Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn giải quyết tranh chấp đất đai theo pháp luật đất đai ở việt nam từ thực...

Tài liệu Luận văn giải quyết tranh chấp đất đai theo pháp luật đất đai ở việt nam từ thực tiễn huyện vân đồn, tỉnh quảng ninh

.PDF
89
189
56

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ bất cứ luận văn của một học vị nào. Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan trên. Hà Nội, ngày tháng 6 năm 2019 Tác giả MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI .......................................................................................................... 7 1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai ..................... 7 1.2. Lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai .................................. 16 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH .................................................................................... 28 2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ............................. 28 2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ................................................................................................................. 35 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH .............................................................................................................. 60 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ......................................................................................................................... 60 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh .......................... 63 KẾT LUẬN .................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Công tác GQTCĐĐ của UBND huyện và UBND các xã thị trấn trên địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh .................................... 37 Bảng 2.2. Công tác GQTCĐĐ thông qua TAND huyện Vân Đồn, Quảng Ninh .......................................................................................... 41 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất GQTCĐĐ Giải quyết tranh chấp đất đai HĐND Hội đồng nhân dân TAND Tòa án nhân dân TCĐĐ Tranh chấp đất đai UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tranh chấp đất đai (TCĐĐ) là một hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội, ở mọi quốc gia và mọi thời kỳ, không phụ thuộc vào chế độ sở hữu đất đai. Ở Việt Nam, sự kiện Bộ Tài nguyên - Môi trường từng đề xuất thành lập một cơ quan tài phán chuyên trách để giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai đã phần nào cho thấy tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, mà một trong số đó chính là do quy định của pháp luật về vấn đề TCĐĐ trong thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế. Trong thời gian vừa qua, Nhà nước ta đã cố gắng trong việc giải quyết các TCĐĐ nhằm ổn định tình hình chính trị - xã hội. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đất đai ngày càng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, trong đó có quy định thẩm quyền GQTCĐĐ thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân (UBND) và Tòa án nhân dân (TAND). Tuy nhiên, các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai (GQTCĐĐ) mới chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, nên thực tiễn dẫn đến sự chồng chéo, đùn đẩy giữa UBND và TAND. Do đó tình hình GQTCĐĐ của các cơ quan hành chính và TAND trong những năm qua vừa chậm trễ, vừa không thống nhất. Qua nghiên cứu thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự hiện nay, việc GQTCĐĐ được các chủ thể liên quan đánh giá là dạng tranh chấp khó khăn, phức tạp nhất, có liên quan đến nhiều vấn đề nhất. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về đất đai, thẩm quyền GQTCĐĐ của các cơ quan có thẩm quyền (qua thực tiễn tại huyện Vân Đồn) trong những năm gần đây, trên cơ sở đó nhằm đề xuất những kiến nghị, bổ sung chính sách, pháp luật về đất đai và đưa ra hướng giải quyết các TCĐĐ một cách hợp lý, có hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân là việc làm có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay. 1 Với nhận thức như vậy, tôi đã lựa chọn đềtài:“Giải quyết tranh chấp đất đai theo pháp luật đất đai ở Việt Nam từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xoay quanh chủ đề giải quyết tranh chấp đất đai theo pháp luật Việt Nam,trong quá trình nghiên cứu tác giả đã tìm thấy nhiều công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan, với nhiều cách viết và tiếp cận khác nhau, trong đó có các công trình sau đây: Luận văn Tiến sĩ Luật học, “TCĐĐ và GQTCĐĐ bằng tòa án ở nước ta” của tác giả Mai Thị Tú Oanh, được thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2013 đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về TCĐĐ và GQTCĐĐ thông qua tòa án, trên cơ sở phân tích và làm rõ những vấn đề nghiên cứu của thực trạng, đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về GQTCĐĐ ở Việt Nam trong giai đoạn 05 năm tiếp theo [25]. Luận văn Thạc sĩ Luật học, “GQTCĐĐ theo thủ tục hành chính trong vùng đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang” của tác giảNguyễn Thành Đoàn, được thực hiện tại Trường Đại học Luật TP.HCM năm 2009, tác giả đã trình bày được Cơ sở lí luận và pháp lí GQTCĐĐ theo thủ tục hành chính. Thực trạng giải quyết ranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính đối với đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang và một số giải pháp nâng cao hiệu quả. Đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp đối với đồng bào dân tộc, góp phần đảm bảo an ninh chính trị và phục vụ yêu cấu phát triển kinh tế xã hội [9]. Ngoài ra tác giả còn tìm thấy một số bài viết đăng trên tạp chí khoa học có liên quan đến đề tài như: 2 Đỗ Thị Hằng, Những bất cập về hòa giải cơ sở trong GQTCĐĐ theo Luật đất đai 2013, Thanh tra, Thanh tra chính phủ số 05/2016, tr. 20-236. Nguyễn Vinh Diện, Một số điểm mới về GQTCĐĐ theo Luật đất đai năm 2013, Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 11(272), tr. 37-398. Đặng Thị Phượng, Thẩm quyền GQTCĐĐ của Tòa án theo Luật Đất năm 2013, TAND, TAND tối cao, số 6/2014 trang 11-1611. Qua nghiên cứu các công trình đã thực hiện trước đây liên quan đến GQTCĐĐ, học viên nhận thấy, những kết quả nghiên cứu của các công trình này đã giúp cho tác giả thu thập có được thông tin đa dạng với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về GQTCĐĐ của các cấp có thẩm quyền. Đây là những tài liệu bổ ích để học viên tham khảo để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về GQTCĐĐ, đánh giá thực trạng GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đất đai và cơ chế áp dụng pháp luật để giải quyết có hiệu quả hơn các vụ TCĐĐ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn (thông qua nghiên cứu tình hình tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh), từ đó, đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về GQTCĐĐ và nâng cao hiệu quả GQTCĐĐ. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài luận văn đưa ra những nhiệm vụ nghiên cứu cần thực hiện cụ thể sau đây: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật GQTCĐĐ tham chiếu với hoạt động GQTCĐĐ của các cơ quan hành chính và hoạt động xét xử của TAND thông qua việc giải quyết những vấn đề cụ thể sau: Phân tích khái 3 niệm và đặc điểm của TCĐĐ; các dạng TCĐĐ; nguyên nhân của TCĐĐ.Phân tích khái niệm GQTCĐĐ và pháp luật GQTCĐĐ; ý nghĩa của quan hệ pháp luật vềGQTCĐĐ; các nguyên tắc GQTCĐĐ; cơ cấunội dung pháp luật về GQTCĐĐ, các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật GQTCĐĐ. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về GQTCĐĐ và thực tiễn thực hiện của cơ quan quản lý hành chính và tại TAND huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. - Đề xuất và nghiên cứu định hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về GQTCĐĐ và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam về GQTCĐĐ và kết quả thực hiện pháp luật về GQTCĐĐ thông qua cơ quan hành chính và TAND huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Việc GQTCĐĐ ở huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh hiện nay, tùy theo loại vụ việc, thuộc thẩm quyền giải quyết tại cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp giải quyết. Khi khảo sát thực tiễn tổ chức thực hiện và thực tiễn vụ việc, luận văn chỉ phân tích thực tiễn và các vụ việc TCĐĐ được giải quyết tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Các thông tin, số liệu thu thập trong luận văn là những thông tin, số liệu từ khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực (năm 2014) đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, trong quá trình nghiên cứu, phân tích và làm rõ các nhiệm vụ, luận văn đã vận dụng hợp lýcơ sở lý luận của các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: 4 - Phương pháp luận nghiên cứu khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lê nin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là cơ sở để tiến hành nghiên cứu lý luận, phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp phù hợp. - Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: i) Phương pháp phân tích được sử dụng khi nghiên cứu Chương 1. Những vấn đề lý luận pháp luật về GQTCĐĐ ở Việt Nam. ii) Phương pháp diễn giải, phương pháp phân tích kết hợp với luận giải được sử dụng nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành pháp luật về GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; yêu cầu của áp dụng pháp luật về GQTCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND… iii) Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu hệ thống… được sử dụng khi đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. iv) Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp… được sử dụng khi đề cập định hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. v) Phương pháp lập luận logic các luận điểm, luận cứ được sử dụng khi nghiên cứu đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Đề tài nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng về GQTCĐĐ ở huyện Vân Đồn. Trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập, tồn tại của pháp luật đất đai hiện hành về thẩm quyền và thủ tục GQTCĐĐ; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về GQTCĐĐ nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. 5 Các kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn cũng như các giải pháp được đề xuất của đề tài này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo và nghiên cứu luật học tại Việt Nam. Một số kiến nghị được tác giả đề xuất khi làm rõ các nguyên nhân của hạn chế đề tài có giá trị tham khảo đối với cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật về đất đai nói chung, pháp luật về GQTCĐĐ nói riêng ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về GQTCĐĐ và về pháp luật GQTCĐĐ; Chương 2: Thực trạng pháp luật về GQTCĐĐ và thực tiễn thực hiện tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về GQTCĐĐ từ thực tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI 1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân và phân loại các tranh chấp đất đai 1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai Đất đai là một loại tài sản quý giá, một tài nguyên do thiên nhiên ban tặng cho con người. Vì lẽ đó, có thể nói việc hưởng lợi từ đất đai trao cho, đất đai có vị trí là một đối tượng quan trọng trọng bậc nhất của quyền sở hữu. Cũng vì thế mà TCĐĐ đã trở thành một trong những hiện tượng xảy ra trong bất kỳ một quốc gia và ở bất kỳ một thể chế chính trị nào [49, tr.8]. Trong ngôn ngữ thông thường của cuộc sống hàng ngày, tranh chấp được hiểu là sự giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào. TCĐĐ là tranh chấp có đối tượng tranh chấp là đất đai. Nếu coi đối tượng của tranh chấp là đất đai thì TCĐĐ cũng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau [63, tr.512]. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, TCĐĐ là sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc xác định quyền sở hữu, quản lý hoặc quyền sử dụng đất đai. Tranh chấp này có thể được phát sinh trực tiếp hoặc phát sinh một cách gián tiếp trong quá trình các bên tranh chấp quản lý và sử dụng đất đai [23, tr.17]. Nghiên cứu dưới góc độ hẹp hơn thì TCĐĐ được hiểu là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai [23, tr.18]. Trong xã hội tồn tại lợi ích giai cấp đối kháng thì TCĐĐ mang màu sắc chính trị, đất đai luôn là đối tượng tranh chấp giữa giai cấp bóc lột và giai cấp 7 bị bóc lột, việc giải quyết triệt để các TCĐĐ ở các xã hội được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội. Theo quy định mới nhất tại Điều 3, Luật Đất đai năm 2013, khái niệm TCĐĐ đã được kế thừa và phát triển và được hiểu là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai [32]. Từ nội dung khái niệm và các quan điểm về TCĐĐ, chúng ta có thể nhận định rằng khi các bên xảy ra tranh chấp mà không thể cùng nhau tự giải quyết các tranh chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phán xử nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên trong tranh chấp. Trong phạm vi luận văn, tác giả sử dụng khái niệm TCĐĐ của Luật Đất đai năm 2013 [6]. 1.1.1.2. Đặc điểm tranh chấp đất đai Là một dạng đặc biệt và phổ biến của tranh chấp dân sự, TCĐĐ vừa chứa đựng những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, đồng thời lại vừa có những đặc điểm đặc trưng riêng khác với các tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, tranh chấp kinh doanh, thương mại khác... mà những đặc điểm này sẽ giúp các nhà làm luật, nhà nghiên cứu và những người quan tâm có thể dễ dàng hơn trong tiếp cận và tiềm hiểu về TCĐĐ có thể chỉ ra những điểm khác biệt chủ yếu sau đây: Một là, xét về chủ thể tranh chấp, TCĐĐ chỉ xuất hiện giữa các chủ thể có quyền quản lý và quyền sử dụng đất chứ không phải là các chủ thể của của quyền sở hữu đất đai. Bởi lẽ, ở Việt Nam, quyền sở hữu đất thuộc về toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Các chủ thể được Nhà nước giao cho quyền sử dụng đất được xác lập trên cơ sở được nhà nước trao quyền sử dụng đất (thông qua quyết định giao đất, hợp đồng cho thuê đất của Nhà nước hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất đang sử dụng) hoặc được Nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng từ các chủ 8 thể khác theo quy định của pháp luật về đất đai hiện hành. Vì thế, chủ thể của TCĐĐ là người sử dụng đất (các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) tham gia vào tranh chấp đó với tư cách là những người được trao quyền quản lý hoặc trao quyền sử dụng đất [6]. Hai là, so với các loại tranh chấp khác, TCĐĐ có nội dung rất đa dạng và phức tạp. Điều này xuất phát từ việc trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động quản lý và sử dụng đất ngày càng trở nên rất đa dạng, phong phú do đất đai được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử dụng khác nhau [23]. Ba là, khi xảy ra TCĐĐ thì sẽ ảnh hưởng đến các biên liên quan và có thể làm phát sinh những hậu quả xấu về nhiều mặt trong mối quan hệ này như: làm mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai, gây đình trệ sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên tranh chấp mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội. Hơn thế nữa, khi nghiên cứu thực tiễn các vụ án về TCĐĐ, có thể thấy các vấn đề này còn có thể gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội của địa phương, đất nước [23]. Bốn là, TCĐĐ có đối tượng là quyền quản lý và quyền sử dụng đất. đất đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. 1.1.1.3. Nguyên nhân của tranh chấp đất đai (1) Nguyên nhân khách quan Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ chế quản lý làm cho đất đai ngày càng trở nên có giá trị đã tác động đến tâm lý của nhiều người dẫn đến tình trạng tranh chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó đã bán, cho thuê, cho mượn, đã bị tịch thu hoặc giao cho người khác sử dụng hoặc khi thực hiện một số chính sách về đất đai ở các giai đoạn trước đây mà 9 không có các văn bản xác định việc sử dụng đất ổn định của họ. Những tổ chức đó bao chiếm quá nhiều diện tích đất nhưng sử dụng lại kém hiệu quả [49]. Đất nước ta trải qua thời gian chiến tranh kéo dài, gây xáo trộn lớn về nơi cư trú cùng với những chính sách đất đai khác nhau áp dụng của từng thời kỳ, đã dẫn đến những biến động lớn về chủ sử dụng đất. Mặc dù Luật Đất đai năm 1993 và 2003 đã quy định, Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất Nhà nước đã quản lý và giao cho người khác sử dụng nhưng nhiều trường hợp vẫn tranh chấp, khiếu nại đòi lại đất cũ. (2) Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, về hệ thống ván bản quản lý: Hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai thiếu đồng bộ, thiếu cụ thể phù hợp với địa phương này nhưng không phù hợp với địa phương khác và thường xuyên thay đổi, từ đó dẫn đến có một số trường hợp áp dụng pháp luật một cách tùy tiện hoặc thiếu khách quan, không quan tâm đầy đủ đến quyền lợi của người sử dụng đất, gây nên những bức xúc. Mặt khác, chính sách, pháp luật đất đai từng bước thay đổi theo chiều hướng ngày càng quan tâm đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, từ đó tạo ra sự suy bì, nhất là trong chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng. Hơn nữa, việc giao đất lại không được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, nên hồ sơ đất đai không đồng bộ và bị thất lạc. Chưa kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành để cụ thể hóa các văn bản qui phạm pháp luật đất đai đã giao quyền cho địa phương; chưa đầu tư kinh phí thỏa đáng để xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính, đảm bảo quản lý chặt chẽ đối với từng thửa đất; công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, công tác thanh tra, kiểm tra về đất đai còn hạn chế, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất đai chưa kịp thời, thường xuyên. 10 Thứ hai, về công tác cán bộ thực hiện công vụ liên quan đến đất đai Đất đai là vấn đề phức tạp, đã và đang phát sinh nhiều khiếu kiện, giải quyết một vụ việc cần phải có một khoảng thời gian nhất định, phải có các bước cụ thể. Vì vậy, cần phải có đội ngũ những người am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ chuyên sâu và làm việc chuyên trách. Nhưng, lực lượng làm công tác giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai ở địa phương hiện nay phần lớn là kiêm nhiệm. Khiếu nại về đất đai chủ yếu xảy ra ở cấp huyện nhưng bộ máy làm công tác ở cấp này lại không tương xứng. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng giải quyết khiếu nại, tranh chấp về đất đai chậm chạp, thiếu chất lượng, tái khiếu nhiều, công dân phát sinh đơn vượt cấp. Thứ ba, về đường lối chính sách đất đai: Chính sách đất đai và các chính sách khác có liên quan đến đất đai hiện nay của nước ta chưa đồng bộ, có mặt không rõ ràng và đang còn biến động và phức tạp. Thực tế áp dụng các chính sách đất đai còn tùy tiện dẫn đến tình trạng: Người có khả năng sản xuất nông nghiệp thì thiếu ruộng đất, ngược lại, người có ruộng lại không có khả năng hoặc nhu cầu sản xuất, để đất đai hoang hóa hoặc sử dụng đất kém hiệu quả. Tình trạng người nông dân phải ra các đô thị bán sức lao động, gây mất ổn định cơ cấu lao động sản xuất cũng có nguyên nhân từ việc thiếu đất để sản xuất. Thực tiễn đã chứng minh những sai lầm trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp như nóng vội, gò ép, đưa quy mô hợp tác xã nhỏ lên quy mô lớn không phù hợp với trình độ năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ sở đã dẫn đến hậu quả là đất đai sử dụng bừa bãi, lãng phí và kém hiệu quả. Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp được đổi mới, người sử dụng đất có nhu cầu sử dụng đất ngày càng cao, đòi hỏi phải có một diện tích đất nhất định để sản xuất. Do đó đã xuất hiện tư tưởng đòi lại đất để sản xuất. Chính sách đất đai chưa phù hợp, chậm đổi mới đã tạo cơ sở cho việc lấn chiếm đất đai diễn ra khá phổ biến, song chưa được 11 giải quyết và xử lý kịp thời. Sự không đồng nhất về cơ chế chính sách, về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở từng thời điểm khác nhau trên cùng địa bàn, không chấp hành đúng hoặc chưa đầy đủ qui định về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, tái định cư. Bên cạnh đó, một số bộ phận làm công tác bồi thường, cán bộ địa chính không nắm vững chính sách, pháp luật đất đai nên quá trình thực hiện các bước trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng người dân chưa thỏa mãn, còn nghi ngờ dẫn đến phát đơn khiếu kiện [49]. Thứ tư, về công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật về đất đai: Công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật đất đai hiện nay mặc dù đã được triển khai nhưng chưa được coi trọng, làm cho nhiều văn bản pháp luật đất đai của Nhà nước chưa được phổ biến sâu rộng trong nhân dân để giúp cán bộ, nhân dân nhanh chóng cập nhật kiến thức về pháp luật liên quan. 1.1.1.4. Phân loại tranh chấp đất đai Theo Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai 2013 thì TCĐĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Trong khái niệm này chúng ta cần lưu ý: đối tượng của TCĐĐ không phải là quyền sở hữu đất, các chủ thể tham gia tranh chấp không phải là các chủ thể có quyền sở hữu đối với đất. Đây là điều không phải bàn cãi vì Điều 53, Hiến pháp 2013 hay điều 4, Luật đất đai 2013 quy định rất rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý [32]. Trên thực tế, TCĐĐ không chỉ là hiện tượng phổ biến mà trong đó còn hết sức đa dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, về cơ bản TCĐĐ được chia thành ba dạng như sau: Tranh chấp về quyền sử dụng đất: là những tranh chấp giữa các bên với nhau về việc ai có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó. 12 Tranh chấp về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất: dạng tranh chấp này thường xảy ra khi các chủ thể có những giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất hoặc các tranh chấp liên quan đến việc bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư… Tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất: Đây là tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng đất không liên quan đến các giao dịch về đất đai và tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất khi giaỉ quyết tranh chấp này tòa án phải xác định quyền sử dụng đất thuộc về ai. Theo điển a, khoản 3 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi và bổ sung năm 2011, có hiệu lực kể từ ngày 1/01/2012 thì dạng tranh chấp này không áp dụng thời hiệu khởi kiện. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và yêu cầu của giải quyết tranh chấp đất đai 1.1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai Trên cơ sở khái niệm tranh chấp đất đai chúng ta có khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai như sau: “giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên để tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai”. Việc giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay phải đảm bảo ba nguyên tắc dưới đây: - Thứ nhất, luôn đảm bảo nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. - Thứ hai, bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích kinh tế, khuyến khích tự hòa giải trong nội bộ nhân dân. - Thứ ba, việc giải quyết nhằm mục đích ổn định kinh tế, xã hội, gắn với phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo điều kiện cho lao động có việc làm, phù hợp với đặc điểm và quy hoạch của từng địa phương 13 1.1.2.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai có những đặc điểm sau: - Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để giải quyết một tranh chấp, các chủ thể có thể sử dụng nhiều biện pháp như tự thương lượng, thỏa thuận với nhau. Pháp luật đất đai không quan tâm cách thức họ thỏa thuận thế nào, thương lượng ra sao mà chỉ đưa ra các quy định điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp khi có sự tham gia của cơ quan nhà nước vào việc giải quyết đó mà thôi. Điều này nhằm thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước với tự do ý chí, tự do định đoạt của các chủ thể và Nhà nước sẽ cung cấp một công cụ giải quyết tranh chấp cho họ nếu như họ không có được sự thống nhất. Một khi đã có sự tham gia của cơ quan nhà nước thì các quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp là cần thiết, bởi lẽ có những quy phạm pháp luật này thì người dân cũng như chính cơ quan nhà nước mới biết chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và giải quyết theo trình tự, thủ tục gì. - Đối tượng của hoạt động giải quyết tranh chấp là tranh chấp đất đai, trong đó các đương sự yêu cầu cơ quan nhà nước xác định rõ những quyền và nghĩa vụ của các bên đối với khu đất đang bị tranh chấp. - Hệ quả pháp lý của việc giải quyết tranh chấp là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai sẽ được làm rõ bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. - Đề cao hòa giải, huy động đoàn thể địa phương tham gia. - Liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, như: nhà, xây dựng... - Cần phải hiểu phong tục, tập quán địa phương để có cách giải quyết thỏa đáng. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan