Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn hiện thực và con người nam bộ trong truyện và kí của nguyễn thi...

Tài liệu Luận văn hiện thực và con người nam bộ trong truyện và kí của nguyễn thi

.PDF
56
124
78

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ************* NGUYỄN THỊ THU HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI NAM BỘ TRONG TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2018 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ************* NGUYỄN THỊ THU HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI NAM BỘ TRONG TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. LA NGUYỆT ANH HÀ NỘI – 2018 LỜI CẢM ƠN Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. La Nguyệt Anh. Cô đã trực tiếp hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu cũng nhƣ động viên và khuyến khích tôi thực hiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam, khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện tốt nhất giúp tôi hoàn thành khóa luận này. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2018 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Thu LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của TS. La Nguyệt Anh. Các số liệu và kết quả nghiên cứu đƣợc trình bày trong luận văn này là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố dƣới bất kì hình thức nào. Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm! Hà Nội, tháng 5 năm 2018 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Thu MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5 4. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................... 5 5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 5 6. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................... 5 7. Đóng góp của khóa luận............................................................................ 5 8. Bố cục khóa luận ....................................................................................... 6 NỘI DUNG ....................................................................................................... 7 Chƣơng 1. TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI TRONG VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM ........................................................................... 7 1.1. Những vấn đề lí luận về truyện và kí ..................................................... 7 1.1.1. Khái niệm truyện và kí ................................................................... 7 1.1.2. Thể loại truyện và kí trong văn học kháng chiến Việt Nam............ 9 1.2. Nguyễn Thi và Truyện và kí của Nguyễn Thi ...................................... 12 1.2.1. Tác giả Nguyễn Thi ....................................................................... 12 1.2.2. Qúa trình sáng tác......................................................................... 13 1.2.3. Truyện và kí của Nguyễn Thi ........................................................ 15 Chƣơng 2. BỨC TRANH HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI NAM BỘ TRONG TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI ............................................................ 19 2.1. Bức tranh hiện thực đời sống Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi ..................................................................................................................... 19 2.1.1. Hiện thực đời sống trên chiến trường ........................................... 19 2.1.2. Hiện thực cuộc sống đời thường ................................................... 22 2.2. Con ngƣời Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi ..................... 26 2.2.1. Con người Nam Bộ trong chiến trường ........................................ 26 2.2.2. Con người Nam Bộ trong cuộc sống đời thường .......................... 31 Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN VÀ KÍ NGUYỄN THI ............ 36 3.1. Không gian, thời gian nghệ thuật ......................................................... 36 3.1.1. Không gian nghệ thuật .................................................................. 36 3.1.2. Thời gian nghệ thuật ..................................................................... 38 3.2. Giọng điệu ............................................................................................ 40 3.2.1. Giọng điệu đa thanh ...................................................................... 40 3.2.2. Sắc điệu chủ đạo trong Truyện và kí Nguyễn Thi ......................... 41 3.3. Ngôn ngữ .............................................................................................. 43 3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật khách quan .................................................. 43 3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại gần gũi, thân tình .......................................... 45 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn học luôn là tấm gƣơng phản chiếu đời sống hiện thực xã hội và nhà văn chính là ngƣời thƣ kí trung thành của thời đại. Nếu là một nhà văn vĩ đại thì tác phẩm của anh ta phải phản ánh ít nhất vài ba khía cạnh nào đó của cuộc cách mạng. Nhà thơ vĩ đại ngƣời Đức H.Haino đã từng so sánh hình tƣợng nhà thơ với cuộc sống cũng nhƣ thần Ăng-tê với đất Mẹ: “Thần Ăng-tê trở nên vô địch khi đặt chân lên đất Mẹ và mất hoàn toàn sức lực khi bị Hec-quyn nhấc bổng lên. Nhà thơ cũng thế, nhà thơ chỉ thực sự cƣờng tráng và dũng mãnh khi gắn liền với mảnh đất của đời sống hiện thực và trở nên bất lực khi tách rời cuộc sống và lơ lửng trên không”. Nhƣ vậy, hiện thực đời sống luôn luôn là nguồn cảm hứng vô tận, dồi dào của thơ văn. Và con ngƣời chính là nhân tố quan trọng nhất trong bức tranh hiện thực đó. Nên con ngƣời và hiện thực trong đời sống luôn là đề tài hấp dẫn, thu hút các nhà văn, nhà thơ và cũng chính là một khía cạnh đặc sắc để các nhà nghiên cứu khai thác. Hơn nữa, dân tộc ta đã trải qua nghìn năm văn hiến, chiến đấu hết mình để bảo vệ Tổ quốc, dù hiện nay đất nƣớc đã hòa bình nhƣng chúng ta vẫn không thể nào quên đƣợc những năm tháng chiến tranh đau thƣơng của dân tộc. Chiến tranh, Cách mạng ngay lúc bấy giờ là đề tài rất rộng lớn phản ánh sâu sắc hiện thực và con ngƣời, đặc biệt là trong kháng chiến chống Mĩ đƣợc các nghệ sĩ phản ánh từ nhiều khía cạnh khác nhau. Trên văn đàn văn học Việt Nam nói chung văn học Cách mạng nói riêng thì không thể không nói đến Nguyễn Thi – một nhà văn có phong cách sáng tác rất đặc sắc. Ông sinh ra ở Nam Định nhƣng cuộc đời và sáng tác của Nguyễn Thi luôn gắn bó với miền Nam. Hầu hết những tác phẩm của ông viết về miền Nam đƣợc tập hợp trong tập Truyện và kí do Nhà xuất bản Giải phóng in lần đầu vào năm 1969. Những tác phẩm này của Nguyễn Thi thể hiện rất rõ hiện thực chiến tranh chống Mĩ và sự căm thù giặc sâu sắc, lòng yêu nƣớc nồng nàn của đồng bào miền Nam. Hòa nhập cùng dòng văn học kháng chiến chống Mĩ lúc bấy giờ Nguyễn Thi cũng đã bộc lộ đƣợc cảm nhận của riêng mình. Nếu nhà văn Tô Hoài, Nguyễn Khải đi từ sự thay đổi thân phận công dân trong cuộc đời chung của dân tộc 1 (Vợ chồng A Phủ, Mùa lạc,...), Nguyễn Minh Châu quan sát chiến tranh nhƣ cuộc phát lộ ánh sáng của tâm hồn con ngƣời (Mảnh trăng cuối rừng, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,...)… thì Nguyễn Thi lại cảm nhận nó từ góc độ gia đình – một góc nhìn tƣởng chừng không có gì mới mẻ nhƣng lại là điều hệ trọng nhất đối với mỗi con ngƣời. Từ việc nắm bắt hiện thực chiến đấu anh dũng của đồng bào miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Thi đã vẽ lên bức tranh hùng tráng vừa chứa đựng sắc thái sử thi trữ tình vừa ẩn chứa những điều giản dị, thân thuộc của con ngƣời, của vùng đất Nam Bộ. Có rất nhiều nhà nghiên cứu cũng đã tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Thi nhƣng chỉ tìm hiểu về các khía cạnh của truyện ngắn, hay về nghệ thuật trong tập Truyện và kí,... chứ chƣa đi sâu vào tìm hiểu về nội dung. Việc khám phá hiện thực và con ngƣời trong Truyện và kí Nguyễn Thi là vô cùng cần thiết. Quá trình tìm hiểu bức tranh hiện thực và con ngƣời trong Truyện và kí cũng góp phần quan trọng vào việc tiếp nhận nội dung tác phẩm và thấy đƣợc phong cách sáng tác độc đáo của Nguyễn Thi. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu kết quả nghiên cứu của thế hệ đi trƣớc cùng với tính cấp thiết của vấn đề, ngƣời viết lựa chọn đề tài này khẳng định bức tranh hiện thực và con ngƣời Nam Bộ trong tập Truyện và kí của Nguyễn Thi đồng thời làm nổi bật đƣợc một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện trong các tác phẩm. Mặt khác, tác phẩm của ông cũng đƣợc đƣa vào chƣơng trình sách giáo khoa ở phổ thông với truyện ngắn Những đứa con trong gia đình in trong tập Truyện và kí. Nên việc nghiên cứu đề tài: Hiện thực và con người Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi cũng góp một phần vào việc tìm hiểu, nâng cao hiệu quả giảng dạy truyện ngắn của Nguyễn Thi cũng nhƣ truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Xuất phát từ lòng mến mộ nhà văn – liệt sĩ Nguyễn Thi, tôi lựa chọn đề tài Hiện thực và con người Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi với mong muốn góp một tiếng nói khẳng định tài năng, phong cách, những giá trị tiêu biểu trong sáng tác của nhà văn. 2. Lịch sử vấn đề Với sự thành công và phong cách nghệ thuật độc đáo của mình, Nguyễn Thi đã giành đƣợc nhiều trang viết của giới nghiên cứu và phê bình. Cho đến nay, rất 2 nhiều báo chí từ Trung ƣơng đến địa phƣơng có công trình nghiên cứu, lời bàn về Nguyễn Thi và tác phẩm của ông. Ngay từ khi truyện ngắn Nguyễn Thi ra đời đã đƣợc đánh giá rất cao. Trong hai tập truyện ngắn đầu tay Trăng sáng (1960) và Đôi bạn (1962), Trần Hữu Tá đã nhận xét: “những yếu tố đầu tiên của một tài năng đã đƣợc bộc lộ. Khả năng dựng truyện tự nhiên, khả năng nhận xét tinh tế, phân tích tâm lí một cách sâu sắc, ngôn ngữ trong sáng và giàu chất trữ tình” [14;10]. Năm 1965, bài viết Phát hiện mới về nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn (Tạp chí Văn học, số 2) Ngô Thảo đã bƣớc đầu giới thiệu về nhà văn Nguyễn Thi – một tài năng trẻ đầy triển vọng trong tƣơng lai. Năm 1966, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ có bài viết Tính chất điển hình trong Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi đăng trên tuần báo Văn nghệ (ngày 01/4). Trong Từ điển văn học bộ mới, Đỗ Đức Hiểu – Trần Hữu Tá có những nhận xét xác đáng về Nguyễn Thi và đánh giá về truyện kí Người mẹ cầm súng: “Người mẹ cầm súng có tính dân gian Nam Bộ rất rõ nét, đƣợc thể hiện qua cách kể chuyện, lối mở đầu, các chƣơng đoạn, đặc biệt trong lời ăn tiếng nói, nếp suy nghĩ, cảm xúc nhân vật. Người mẹ cầm súng là tác phẩm hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Thi, chứa đựng những yếu tố mầm mống của một nhà tiểu thuyết có tài” [6;1184]. Đặc biệt là công trình nghiên cứu của tác giả Nhị Ca năm 1983 viết về đời riêng và tác phẩm của ông Gương mặt còn lại – Nguyễn Thi đã một lần nữa khẳng định những đóng góp to lớn của Nguyễn Thi trong nền văn học kháng chiến Việt Nam. Bên cạnh các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi thì tác phẩm của Nguyễn Thi cũng đƣợc dành rất nhiều sự quan tâm của các thế hệ học viên, sinh viên, học sinh các trƣờng Đại học, Cao đẳng, Phổ thông cũng nhƣ các độc giả trên cả nƣớc. Có rất nhiều luận văn, khóa luận tốt nghiệp, công trình nghiên cứu của thạc sĩ, cử nhân về tác phẩm của Nguyễn Thi nhƣ: - Văn xuôi Nguyễn Thi (Nguyễn Chí Hòa, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh, 1999). - Nguyễn Thi trong văn xuôi chống Mĩ (Nguyễn Minh Bằng, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh, 2005). 3 - Chất trữ tình trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tấn (Thái Thị Ngọc, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Đại học Vinh, 2004). - Đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tấn (Phan Thị Nga, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Đại học Vinh, 2006). - Đặc điểm lời thoại nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi (Hoàng Thị Sâm, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh, 2009). Về tập Truyện và kí cũng có một số nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu và tìm hiểu nhƣ Nguyễn Thi qua Truyện và kí của Phong Lê đã đi sâu vào tài năng và phong cách của nhà văn. Hay bài nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan năm 1966 về Phong cách dân gian của Người mẹ cầm súng in trong Tạp chí Văn học số 7. Trong Lời giới thiệu tuyển tập Truyện và kí của Nguyễn Thi Nhà xuất bản Giải phóng cũng đã nêu rõ: “Anh có khả năng quan sát độc đáo, nhạy bén và tinh tế, có một biệt tài dùng phép tƣơng phản để mô tả cái vĩ đại trong cái tầm thƣờng, hòa nhuyễn cái vĩ đại của cuộc chiến tranh thần kì trong hơi thở bình thƣờng của cuộc sống hàng ngày, của con ngƣời bình thƣờng. Nguyễn Thi cũng nắm chắc vốn kiến thức của quần chúng, đặc biệt là của nông dân Nam Bộ. Tất cả những cái đó cộng lại tạo cho Nguyễn Thi một phong cách riêng, bình thản mà không lạnh lùng sâu lắng nhƣng vẫn có cái sôi nổi thầm kín, đặc biệt là đậm đà màu sắc Nam Bộ trong cách dùng chữ, lời nói, điệu hồn chân chất, thân mật, phóng khoáng, dễ thƣơng, dễ mến biết bao” [15;6]. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu của sinh viên về tập Truyện và kí của Nguyễn Thi nhƣ: Hiệu quả của việc sử dụng từ địa phương trong Truyện và kí của Nguyễn Thi (Ngô Thị Phƣơng, Luận văn tốt nghiệp Đại học, Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, 2010). Hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ đi sâu vào một tác phẩm, trong thể loại truyện ngắn hoặc nghệ thuật độc đáo trong Truyện và kí của Nguyễn Thi. Vấn đề hiện thực và con ngƣời trong Truyện và kí của Nguyễn Thi đã đƣợc bàn đến nhƣng vẫn còn nhiều bỏ ngỏ. Chính các công trình nghiên cứu này đã gợi mở cho 4 tác giả khóa luận hƣớng tiếp cận mới, làm tiền đề cho tác giả đi sâu tìm hiểu đề tài: Bức tranh hiện thực và con người Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích cơ bản của khóa luận là làm rõ bức tranh hiện thực và con ngƣời Nam Bộ trong tập Truyện và kí của Nguyễn Thi. Từ đó thấy đƣợc những đóng góp của nhà văn trong nền văn học kháng chiến nói riêng và trong nền văn học Việt Nam nói chung. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là vấn đề hiện thực và con ngƣời trong sáng tác của Nguyễn Thi. 5. Phạm vi nghiên cứu Tập Truyện và kí của Nguyễn Thi – Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội (1978) 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Tìm hiểu Bức tranh hiện thực và con người Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi, khóa luận có sử dụng các kiến thức về lí luận văn học và văn học sử. Do vậy, phƣơng pháp mà tôi sử dụng ở đây là phân tích tổng hợp. - Bên cạnh đó cũng kết hợp với các phƣơng pháp khác nhƣ: phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh, đối chiếu,... 7. Đóng góp của khóa luận - Trên cơ sở những vấn đề lí luận về truyện và kí, thể loại truyện và kí trong văn học kháng chiến Việt Nam, ngƣời viết vận dụng để tìm hiểu, nghiên cứu các tác phẩm trong Truyện và kí của Nguyễn Thi. Từ đó khai thác, làm rõ bức tranh hiện thực và con ngƣời Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi. - Đồng thời khẳng định đƣợc một số phƣơng diện nghệ thuật nhƣ: không gian, thời gian nghệ thuật; giọng điệu; ngôn ngữ Nam Bộ mà tác giả sử dụng rất thành công, nhuần nhuyễn trong tác phẩm. 5 8. Bố cục khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính khóa luận đƣợc triển khai trong 3 chƣơng: Chƣơng 1: Truyện và kí của Nguyễn Thi trong nền văn học kháng chiến Việt Nam Chƣơng 2: Bức tranh hiện thực và con ngƣời Nam Bộ trong Truyện và kí của Nguyễn Thi Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện hiện thực và con ngƣời trong Truyện và kí của Nguyễn Thi 6 NỘI DUNG Chƣơng 1 TRUYỆN VÀ KÍ CỦA NGUYỄN THI TRONG VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề lí luận về truyện và kí 1.1.1. Khái niệm truyện và kí 1.1.1.1. Khái niệm truyện Thuật ngữ truyện bao hàm rất rộng và có nhiều nghĩa khác nhau. Ban đầu với nguồn gốc chữ Hán, truyện có thể hiểu là giải thích kinh nghĩa nhƣ tác phẩm Xuân Thu tả truyện. Sau này truyện có nghĩa là bài văn xuôi ghi chép về sự tích một đời của một ngƣời nào đó nhƣ Lĩnh Nam chích quái liệt truyện ghi lại các sự tích Hồng Bàng, Bánh chưng, Ngư Tinh, Hồ Tinh,... Trong tiếng Việt, thuật ngữ truyện chỉ tác phẩm văn học là một bản kể miêu tả nhân vật và những diễn biến sự kiện thú vị: truyện cổ tích, truyện thần thoại, truyện cƣời, truyện thần