bãi chức Thƣợng thƣ bộ Lại Nguyễn Khản, Nguyễn Điều bị giáng chức về
huyện Thanh Chƣơng, Hà Tĩnh. Ông sống cùng con cháu tại đây. Năm 1786,
nhà Trịnh sụp đổ Nguyễn Điều ôm chí uất ức mà mất, lúc đó Nguyễn Hành
chỉ mới 15 tuổi.
Thuở nhỏ, Nguyễn Hành học ở Thăng Long, là ngƣời thông minh, hiểu
biết rộng, có tài thơ văn hay. Nguyễn Hành có tham vọng nối dõi truyền
thống thế gia nhƣng khi đến tuổi trƣởng thành, do nhiều biến thiên dữ dội của
thời Lê mạt - Nguyễn sơ nên ông không có dịp thi thố sở học và tài năng của
mình. Hơn nữa, họ Nguyễn Tiên Điền đến thời thân phụ ông bắt đầu sa sút,
thất thế, và bị phân tán trƣớc cơn lốc của lịch sử. Nhà nho tài hoa Nguyễn
Hành cũng từng bị dèm pha nguy hiểm đến tính mạng, phải rời vợ con, nhà
cửa, lƣu lạc nơi đất khách, sống cuộc đời cực khổ...
9
Viết lời dẫn cho bài Hỉ nhị nữ lai tự Vĩnh Lại, Nguyễn Hành tâm sự:
“tôi gặp chuyện bóng gió, hoảng sợ phải bỏ trốn để tìm đường sống, từ nhà
người em ở đồn Ngãi Am dắt díu nhau vào thành, gửi lại hai con gái ở đó,
tình cảnh thật không thể dung thân, sau nhờ ông bà ở am sau thương xót mà
chăm sóc chúng”.
Cuộc đời Nguyễn Hành phiêu bạt nay đây mai đó, không thi cử, và
cũng không cộng tác với nhà Tây Sơn lẫn nhà Nguyễn. Thời gian từ năm
1794 đến năm 1796, Nguyễn Du ở Tiên Điền để xây dựng lại từ đƣờng, đình
chùa cùng Nguyễn Ức, thì Nguyễn Hành đã có mặt ở Tiên Điền và làm thơ tả
việc chú đi săn. Chính Nguyễn Hành là ngƣời tự tay đề các câu đối trong đền
thờ Điền Nhạc Hầu Nguyễn Điều. Năm 1804, khi vợ Nguyễn Du mất Nguyễn
Hành cũng có ở Tiên Điền. Một năm sau, ông đƣợc phong chức Đông Các
Học Sĩ triệu vào kinh đô Phú Xuân. Với chức vụ Đông Các Học Sĩ, ông luôn
bên cạnh vua Gia Long, và hàng ngày dâng sách cho vua đọc, giảng cho vua nghe.
Đến năm 1820, khi nghe tin chú Nguyễn Du mất tại Phú Xuân,
Nguyễn Hành đã làm thơ bày tỏ niềm tiếc thƣơng ngƣời chú đã khuất. Bốn
năm sau khi Nguyễn Du qua đời. Năm 1824, Nguyễn Hành ở Thăng Long
trong nghèo khó. Nguyễn Hành luôn tuân theo quan điểm chính thống đó là
“Trung hiếu chi gia ninh sự nhị?” (Dòng dõi trung hiếu sao lại thờ hai
vua?).Nguyễn Hành gọi Nguyễn Hữu Chỉnh, quân Tây Sơn là giặc, gọi nhà
Lê là “quân ta”. Hơn nữa, ông không chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng của hai ông
chú ruột của mình là Nguyễn Nễ hay Nguyễn Du. Khi Tây Sơn thống nhất
Nam Bắc, và thiết lập triều đại, ông lẩn tránh, không ứng chiếu cầu hiền. Sau
đó, Nguyễn Gia Long lên ngôi, xuống chiếu lục dụng, ông cũng không hƣởng
ứng. Ông sống lƣu lạc ở Thăng Long cam chịu cảnh cơ cực, bần hàn. Nguyễn
Hành không an bần lạc đạo, mặc dù thơ ông thƣờng nhắc đến mẫu hình Trang
10
Tử. Dù trải qua đói nghèo, tủi nhục, thiếu thốn đủ đƣờng, nhƣng lòng ông
luôn hoài tƣởng về triều Lê…
Nguyễn Hành đã trải qua biết bao nhiêu sóng gió của cuộc đời. Đó là
cái nghèo, cái đói, bệnh tật tràn lan, sự ly tán, tha hƣơng cầu thực khắp nơi.
Cuộc sống của Nguyễn Hành gian nan, khốn khổ; cho nên ông có điều kiện
đƣợc sống, đƣợc tiếp xúc, đƣợc trải nghiệm nhiều việc đời. Đồng thời, ông
cũng đƣợc tận mắt chứng kiến nhiều cảnh đời, cảnh sống cơ cực, sống ly tán,
phiêu bạt của nhân dân, và chịu ơn giúp đỡ của nhiều ngƣời dân... Cho nên,
Nguyễn Hành có đƣợc những bài thơ thế sự xúc động đến thế.
1.1.2.2. Con người
Viết về con ngƣời Nguyễn Hành, Nguyễn Ngọc Nhuận trong “Nguyễn
Hành và tập Quan Đông hải”:
“Ông sống trong giai đoạn xã hội đầy ta loạn, cảnh đời đầy sự trớ trêu,
Nguyễn Hành muốn đi tới cũng không được, muốn ở ẩn cũng không xong. Bởi
thế ông đã gửi gắm tâm sự vào những trang thơ, văn và hằng mong người đời
phần nào hiểu, thông cảm với mình. Từ trong tâm thức, Nguyễn Hành khát
khao làm được điều gì có ích cho đời, như ông từng viết câu kết của bài Kê
minh phú(Phú gà gáy): “Phượng hoàng cao bay, hạc đỗ nơi xa thắm, đàn sắt
đàn cầm, tiếng chuông tiếng trống, vui mà không dâm. Thức tỉnh người đời,
răn đe thói tục, trọng ở tiếng vang dài. Ta nghĩ người xưa, thực thấy thoải
mái trong lòng”. Đó cũng là khát vọng của kẻ sĩ xưa nay.” [14,tr54 ]
Cũng đã hơn một lần chính Nguyễn Hành cũng từng tâm sự rằng:
“(...) suốt ngày cặm cụi, nửa đêm chưa đi nằm, bụng nghĩ mắt nhìn,
miệng đọc tay chép, nhặt những câu văn vẻ rườm rà, nhai những vị thừa cặn
bã, momg những bắt chước cái hay của người xưa mà để tiếng thơm tho hậu
thế, thật là khó quá. Tính theo với số, học chẳng hợp thời, thui thủi lạnh lùng,
11
rốt cuộc không đi đến đâu cả, đói chẳng buồn ăn, rét chẳng sắm áo, ngồi đó
mà chịu khó khăn, hơi một tý là phỉ báng(...).” [ 15,tr423-431]
Nguyễn Hành tự nhận mình là một kẻ sĩ không hợp thời, nhƣng chính
bản thân ông cũng chƣa bao giờ xao lãng một phút giây nào vì cái “không
hợp thời” ấy.
“Thiếu tráng năng kỉ hà,
Tha đà niên ngũ thập.
Đa gian cải phát mao,
Hữu cảm tồn thi tập.
Bất ƣu thân dĩ lão,
Đản khủng danh nan lập.
Nhất thử bất giải tâm,
Hành hành do khả cập.”
.(Ngũ thập tuế nguyên nhật thƣ hoài – kỳ nhị)
(Tuổi trẻ được bao ngày,
Lần lữa ngày qua, tuổi đã năm mươi.
Nhiều gian nan nên mái tóc đã đổi màu,
Có niềm cảm xúc nhờ tập thơ lưu lại.
Chẳng lo thân đã già,
Chỉ e danh khó lập.
Vậy mà lòng chẳng biếng nhác,
Hãy cứ làm chắc vẫn còn kịp”
(Ngày đầu năm năm mươi tuổi
viết hai bài thơ tả nỗi lòng – Bài 2)
Nguyễn Hành cho rằng “ngốc nghếch” là vì ngay cả chính bản thân họ
cũng thừa hiểu sự “lỗi thời” và đƣơng nhiên là “vô ích” của những cố gắng,
12
nỗ lực của bản thân, nhƣng “chỉ nói nghĩa thôi! Việc chi phải nói tới lợi?”.
Đó là ngốc nghếch một cách đáng ngƣỡng mộ.
Tất cả những điều mà chúng ta biết ở Nguyễn Hành, đó là một Nho sĩ
khảng khái, cƣơng trực, và chắc chắn không bao giờ quên đƣợc những ám
ảnh, những đắng cay của cuộc biến động lịch sử đến kinh thiên động địa ấy.
Đó còn là sự đối lập mạnh mẽ giữa cuộc sống quá khứ và hiện tại cộng với
những ẩn ức về sự suy tàn dòng họ: đó là những Nguyễn Nghiễm, Nguyễn
Khản, Nguyễn Điều. Tất cả những con ngƣời ấy đều có vai trò là rƣờng cột
của đất nƣớc, nhƣng thay vì đƣợc kế thừa bởi một rƣờng cột khác, thì lại trở
thành một khách lữ thứ “cầm áo đổi gạo”.
1.2. Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Hành đƣợc đƣơng thời tôn vinh là một trong “An Nam ngũ
tuyệt”. Theo các tài liệu ghi chép lại sự nghiệp văn thơ của Nguyễn Hành bao
gồm ba tập thơ chữ Hán là Quan Đông hải (Trông bể Đông), Minh quyên thi
tập (Tiếng kêu của chim quyên); và Thiên địa nhân vật sự ký (thuộc thế loại
văn, triết). Trong đó, tập thơ Thiên địa nhân vật sự ký hiện đang thất lạc.
Cuốn Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền có ghi sự nghiệp của Nguyễn Hành nhƣ sau:
tác phẩm “có Quan hải tập, Minh quyên tập, Thiên địa nhân vật thư” [10,tr79].
Nội dung của tập thơ Minh quyên thi tập rất phong phú, đa dạng. Trƣớc
hết đó là tƣ tƣởng hoài Lê, buồn đau về thời thế suy vi. Giới nghiên cứu văn
học bấy lâu nay đánh giá tƣ tƣởng chính trị của Nguyễn Hành là bảo thủ. Nói
vậy cũng vì ông chọn chỗ đứng của mình là chống Tây Sơn. Đây chính là hạn
chế của Nguyễn Hành. Có thể nói, nội dung bao trùm, và lớn nhất của tập thơ
của Nguyễn Hành là những tâm sự về cuộc sống bần hàn nơi đất khách,
những suy ngẫm về đời suy loạn, dân đen ly tán, chịu nhiều khổ cực (bệnh
dịch lan tràn, đói rét…). Hình ảnh nổi bật trong Minh quyên thi tập là một nhà
thơ sống trong dân, gần dân, thƣơng dân, đƣợc ngƣời dân thƣơng quý, sẵn
13
sàng giúp đỡ. Ngôn ngữ tập thơ tự nhiên, mộc mạc , giản dị; thi cảm đôn hậu,
chân thành và giọng thơ chủ đạo là đau đớn, xót thƣơng. Trong lời Tựa của
tập thơ, Nguyễn Hành viết: “tiếng kêu nghe đau thương thảm thiết không gì
bằng tiếng kêu của chim đỗ quyên. Đỗ quyên là loài chim phương Nam, kêu
về mùa hạ, ngày đêm không ngừng… Tiếng thơ trong tập thơ này, ngẫu nhiên
mà giống thế, nên nhân đó đặt tên.” [9, tr7]
Quan Đông hải cũng là một tập thơ giá trị, bên cạnh thơ còn có những
bài tựa nhƣ: Lạc sinh tâm đắc tập tự, Vô ẩn lục tự... Những bài ký nhƣ: Nam
song ký, Đồng xuân ngẫu ký... Những bài bạt nhƣ: Nghệ An phong thổ ký bạt
,Đẩu số thư bạt... hay những bài phú nhƣ: Đạo ngộ Bái công phú, Loạn thế
độc thư cao phú... Nội dung chính của Quan Đông hải là ca ngợi những tấm
gƣơng trung hiếu nghĩa liệt, bộc lộ nỗi niềm thƣơng nhớ quê hƣơng, gia đình
và cảnh ngộ cô đơn, lẻ loi của ngƣời lữ khách; đồng thời khẳng định giữ vững
chí khí, hoài bão trong mọi hoàn cảnh, và thể hiện sự chiêm nghiệm về quy
luật của cuộc sống (sự vận động không ngừng của muôn vật; mối quan hệ
giữa dân và nƣớc). Ngoài ra, tập thơ còn “thức tỉnh ngƣời đời, răn đe thói
tục”… Nhìn chung tƣ tƣởng của Quan Đông hải khá nhất quán với Minh
quyên thi tập.
Tiểu kết chƣơng 1
Nguyễn Hành là một đại diện tiêu biểu của thơ trung đại cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX. Thơ ca Nguyễn Hành phản ánh những biến cố lớn về
xã hội, văn hóa của thời đại; là cuộc đời lƣu lạc khốn khó của nhà thơ, đặc
biệt là sự phát triển nội tại của văn học từ tƣ duy nghệ thuật, bút pháp, ngôn ngữ đến
thể loại và truyền thống văn chƣơng gắn bó với cái hàng ngày, cái đời thƣờng…
14
- Xem thêm -