VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ MẠNH LINH
GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ MẠNH LINH
GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC HÀ
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ
ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi và có độ
chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Tác giả luận văn
Ngô Mạnh Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP
HÌNH SỰ .......................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, nguyên tắc, chủ thể, nội dung của giám định tư pháp hình sự 6
1.2. Đặc điểm của giám định tư pháp hình sự ................................................. 26
1.2. Mục đích, ý nghĩa của giám định tư pháp hình sự ................................... 26
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của giám định tư pháp hình sự .................... 29
Chương 2. PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP
HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP HÌNH SỰ Ở ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ....................................................................... 33
2.1. Pháp luật Tố tụng hình sự về giám định tư pháp hình sự ........................ 33
2.2. Thực tiễn giám định tư pháp hình sự ở địa bàn thành phố Hà Nội.......... 39
Chương 3. DỰ BÁO VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP HÌNH SỰ ............................................................. 58
3.1. Dự báo về những yêu cầu đặt ra cho giám định tư pháp hình sự ............ 58
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giám định tư pháp hình sự ............. 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến
lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định rõ phương hướng và mục tiêu
cải cách tư pháp là: Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm
việc; trong đó, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng
tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp.
Trong đó, với vai trò là một bộ phận cấu thành của hoạt động bổ trợ tư
pháp, hoạt động giám định tư pháp trong những năm qua đã đóng góp vai trò
quan trọng và không thể thiếu trong hoạt động tố tụng cũng như ngoài tố tụng,
nhất là trong giải quyết các vụ án hình sự. Kết quả giám định là chứng cứ quan
trọng, góp phần tích cực trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đảm
bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Trong nhiều vụ án hình sự, nếu
không có kết luận giám định có thể dẫn đến bế tắc, không xử lý được bị can,
giải quyết triệt để được vụ án như trong các vụ án xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, xác định thiệt hại vật chất,… Sự chuyển biến mạnh mẽ, đột phá trong
hoạt động giám định tư pháp những năm qua bảo đảm đáp ứng yêu cầu của hoạt
động tố tụng, nâng cao vị thế của tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tư pháp,
làm chuyển biến nhận thức của các ngành, các cấp về giám định tư pháp, tạo vị
trí xứng tầm hoạt động giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng, cải cách tư
pháp và trong xã hội.
Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua, hoạt động giám định tư pháp trong tố
tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn tồn tại một số khó khăn,
hạn chế, bất cập nhất định, cụ thể:
1
Chất lượng kết luận giám định trong một số trường hợp chưa thực sự bảo
đảm, còn chung chung, không đầy đủ, rõ ràng những nội dung được yêu cầu;
có sự khác nhau giữa các kết luận giám định về cùng một vấn đề được trưng
cầu trong một số trường hợp, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
Việc thực hiện giám định ở một số lĩnh vực còn có những tồn tại, khó khăn,
vướng mắc, nhất là những lĩnh vực chưa có hoặc thiếu quy trình giám định
chuẩn nên còn nhiều khó khăn, lúng túng trong việc lựa chọn phương pháp,
cách thức tiến hành giám định, áp dụng các quy định về tiêu chuẩn kinh tế, kỹ
thuật của lĩnh vực chuyên môn,…
Trước tình hình trên, tác giả lựa chọn đề tài "Giám định tư pháp hình
sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội" làm luận văn nghiên cứu là một yêu cầu
cấp thiết, quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua khảo sát, tìm hiểu đã có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến công
tác giám định tư pháp, cụ thể:
Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Thanh Thủy "Giám định tư pháp hình
sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng"
năm 2016.
Luận án Tiến sỹ của Nguyễn Thị Loan "Giám định tư pháp trong tố tụng
hình sự Việt Nam" năm 2015.
Luận án Tiến sỹ của Bùi Quang Anh "Giám định kỹ thuật hình sự trong
điều tra tội phạm của lực lượng CSND" năm 2016.
Ngoài ra, còn có thêm các tài liệu tham khảo có liên quan đến công tác
giám định tư pháp hình sự như sách, tạp chí, bài viết,…
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu luận văn "Giám định tư pháp hình sự từ thực tiễn thành phố
Hà Nội", tác giả mong muốn phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và
pháp luật cũng như thực tiễn giám định tư pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội,
từ đó đưa ra dự báo và một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giám
định tư pháp trong tố tụng hình sự thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nhằm thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp luật về giám định tư pháp hình
sự.
- Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn hoạt động giám định tư pháp hình sự
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Rút ra nhận xét, đánh giá về thực tiễn giám định tư pháp trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
- Dự báo về yêu cầu đặt ra đối với giám định tư pháp hình sự trong thời
gian tới và đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giám định tư
pháp hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật giám định tư pháp hình sự và thực tiễn giám định tư pháp hình sự từ thực
tiễn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
3
- Về nội dung: nghiên cứu về giám định tư pháp hình sự từ thực tiễn
thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: từ năm 2015 đến năm 2019.
- Về địa bàn: thành phố Hà Nội.
- Về chủ thể: tổ chức, cá nhân giám định tư pháp hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề
ra, Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
chủ trường, đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước về vấn đề cải cách tư pháp, về giám định tư pháp và giám định
tư pháp hình sự. Trong đó một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng như
phân tích, so sánh, đối chiếu, đánh giá, tổng hợp; ngoài ra, tác giả còn tham
khảo ý kiến của các Giám định viên trực tiếp tiến hành hoạt động giám định tư
pháp hình sự. Ở mỗi chương, mục Luận văn sẽ sử dụng những phương pháp
nhất định nhằm mang tới hiệu quả nghiên cứu tốt nhất, làm rõ được nội dung
và nhiệm vụ của đề tài và mục đích nghiên cứu Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Vấn đề nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm kho
tàng tri thức lý luận của khoa học về giám định tư pháp và giám định tư pháp
hình sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa trong việc có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy,… Những kiến
nghị, đề xuất và giải pháp trong luận văn vận dụng trong thực tiễn có thể góp
phần hạn chế những thiếu sót, tồn tại và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định
4
tư pháp hình sự, qua đó góp phần đáp ứng yêu cầu công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của Luận văn được chia thành 3 chương, gồm:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về giám định tư pháp hình sự
Chương 2. Pháp luật tố tụng hình sự về giám định tư pháp hình sự và
thực tiễn giám định tư pháp hình sự ở địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3. Dự báo và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám
định tư pháp hình sự
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, nguyên tắc, chủ thể, nội dung của giám định tư pháp
hình sự
1.1.1. Khái niệm giám định tư pháp hình sự
Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ do Nhà xuất bản từ điển bách
khoa xuất bản năm 2007 thì giám định là việc “xem xét và quyết định” và ở
khía cạnh pháp luật “giám định” mang nghĩa “dùng khả năng chuyên môn xem
xét và cho ý kiến để tòa phân xử”, còn “tư pháp” được hiểu là “nhiệm vụ giữ
gìn sự tôn trọng luật pháp của một nước, tức việc tòa án thay mặt nhân dân mà
truy tố những kẻ phạm tội và do đơn kiện mà xét xử những vụ tranh chấp”. Tùy
thuộc vào tính chất, cách thức và đặc biệt là mục đích của giám định mà trên
thực tế còn có rất nhiều loại giám định khác như giám định chất lượng công
trình xây dựng Nhà nước (đánh giá, kiểm định chất lượng công trình xây dựng
do Nhà nước làm chủ đầu tư để nghiệm thu, trước khi đưa công trình đó vào sử
dụng…); giám định hàng hoá để đánh giá, kiểm định chất lượng hàng hoá khi
xuất, nhập khẩu; giám định y khoa để xác định mức độ hao tổn sức khoẻ, khả
năng lao động của người lao động, thương bệnh binh phục vụ cho việc giải
quyết các chế độ xã hội, cũng là việc giám định của chính các tổ chức giám
định tư pháp (chữ viết, chữ ký, giấy tờ, văn bản, chứng chỉ…) để phục vụ cho
hoạt động thanh tra, công chứng, ngân hàng…
Giám định tư pháp là từ ghép, kết hợp nghĩa của giám định và tư pháp,
nên trước hết giám định tư pháp có tính chất của giám định nói chung là sử
dụng kiến thức, phương pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn để
đánh giá và đưa ra ý kiến của nhà chuyên môn về một vấn đề thuộc phạm vi
6
chuyên môn nhưng với mục đích phục vụ cho việc giải quyết các vụ án hình
sự, hành chính, vụ việc dân sự - điểm này làm nên sự khác biệt giữa giám định
tư pháp với các loại giám định khác.
Qua tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy, với một số nước
có mô hình tố tụng thẩm vấn thì phạm vi giám định tư pháp thường được xác
định bởi chủ thể trưng cầu giám định là các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền, tùy thuộc vào thiết chế tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp của mỗi
nước, vì: mô hình tố tụng thẩm vấn đề cao vai trò chủ động của người tiến hành
tố tụng, nhất là thẩm phán (thẩm phán điều tra, thẩm phán xét xử). Người tiến
hành tố tụng là người đưa ra quyết định điều tra khi xảy ra một vụ án nào đó,
đồng thời cũng là người có trách nhiệm tìm ra sự thật trên cơ sở các sự việc,
chứng cứ. Do đó, việc trưng cầu giám định với tư cách là một biện pháp thu
thập chứng cứ luôn chỉ thuộc về chủ thể tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng không có quyền tự mình yêu cầu giám định như một cách thức thu thập
chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như trong tố tụng tranh
tụng, cho dù trong tố tụng dân sự, hành chính thì nghĩa vụ chứng minh trước
hết thuộc về đương sự.
Bên cạnh đó, một số nước có mô hình tố tụng tranh tụng thì cho rằng,
giám định tư pháp là một biện pháp thu thập chứng cứ dành cho các bên của tố
tụng, nên việc giám định được thực hiện không chỉ theo trưng cầu của phía tiến
hành tố tụng là các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền mà còn cả theo
yêu cầu của người tham gia tố tụng miễn là nhằm phục vụ cho việc giải quyết
vụ án, kết luận giám định đó được xem xét, đánh giá và sử dụng làm căn cứ
cho việc phán xét của tòa án; thậm chí, ở một số nước đề cao tính tranh tụng và
dân chủ trong tố tụng thì người tham gia tố tụng có thể tự mình yêu cầu giám
định, xuất trình kết luận giám định và có quyền yêu cầu và mang theo người đã
thực hiện giám định cho mình xuất hiện trước tòa với tư cách là nhân chứng
7
chuyên môn của mình, nhằm đối trọng lại với kết luận giám định của cơ quan
tiến hành tố tụng hoặc phía đương sự còn lại, để phục vụ cho việc tranh tụng
tại phiên tòa. Trong tố tụng tranh tụng thì trách nhiệm trình bày chứng cứ thuộc
về các bên, đòi hỏi các bên phải có trách nhiệm đưa chứng cứ, trong đó có kết
luận giám định ra trước Toà. Điều đó khuyến khích và buộc các bên phải tận
dụng hết mọi cơ hội hay khả năng để tìm tòi, đưa ra những chứng cứ thuyết
phục nhất và qua đó thẩm phán có điều kiện để suy xét, đưa ra phán quyết thích
hợp nhất theo nguyên tắc không có quyền chọn chứng cứ mà thẩm phán thấy
thích hợp nhất mà phải tuân theo các quy tắc chứng cứ đã được xác định trước.
Vì vậy, có thể nói rằng không có khái niệm chung về giám định tư pháp
cho tất cả các nước trên thế giới bởi vì quan niệm này tùy thuộc vào cách tiếp
cận quyền trưng cầu, yêu cầu giám định của các chủ thể tố tụng với tư cách một
phương thức thu thập chứng cứ theo định hướng giá trị về một cơ chế, mô hình
tố tụng, cách thức tạo lập nền công lý mà mỗi quốc gia theo đuổi.
Ở Việt Nam, theo quy định của Pháp lệnh giám định tư pháp thì “Giám
định tư pháp là việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ
thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ
án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ án) do người
giám định tư pháp thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng nhằm phục vụ cho việc giải quyết các vụ án”. Với quy định
này thì một việc giám định để được coi là giám định tư pháp, ngoài yêu cầu về
mục đích là phục vụ cho việc giải quyết các vụ án, còn phải thỏa mãn điều kiện
về chủ thể trưng cầu giám định là các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này đồng
nghĩa với việc phạm vi giám định tư pháp chỉ giới hạn ở những việc giám định
được thực hiện theo quyết định trưng cầu của cơ quan điều tra, kiểm sát và tòa
án từ cấp huyện, cấp tỉnh đến cấp trung ương; còn những người tham gia tố
tụng muốn yêu cầu giám định thì phải đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng có
8
thẩm quyền giải quyết vụ án để trưng cầu. Đây là quan niệm truyền thống, điển
hình của nền tư pháp theo mô hình tố tụng thẩm vấn, vì: việc trưng cầu và thực
hiện giám định được coi là một biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ của các
cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là trong tố tụng hình sự. Vì thế, giám định tư
pháp được coi như là một hoạt động bổ trợ trước hết và gần như chỉ để phục vụ
cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tìm kiếm bằng chứng để điều tra, truy
tố và xét xử tội phạm, trong đó đặc biệt nhấn mạnh mặt đấu tranh với tội phạm
và tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tố tụng giải quyết vụ án mà
chưa quan tâm nhiều đến.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật giám định tư pháp
2012 thì: “Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến
thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về
chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng
cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu
của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này” và “Người yêu cầu
giám định tư pháp là người có quyền tự mình yêu cầu giám định sau khi đề nghị
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà
không được chấp nhận. Người yêu cầu giám định bao gồm: đương sự trong vụ
việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp
của họ, trừ trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”.
Như vậy, khái niệm giám định tư pháp theo quy định của Luật giám định
tư pháp đã có sự thay đổi so với Pháp lệnh giám định tư pháp. Theo đó, khái
niệm giám định tư pháp về cơ bản không phụ thuộc vào chủ thể trưng cầu, yêu
9
cầu giám định mà phụ thuộc vào mục đích sử dụng kết luận giám định (kết luận
giám định được sử dụng vào việc giải quyết các vụ án).
Hiện nay, trong khoa học pháp lý, có một số quan điểm về giám định tư
pháp hình sự như sau:
Quan điểm thứ nhất: giám định tư pháp hình sự là việc nghiên cứu các
vật chứng, chứng từ, tử thi, tình trạng sức khỏe và đặc điểm thể chất của người
sống có ý nghĩa đối với vụ án, do người có hiểu biết chuyên môn tiến hành theo
yêu cầu của cơ quan điều tra bằng quyết định trưng cầu giám định. Tuy nhiên,
quan điểm này có phạm vi chủ thể quá hẹp vì giám định tư pháp hình sự không
những được tiến hành theo yêu cầu của cơ quan điều tra mà còn được tiến hành
theo yêu cầu của những chủ thể có thẩm quyền tố tụng khác như Viện kiểm sát,
Tòa án, Hải quan,…
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, trong Thuật ngữ pháp lý 2011 có quan điểm
cho rằng: giám định tư pháp hình sự là việc nghiên cứu, phân tích, xét nghiệm
do các nhà khoa học, kỹ thuật và chuyên môn khác tiến hành theo yêu cầu của
cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án về những vấn đề có liên quan đến
vụ án hình sự. Xét về mặt chủ thể có thẩm quyền trưng cầu giám định, quan
điểm này phù hợp hơn so với quan điểm thứ nhất, tuy nhiên, vẫn chưa bao quát
được hết nội hàm về chủ thể và một số nội dung khác liên quan đến giám định
tư pháp hình sự.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm giám định tư pháp hình
sự như sau: “Giám định tư pháp hình sự là việc người giám định tư pháp sử
dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết
luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền
10
tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu
của người yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật”.
1.1.2. Nguyên tắc giám định tư pháp hình sự
Các nguyên tắc giám định tư pháp là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo
mà hoạt động giám định tư pháp phải tuân theo. Các nguyên tắc thực hiện giám
định tư pháp thể hiện các đặc điểm, bản chất của hoạt động giám định. Giám
định tư pháp hình sự được thực hiện trên bốn nguyên tắc như sau:
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong giám định tư pháp bắt nguồn từ
nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự. Thông qua kết luận chuyên
môn, giám định cung cấp những chứng cứ khách quan, khoa học, có ý nghĩa rất
quan trọng, đôi khi còn có tính quyết định đến việc giải quyết đúng đắn vụ án,
vụ việc. Vì vậy, hoạt động giám định phải tuân thủ pháp luật.
Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động giám định tư pháp phải được quy định
chặt chẽ, cụ thể, khả thi trong các điều Luật và các văn bản quy phạm pháp luật
về tiêu chuẩn, địa vị pháp lý, trình tự, thủ tục trưng cầu và thực hiện giám
định,... Các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tuân thủ
triệt để, nghiêm chỉnh và thống nhất chế định giám định tư pháp trong quá trình
giải quyết vụ án
Quy chuẩn chuyên môn là tổng hợp của quy trình và tiêu chuẩn khoa học
được cơ quan có thẩm quyền ban hành theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật, là
căn cứ pháp lý để người giám định tư pháp thực hiện và kết luận giám định.
Mỗi lĩnh vực giám định có quy chuẩn chuyên môn riêng, do cơ quan có thẩm
quyền ban hành hoặc hướng dẫn áp dụng. Tuân theo quy chuẩn chuyên môn là
yêu cầu đối với người thực hiện giám định tư pháp phải thực hiện đầy đủ, chính
11
xác về trình tự, thủ tục thực hiện giám định cũng như việc áp dụng tiêu chuẩn
khi kết luận giám định.
Thứ hai, trung thực, chính xác, khách quan, vô tư, kịp thời
Trung thực trong thực hiện giám định tư pháp là yêu cầu quan trọng đòi
hỏi người giám định tư pháp chỉ căn cứ những tình tiết, nội dung tài liệu có thật
để tiến hành thực hiện giám định, không tự suy diễn theo ý chí chủ quan của
mình khi áp dụng quy định pháp luật.
Chính xác là yêu cầu rất cơ bản trong hoạt động giám định tư pháp, đòi
hỏi sự tỉ mỉ trong tiếp nhận nội dung giám định, thu thập, nghiên cứu tài liệu,
đánh giá tổng hợp một cách khoa học của người giám định tư pháp.
Khách quan là những sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài ý chỉ chủ quan của
con người, trong giám định tư pháp thể hiện từ việc tìm hiểu nội dung cần giám
định, thu thập dấu vết, tài liệu… phục vụ việc thực hiện giám định.
Vô tư là yêu cầu người giám định tư pháp không vì muốn hay không
muốn một chi tiết, nội dung cụ thể nào đó mà chi phối đến suy nghĩ trong hoạt
động chuyên môn, thể hiện sự độc lập không bị chi phối bởi những yếu tố lợi
ích vật chất, phi vật chất trong hoạt động giám định.
Khác với những người tham gia tố tụng khác, người giám định tư pháp
tham gia tố tụng với tư cách là một nhà chuyên môn về vấn đề mà cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các bên đương sự quan tâm. Do đó, ý
kiến của người giám định tư pháp có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Vì vậy, có thể thấy sự khách quan, vô tư của người giám định tư pháp có
ảnh hưởng quan trọng như thế nào. Nếu người giám định tư pháp đã thiếu vô
tư, có định kiến trước thì cho dù phương pháp, phương tiện giám định có tiên
12
tiến, hiện đại đến đâu, trình độ chuyên môn có cao bao nhiêu thì kết luận giám
định cũng không bảo đảm chính xác, thậm chí có thể bóp méo sự thật, dẫn đến
oan sai. Vì thế, pháp luật đòi hỏi sự khách quan, vô tư của người giám định tư
pháp cũng giống như đối với người tiến hành tố tụng.
Sự kịp thời thể hiện ở 2 khía cạnh, một mặt cần tiến hành giám định ngay
khi tiếp nhận hoặc được phân công giám định tránh sự biến đổi tự nhiên của
đối tượng giám định (trong giám định pháp y thương tích, một số chuyên ngành
trong giám định kỹ thuật hình sự…); mặt khác, thể hiện việc kết luận, trả kết
luận giám định theo đúng thời hạn mà pháp luật quy định.
Thứ ba, chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề trong phạm vi được
yêu cầu
Trước hết, người trưng cầu phải quán triệt sự cần thiết phải trưng cầu
giám định theo quy định của pháp luật, sau đó xác định nội dung cần thiết phải
giám định để xác định cá nhân, tổ chức giám định phù hợp, không yêu cầu kết
luận ngoài phạm vi chuyên môn giám định cũng như những vấn đề về pháp lý.
Đối với người giám định, để phân biệt một cách rõ ràng “phạm vi chuyên
môn được yêu cầu” đối với một vụ việc giám định cụ thể là khá phức tạp, trong
nhiều trường hợp nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định có sự đan xen đòi hỏi
người giám định nắm rõ nội dung cần giám định, từ đó xem xét để áp dụng
chính xác yêu cầu của nguyên tắc này đối với lĩnh vực giám định mà mình thực
hiện. Ngoài ra, nguyên tắc này đòi hỏi sự phối hợp tuân thủ của cả người trưng
cầu giám định và người thực hiện giám định.
Trong trường hợp xác định quyết định trưng cầu giám định có nội dung
yêu cầu giám định không thuộc phạm vi chuyên môn của tổ chức giám định,
người giám định thì tổ chức giám định, người giám định có văn bản
thông báo kịp thời cho cơ quan trưng cầu, người trưng cầu giám định biết để
13
cơ quan trưng cầu thực hiện việc trưng cầu đối với tổ chức, cá nhân khác thực
hiện giám định.
Thứ tư, chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định
Kết luận giám định tư pháp là nhận xét, đánh giá bằng văn bản của người
giám định tư pháp về đối tượng giám định theo nội dung trưng cầu, yêu cầu
giám định.... Kết luận giám định là nguồn chứng cứ khoa học, quan trọng có
ảnh hưởng đến quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết
vụ án hình sự. Vì vậy, quy định nguyên tắc bắt buộc người giám định tư pháp
chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định là cần thiết, bảo đảm
tính minh bạch cũng như tăng cường hiệu quả của hoạt động giám định tư pháp,
đáp ứng yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng hình sự.
Nguyên tắc này thể hiện ở việc người giám định có quyền độc lập đưa
ra kết luận của mình. Đối với trường hợp giám định cá nhân, thì người giám
định phải chịu trách nhiệm trước kết luận giám định của mình. Trong trường
hợp kết luận tập thể về một lĩnh vực chuyên môn thì những người giám định
cùng chịu trách nhiệm về kết luận đó. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau,
thì mỗi người giám định ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận giám định
chung và chịu trách nhiệm về các ý kiến đó.
Trong trường hợp giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn
khác nhau thì mỗi người thực hiện giám định phần việc thuộc lĩnh vực chuyên
môn của mình và chịu trách nhiệm về kết luận giám định của mình. Nếu người
giám định cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân,
tổ chức liên quan, thì người giám định phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra
và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai
báo gian dối quy định tại Điều 382 Bộ luật hình sự.
1.1.3. Chủ thể giám định tư pháp hình sự
14
Chủ thể giám định tư pháp hình sự bao gồm cá nhân và tổ chức giám
định tư pháp.
a) Về tổ chức giám định tư pháp
Có 03 loại tổ chức giám định tư pháp, đó là: tổ chức giám định tư pháp
công lập, tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập và tổ chức giám định tư
pháp theo vụ việc.
Thứ nhất, tổ chức giám định tư pháp công lập
Tổ chức giám định tư pháp công lập được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thành lập trong 3 lĩnh vực là pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự
[20]. Mô hình tổ chức giám định tư pháp công lập được quy định như sau:
- Tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y bao gồm: Viện pháp y
quốc gia thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y cấp tỉnh; Viện pháp y quân đội thuộc
Bộ Quốc phòng; Trung tâm giám định pháp y thuộc Viện khoa học hình sự, Bộ
Công an.
- Tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y tâm thần bao gồm: Viện
pháp y tâm thần trung ương thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y tâm thần khu vực
thuộc Bộ Y tế.
Căn cứ yêu cầu giám định pháp y tâm thần của hoạt động tố tụng và điều
kiện thực tế của các khu vực, vùng miền trong cả nước, Bộ trưởng Bộ Y tế xem
xét, quyết định thành lập Trung tâm pháp y tâm thần khu vực sau khi thống
nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
- Tổ chức giám định tư pháp công lập về kỹ thuật hình sự bao gồm: Viện
khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an
cấp tỉnh; Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng.
15
- Trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể xem xét, quyết định thành lập hoặc
trình cơ quan có thẩm quyền thành lập tổ chức giám định tư pháp công lập trong
các lĩnh vực khác sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Đây là
quy định theo hướng mở nhằm mục đích dành quyền cho Bộ, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định tùy thuộc vào nhu cầu giám định của từng lĩnh vực. Để thực
hiện tốt quy định này, đối với các Bộ, ngành thì đơn vị được giao giúp Bộ
trưởng quản lý về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp đề xuất với Bộ trưởng
xây dựng đề án trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ xem xét thành
lập sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp; đối với địa phương
thì Sở chuyên môn phối hợp với Sở Tư pháp xây dựng đề án trình Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh xem xét, thành lập sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư
pháp.
Như vậy, hiện nay đã có nhiều thay đổi về mô hình tổ chức giám định tư
pháp công lập trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần so với trước đây, cụ thể
như sau:
- Luật Giám định tư pháp 2012 quy định tổ chức giám định pháp y công lập
ở địa phương chỉ có một hình thức tổ chức duy nhất là Trung tâm pháp y, thay vì
Trung tâm pháp y hoặc Phòng giám định pháp y thuộc Bệnh viện đa khoa tỉnh
như trước đây. Giám định viên pháp y thuộc Phòng kỹ thuật hình sự, Công an cấp
tỉnh các địa phương chỉ thực hiện giám định pháp y tử thi, không thực hiện giám
định pháp y về thương tích.
- Tổ chức giám định tư pháp trong lĩnh vực pháp y tâm thần được đổi
mới căn bản, theo đó, Nhà nước thành lập Trung tâm pháp y tâm thần khu vực
thay cho Trung tâm pháp y tâm thần tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Quy
định này để thu gọn đầu mối, tập trung nguồn lực và phù hợp với thực tế về
16
- Xem thêm -