kì, truyện Nôm, truyện thơ, truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn, truyện rất ngắn (mini),... Theo Trần Đình Sử, khái niệm truyện là “một thể loại tự sự văn xuôi bắt nguồn từ các câu chuyện thần thoại, chuyện lịch sử, chuyện sinh hoạt, dần dần tách ra thành một thể loại, kể những chuyện kì lạ, khác thƣờng chỉ trong trí tƣởng tƣợng của con ngƣời. Ví dụ: truyện truyền kì, truyện cổ tích,...” [5;202] Truyện bao gồm nhiều thể loại, trong đó tiêu biểu là thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phƣơng diện của đời sống: đời tƣ, thế sự hay sử thi nhƣng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn đƣợc viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [5;370]. “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận 7 của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [5;328]. Nếu tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh toàn vẹn đời sống, có cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tƣ thì truyện ngắn lại hƣớng tới khắc họa một hiện tƣợng, phát hiện một nét bản chất trong đời sống tâm hồn hay quan hệ nhân sinh của con ngƣời. Vì vậy, truyện ngắn thƣờng ít nhân vật và ít những sự kiện phức tạp hơn tiểu thuyết. 1.1.1.2. Khái niệm kí Kí là một thể loại ra đời rất sớm, xuất hiện từ trƣớc đời Hán ở Trung Quốc. Vào đời Đƣờng, nhiều tác phẩm kí dùng để ghi lại sự việc xen với lời bình nhƣng sau đó nó ngày càng phát triển và ý thức hơn về đặc điểm thể loại. Kí theo nghĩa gốc là ghi chép lại một sự việc nào đó để không quên. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Kí là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự nhƣ bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút,... Do tính chất trung gian mà có ngƣời liệt kí vào cận văn học” [5;162]. Thể kí đã có từ rất lâu đời trong văn học Việt Nam nhƣng phải đến thế kỉ XVII đặc biệt là thế kỉ XIX, khi đời sống con ngƣời ngày càng nâng cao, báo chí, kĩ thuật in ấn phát triển, văn học bắt đầu thâm nhập vào đời sống tinh thần xã hội thì thể kí mới thực sự phát triển và trở thành thể loại phức tạp nhất của văn xuôi tự sự trung đại: Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Thượng kinh kí sự (Lê Hữu Trác),.... Sau Cách mạng tháng Tám 1945, thể kí hiện đại Việt Nam đặc biệt phát triển với nhiều tên tuổi nhƣ: Tô Hoài, Trần Đăng, Nguyễn Khải, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tƣởng, Anh Đức, Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng,.. Trong lí luận văn học, có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm và đặc trƣng của kí. Có nhà nghiên cứu nhận xét: “Về kí, thực tế là không thể nói đến cái gì xác định đƣợc đặc trƣng thể loại của nó” [11;275]. Lại có ngƣời cho kí là “loại thể văn học đặc biệt và phức tạp” [11;277]. Nhƣ vậy, đã có rất nhiều hƣớng tiếp cận khác nhau về thể kí nhƣng vẫn chƣa đƣa ra đƣợc một hệ thống lí luận thống nhất cho thể loại văn học này. 8 Truyện và kí là hai thể loại độc lập trong văn học, tuy nhiên ranh giới thể loại đôi khi khó tách bạch, giữa hai thể loại có sự giao thoa. Trong khung thể loại của văn học Việt Nam hiện đại, có thể xem truyện và kí là biến thể độc đáo của thể loại truyện và thể loại kí. 1.1.2. Thể loại truyện và kí trong văn học kháng chiến Việt Nam Thể loại truyện và kí trong văn học kháng chiến Việt Nam thể hiện rõ qua các thời kì: kháng chiến chống Pháp, mƣời năm sau kháng chiến chống Pháp và trong kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Ở mỗi chặng đƣờng, thể loại này đều có những đặc điểm và thành tựu nổi bật. Truyện và kí trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Về thể loại truyện, thời kì này có nhiều tác phẩm phản ánh hiện thực đen tối, ngột ngạt của nhân dân Việt Nam dƣới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật cùng không khí sục sôi của các phong trào Cách mạng. Tiêu biểu nhƣ Mò sâm panh (Nam Cao), Một phút yếu đuối (Nguyễn Huy Tƣởng). Đặc biệt là tập truyện ngắn Địa ngục và Lò lửa của Nguyên Hồng đã khắc họa hình ảnh những chiến sĩ anh dũng, kiên cƣờng đại diện cho lực lƣợng mới của dân tộc. Tiểu thuyết giai đoạn 1945 – 1975 chƣa có điều kiện phát triển nhiều. Tuy nhiên có thể kể đến một số tác phẩm nổi bật nhƣ: Nhà Phó Ba (Xuân Thu), Bên đường 12, Nhân dân tiến tới (Vũ Tú Nam), Xung kích (Nguyễn Đình Thi), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm), Con trâu (Nguyễn Văn Bổng),... Về thể loại kí, ngay ở những ngày đầu kháng chiến đã có những thiên kí sự, tùy bút ghi lại hình ảnh cả dân tộc: Lột xác (Nguyễn Tuân), Dân khí miền Trung (Hoài Thanh), Rãnh cày nổi dậy (Mạnh Phú Tƣ), Ở chiến khu (Nguyễn Huy Tƣởng),... Ngoài ra còn có bút kí Nhật kí đường trong, Ở mặt trận Nam Trung Bộ (Tô Hoài) các nhà văn cũng đã hƣớng tới hình ảnh trung tâm là những con ngƣời thời đại mới cùng sự thức tỉnh và phẩm chất của họ. Thể kí ở giai đoạn này cũng đã có sự phát triển và đạt đƣợc nhiều thành tựu với các tác phẩm tiêu biểu nhƣ: Chặt gọng kìm đường Số Bốn của Hoàng Lộc, Ngược sông Thao của Tô Hoài, Kí sự Cao – Lạng của Nguyễn Huy Tƣởng, Tình chiến dịch, Đường vui, Tùy bút kháng chiến của Nguyễn Tuân,.... 9 Nhìn chung, con ngƣời trong truyện và kí ở giai đoạn này không phải là con ngƣời trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, đời tƣ mà là con ngƣời mang tƣ cách công dân. Con ngƣời đƣợc thể hiện trên phƣơng diện con ngƣời chính trị và đƣợc đặt trong dòng chảy lịch sử với những biến cố của đời sống xã hội. Độc giả có thể bắt gặp ở những anh bộ đội trong tiểu thuyết Xung kích (Nguyễn Đình Thi), tình yêu làng của ông Hai trong truyện ngắn Làng (Kim Lân) hay nhân vật Mị, A Phủ trong Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), ngƣời lính trong kí sự Một cuộc chuẩn bị, Trận phố Ràng (Trần Đăng),.... Có thể thấy dù chƣa kết tinh đƣợc nhiều tác phẩm xuất sắc nhƣng truyện và kí giai đoạn này đã mở ra đƣợc hƣớng tiếp cận và phản ánh đời sống lịch sử xã hội, quan niệm nghệ thuật, con ngƣời,.... Và nó đã đóng góp một phần quan trọng vào quá trình phát triển của văn xuôi hiện đại. Truyện và kí trong mười năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm truyện trong thời kì này đã có sự mở rộng nội dung đề tài rõ rệt. Ngoài thể tài lịch sử dân tộc thì nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết đã hƣớng đến những vấn đề riêng tƣ, đời sống thế sự, những khát vọng đời thƣờng của con ngƣời lao động và những số phận của con ngƣời nhỏ bé trong xã hội: Mùa lạc, Đứa con nuôi, Chuyện người tổ trưởng máy kéo của Nguyễn Khải, Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phƣơng,... Bên cạnh đó cũng có nhiều tác phẩm truyện hƣớng về đề tài hiện thực, phản ánh những sự đổi thay của đất nƣớc và con ngƣời nhƣ tiểu thuyết Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm (Đào Vũ), truyện ngắn Đồng tháng Năm, Vụ mùa chưa gặt (Nguyễn Kiên),.... Ngoài ra, còn có nhiều đề tài theo khuynh hƣớng sử thi khai thác các vấn đề trong kháng chiến chống Pháp: Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Trên mảnh đất này (Hoàng Văn Bổn), Người người lớp lớp (Trần Dần), Đất lửa (Nguyễn Quang Sáng), Vượt Côn Đảo (Phùng Quán), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi),... Sau mƣời năm kháng chiến chống Pháp cũng đã xuất hiện nhiều cây bút chuyên truyện ngắn nhƣ Vũ Thị Thƣờng, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Kim Lân,... Về tiểu thuyết, đã xuất hiện tiểu loại có quy mô lớn toàn xã hội gồm nhiều sự 10 kiện, nhiều tuyến cốt truyện đan xen và hàng chục nhân vật có số phận, con đƣờng khác nhau trong dòng chảy của lịch sử nhƣ: Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tƣởng), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Cửa biển (Nguyên Hồng),... Thời kì này thể kí tuy không phát triển mạnh nhƣ thời kì trƣớc nhƣng cũng để lại nhiều tác phẩm đặc sắc nhƣ tập Sông Đà của Nguyễn Tuân. Nhìn chung, giai đoạn này đã hình thành đƣợc một số khuynh hƣớng rõ rệt, những phong cách viết truyện và kí đặc sắc, thành công và có bƣớc tiến mới trong xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật. Truyện và kí đã có bƣớc phát triển mạnh mẽ, toàn diện đặc biệt là sự mở rộng đề tài và phản ánh hiện thực đời sống nhân dân. Có rất nhiều tác phẩm thành công với đề tài kháng chiến chống thực dân Pháp: Một chuyện chép ở bệnh viện (Bùi Đức Ái), Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), và nhiều tập truyện ngắn khác của các nhà văn chiến sĩ nhƣ: Bùi Hiển, Nguyễn Kiên, Hữu Mai,.... Ngoài ra, nhiều tác phẩm có sự trở lại với đề tài nông dân và lấy bối cảnh những năm 1935 – 1945, tiêu biểu nhƣ: Tranh tối và tranh sáng, Đống rác cũ (Nguyễn Công Hoan), Mười năm (Tô Hoài), Cửa biển (Nguyên Hồng),... Truyện và kí trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ. Nhìn chung, truyện và kí trong thời kì này đều phản ánh cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, hƣớng đến bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam giành độc lập và giải phóng đất nƣớc thể hiện trong: tập truyện và kí Bức thư Cà Mau, Hòn đất (Anh Đức), Bông cẩm thạch, Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), Nguyễn Thi - Nguyễn Ngọc Tấn với tập truyện kí Người mẹ cầm súng và Ước mơ của đất, truyện ngắn và kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, tiểu thuyết Đất Quảng (Nguyễn Trung Thành),... Khuynh hƣớng sử thi bao trùm trong truyện và kí thời kì chống đế quốc Mĩ thể hiện ngay ở nhan đề: Rừng xà nu, Rừng U Minh, Dấu chân người lính, Hòn Đất,... Đó là những con ngƣời sử thi ý thức về vị trí của mình, thấu đƣợc những chân lí trong thời đại mình đang sống nhƣ lời cụ Mết trong Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành): “Kẻ thù đã cầm súng, chúng ta phải cầm lấy giáo” hay câu thề “Còn cái lai quần cũng đánh” của chị Út Tịch trong kí Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi,... 11 Nhân vật trong truyện và kí ở giai đoạn này đều đƣợc đặt trong mối quan hệ riêng chung, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã của chiến tranh để làm nổi bật lên phẩm chất tốt đẹp của họ: cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành), Út Tịch (Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi), Nguyễn Thị Hạnh (Ước mơ của đất – Nguyễn Thi), Nguyễn Văn Trỗi (Sống như anh – Trần Đình Vân), Nguyệt, Lãm (Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu),.... Chính khuynh hƣớng sử thi này đã tạo nên giọng điệu ngợi ca hào sảng, trang trọng, sùng kính cho các tác phẩm thuộc thể truyện và kí trong văn học kháng chiến chống Mĩ. 1.2. Nguyễn Thi và Truyện và kí của Nguyễn Thi 1.2.1. Tác giả Nguyễn Thi Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca (bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn), sinh ngày 15/5/1928, mất ngày 24/5/1968. Quê ở xã Quần Phƣơng Thƣợng, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Cha là Nguyễn Bội Quỳnh – một nhà giáo giàu lòng yêu nƣớc. Mẹ là Thành Thị Du, là vợ hai của giáo Quỳnh. Bà Du vốn là một ngƣời phụ nữ vừa có tài lại có sắc, lại rất đảm đang. Nguyễn Thi sinh ra trong một gia đình nghèo, đói khổ và bệnh tật. Nỗi buồn khổ của một gia đình tan nát đã ám ảnh ông suốt những tháng ngày thơ ấu. Khi gia đình sa sút, cuộc sống của hai mẹ con Hoàng Ca rất vất vả lại nơm nớp lo sợ những đòn ghen tuông từ ngƣời vợ cả của cha. Rồi cha mất, mẹ đi bƣớc nữa. Tuổi thơ của ông bắt đầu những tháng ngày bất hạnh, có lúc phải tự kiếm sống nhƣ một đứa trẻ lang thang. Năm lên 9 tuổi, cậu bé Hoàng Ca đã phải bắt đầu cuộc sống lƣu lạc, lúc bên ngoại khi bên nội, lúc lên Hà Nội khi lại về Nam Định. Cuộc sống tự lập đầy khó khăn, chịu bao sự ghẻ lạnh, hắt hủi đã tạo cho Nguyễn Ngọc Tấn vẻ bề ngoài lạnh lùng với nét mặt thƣờng xuyên đăm chiêu. Cuộc đời Nguyễn Thi là chuỗi ngày đầy biến động, gian khổ. Từ lúc còn nhỏ đến khi trƣởng thành ông phải gặp bao thử thách, chông gai nhƣng nhà văn đều vƣợt qua và hoàn thành ƣớc muốn, sứ mệnh cầm bút của mình. Năm 1943, ngƣời anh cùng cha khác mẹ định đƣa Tấn vào Sài Gòn ăn học nhƣng ông đã tự đi làm rồi đi học vì không muốn làm gánh nặng cho anh mình. Lúc 12 này, Tấn bắt đầu bị thu hút bởi những trang sách văn học từ hiện thực đến lãng mạn, từ Thâm Tâm đến Nam Cao,... Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Tấn còn học cả ngoại ngữ, nhạc, vẽ,... Năm 17 tuổi, Nguyễn Hoàng Ca tham gia cách mạng, làm thơ, viết văn với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Nhƣng sau đó, ông phải theo gia đình về Nam Định, ở đây Nguyễn Ngọc Tấn đã tham gia Trung đội lƣu động cảm tử Nguyễn Bình. Ông trở thành Đảng viên chính thức và cũng là duy nhất của tiểu đoàn 901. Tháng 12/1948, Nguyễn Ngọc Tấn đƣợc điều về làm cán bộ tuyên văn Ban chỉ huy tiểu đoàn. Thời gian này ông vừa lo việc thông tin, làm bích báo, cổ động, viết bài, làm thơ, vừa vẽ tranh cho Đoàn văn hóa kháng chiến. Tháng 1/1951, Nguyễn Ngọc Tấn đƣợc nhận giải thƣởng Văn nghệ Cửu Long về sáng tác nhiều thể loại. Năm 1954, Nguyễn Ngọc Tấn xây dựng gia đình với bà Bình Trang nhƣng chỉ sống chung trong thời gian ngắn ngủi thì họ phải chia li mỗi ngƣời một nơi. Tháng 12/1956, nhà văn đƣợc điều về tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ đây, Nguyễn Ngọc Tấn mới chuyên tâm làm việc mình yêu thích. Tháng 5 năm 1962, Nguyễn Ngọc Tấn xung phong vào Nam, đổi bút danh thành Nguyễn Thi (tên của con trai). Năm 1963, Nguyễn Thi về Mĩ Tho nhƣng đƣợc một năm ông lại vào Bến Tre. Tháng 5/1968, Nguyễn Thi theo một đơn vị pháo binh tham dự đợt Tổng tiến công Mậu Thân đợi 2 và đã anh dũng hi sinh vào ngày 24/5/1968 (Theo xác định mới nhất của Bảo tàng lực lƣợng Vũ trang miền Nam). 1.2.2. Qúa trình sáng tác Sự nghiệp văn học của Nguyễn Thi bắt đầu từ tập thơ Hương đồng nội vào năm 1950 với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn gồm 20 bài. Tác phẩm là tiếng lòng của con ngƣời tác giả khi bƣớc chập chững vào chặng đƣờng văn chƣơng mới đang tập quan sát, miêu tả và tự thể hiện nên chƣa đƣợc đánh giá cao. Hầu hết những sáng tác về thơ và truyện ngắn của anh là viết về những ngƣời tập kết, tâm tƣ, tình cảm của ngƣời tập kết. Nhƣng cho đến nay Nguyễn Thi vẫn đƣợc ít ngƣời biết đến với tƣ cách nhà thơ mà biết đến là một nhà văn tài năng. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và trong thời gian này nhà văn mới cảm nhận đƣợc sự gắn bó sâu sắc của mình với 13 miền Nam. Trƣớc khi quay lại chiến trƣờng miền Nam, Nguyễn Ngọc Tấn đã sáng tác hai tập truyện ngắn, mỗi tập gồm 7 truyện: Trăng sáng (1960), Đôi bạn (1962). Tập truyện ngắn đã thể hiện những mảng đề tài khá quen thuộc lúc bấy giờ là tấm lòng Bắc – Nam trong chia cắt, tình nghĩa quân dân giữa ngƣời dân miền Bắc cùng bộ đội miền Nam đi tập kết và tội ác của bọn đế quốc Mĩ xâm lƣợc. Sau hai chuyến vào năm 1963 và năm 1964 đi tìm hiểu lại chiến trƣờng, nhà văn mới bắt đầu viết những tác phẩm đầu tiên ở giai đoạn mới. Sáng tác của Nguyễn Thi gồm nhiều thể loại phong phú: thơ, bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết,... Hầu hết, truyện và kí viết trong thời kì chiến tranh của đồng bào miền Nam đƣợc tập hợp trong cuốn: Truyện và kí gồm 11 tác phẩm trong đó có 1 tiểu thuyết, 4 truyện ngắn, 2 kí, 3 tùy bút và 1 ghi chép. Bên cạnh đó, Nguyễn Thi cũng đang chuẩn bị tài liệu để cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết khác. Phần bản thảo còn lại đƣợc in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1970 nhƣng đó chỉ là đề cƣơng ông viết lần đầu và chƣa có phần kết thúc. Ngoài ra, ông cũng có rất nhiều tác phẩm đăng báo. Về thơ có các sáng tác tiêu biểu: Áo mới, Thu tháng bảy, Em về mặc áo, Tặng một con người,... Truyện và kí gồm: Trong xóm nhỏ (truyện ngắn), Chưa nói (truyện ngắn), Cha con (ghi chép), Im lặng (truyện ngắn), Một cuộc tranh luận (truyện ngắn), Những ngày cuối năm (bút kí), Những tên ngu dốt (bút kí), Trong rừng (bút kí), Tôi tập viết văn, Mùa mưa, Một cuốn truyện tốt của Hoàng Văn Bổn,... Sáng tác rất nhiều thể loại phong phú cho thấy đƣợc sức viết cũng nhƣ tài năng của Nguyễn Thi. Các tác phẩm này đa số viết về đề tài chiến tranh, ngƣời chiến sĩ Cách mạng,... Bởi lẽ trƣớc khi cầm bút ông đã cầm súng nên những gì nhà văn viết đều rất chân thực. Bản thân ông cũng cho rằng cảm hứng sáng tác của mình là từ anh em chiến sĩ. Một ngƣời bạn văn đã từng viết về ông: “Nguyễn Thi là nhà văn trƣởng thành từ chiến đấu. Trƣớc khi cầm bút anh đã cầm súng. Anh mồ côi cha từ nhỏ, sớm tham gia cách mạng. Cuộc sống tự lập, cuộc đấu tranh chịu đựng gạt bỏ những mất mát riêng tƣ trong tình cảm để lăn vào cuộc chiến đấu đã làm cho anh sớm có một bản lĩnh tạo ra một Nguyễn Thi, và sau này một phong cách Nguyễn Thi trong tác 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan