Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Luận văn hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên tỉnh bắc ninh dựa vào cộng đồ...

Tài liệu Luận văn hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên tỉnh bắc ninh dựa vào cộng đồng

.PDF
120
804
130

Mô tả:

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề 1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài Việc làm là một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia. Những công trình nghiên cứu lớn đã đưa ra những quan điểm về vấn đề giải quyết việc làm cho đối tượng thanh niên. ILO (Tổ chức lao động quốc tế) đã tiến hành nghiên cứu vấn đề an sinh xã hội của 10 nước công nghiệp. Họ chỉ ra rằng, một bộ phận dân cư nhất là thanh niên lâm vào tình trạng thất nghiệp nên bị ngừng hoặc giảm đáng kể về thu nhập. ILO cũng đưa ra những tiêu chuẩn của an sinh xã hội trong đó có trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp tai nạn nghề nghiệp. Ở Trung Quốc, những nhà nghiên cứu như Hồ Hiếu Nghĩa, Lý Bồi Lâm, Lý Cường, Mã Nhung đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu để thực hiện sự ổn định xã hội hài hòa. Vấn đề việc làm và việc thanh niên Trung Quốc phải đi làm thuê ở Trung Quốc đang nổi lên. Có thể thấy được tình cảnh này trong cuốn sách “Việc làm và an sinh xã hội: Bài toán khó trong thế kỷ mới” (NXB. Nhân dân Vân Nam - 2000) Ở Nhật Bản, tác giả Sato (2010) trong cuốn sách: “Thất nghiệp và an sinh xã hội” đã phân tích lỗ hổng của chế độ an sinh xã hội tạo ra sự gia tăng nạn thất nghiệp. Ở Mỹ, Margaret S.Malone đã phân tích sự thay đổi về dân số đã làm cho người thất nghiệp sẽ càng ngày càng nhiều hơn trong số những người đang ở độ tuổi lao động. Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra thanh niên là lực lượng trẻ cần được tiếp cận đầy đủ với giáo dục, y tế để trở thành động lực dẫn dắt sự phát triển của kinh tế toàn cầu. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki Mun đã khẳng định: “Lý tưởng và sự sáng tạo của tuổi trẻ là những nguồn tài nguyên quan trọng nhất mà bất kỳ quốc gia 1 nào cũng có”. Thế nhưng, một bộ phận của lực lượng lao động trẻ hiện nay vẫn đang thất nghiệp, thiếu việc làm hoặc có việc làm nhưng không phù hợp với khả năng, mong muốn. Thậm chí, một bộ phận thanh niên tuy có trình độ học vấn cao hơn trước nhưng vẫn gặp khó khăn khi tìm được những công việc ổn định và tương xứng với trình độ của mình. Trung bình một người trẻ phải mất khoảng 19 tháng kể từ sau khi tốt nghiệp mới có thể tìm được việc làm ổn định. Nhiều thanh niên tìm được việc làm nhưng chỉ là những công việc không quá đòi hỏi về trình độ, tay nghề, và như vậy mức thu nhập thấp, không đủ để trang trải cho cuộc sống. Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế, trong số 200 triệu người thất nghiệp trên toàn thế giới, có tới 73,3 triệu là thanh niên. Trong báo cáo “Xu hướng việc làm của thanh niên toàn cầu năm 2015”, ILO cũng cảnh báo về một thế hệ trẻ bị tổn thương do tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, thanh niên không được đào tạo, không tìm được các việc làm phù hợp, có chất lượng và thực trạng việc làm bấp bênh tại các quốc gia phát triển, cũng như sự gia tăng số lao động nghèo tại các nước đang phát triển. Báo cáo cũng cho biết, mặc dù số lao động trẻ trên thế giới không có việc làm trong thời gian qua đã giảm nhẹ so với giai đoạn trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, song các nhà kinh tế cảnh báo, những khó khăn từ nhiều lĩnh vực vẫn tác động đến thị trường việc làm, khiến tỷ lệ thất nghiệp ở nhiều khu vực sẽ còn ở mức cao kỷ lục, thậm chí tiếp tục gia tăng. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rất rõ ràng tác hại của việc thanh niên không có việc làm. Nhận thức rõ vai trò của giải quyết việc làm, đã có nhiều chủ trương, hoạch định đưa ra để giải quyết việc làm cho thanh niên, trong đó có nhiều biện pháp dựa vào cộng đồng. Như là: Tổng Giám đốc ILO G. Rai-đơ kêu gọi cộng đồng quốc tế khẩn trương hợp tác chặt chẽ trên quy mô toàn cầu để giải quyết vấn đề thanh niên thất nghiệp, thiếu việc làm, vì lợi ích kinh tế toàn cầu, hướng tới một thế giới bền vững hơn. ILO và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã đề nghị các nước xúc tiến nhiều giải pháp tạo việc làm cho giới trẻ, như: 2 Một là, áp dụng chính sách bảo đảm xã hội trong khuôn khổ các chính sách kinh tế vĩ mô bền vững và chiến lược phát triển trung và dài hạn cho những người sống trong đói, nghèo, kém may mắn để họ có thể hòa nhập được với xã hội. Hai là, áp dụng các chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế để người lao động có thể chuyển dịch từ các ngành công nghiệp dễ bị mất việc làm sang các ngành công nghiệp tạo nhiều việc làm. Ba là, đẩy mạnh các chính sách trợ cấp và bảo hiểm thất nghiệp; tạo thêm nhiều việc làm và đào tạo lại lực lượng lao động dư thừa. Bốn là, khai thác tiềm năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ qua việc cắt giảm các thủ tục hành chính, cung cấp tài chính, cũng như các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Năm là, mở rộng quy mô đầu tư và xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng kỷ nguyên mới về công bằng xã hội... Chính phủ ở một số quốc gia đang nỗ lực đưa ra các giải pháp tạo việc làm cho thanh niên. Tại châu Âu, tháng 02/2013, lãnh đạo các nước thành viên EU đã ban hành chương trình Sáng kiến việc làm thanh niên, áp dụng thực hiện từ tháng 01/2014. Tháng 6-2013, tại Hội nghị thượng đỉnh EU, các nhà lãnh đạo EU cũng quyết định dành 6 tỷ ơ-rô (khoảng 7,6 tỷ USD) tài trợ cho các chương trình tạo thêm việc làm cho thanh niên trong giai đoạn 2014 - 2020. Để đạt mục tiêu 75% số người trong độ tuổi lao động có việc làm vào năm 2020, các nhà lãnh đạo EU ban hành Chương trình bảo đảm việc làm cho thanh niên, áp dụng đối với thanh niên thất nghiệp từ 4 tháng trở lên; thành lập Liên minh học nghề châu Âu và những cách thức chống lại việc suy giảm động cơ phấn đấu của thanh niên. Chính phủ Anh đã khởi động chương trình “Việc làm cho thanh niên” từ tháng 4/2012, tạo cơ hội có việc làm cho khoảng 500 nghìn thanh niên dưới 24 tuổi, chủ yếu thông qua dạy nghề. Chính phủ Pháp chú trọng đào tạo nghề và cải cách thị trường lao động, với hai gói giải pháp về việc làm cho thanh niên và đặt mục tiêu tạo ra được 150 nghìn việc làm lao động phổ thông. Hy Lạp và Tây Ban Nha áp dụng các biện pháp “sốc” để giảm tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức cao nhất ở châu Âu. Tây Ban Nha chi 3,48 tỷ ơ-rô trong 4 năm 3 nhằm duy trì trợ cấp thất nghiệp, trong đó 32% là do EU tài trợ. Khoảng 35 nghìn thanh niên Hy Lạp ở độ tuổi dưới 30 đã tốt nghiệp phổ thông được trợ giúp thực tập nghề trong vài tháng với mức 5 ơ-rô/giờ và được hưởng bảo hiểm y tế. Trong khi đó, thanh niên Đức từ 16 tuổi trở lên có thể đăng ký học nghề trong 3 năm với danh sách khoảng 344 nghề để lựa chọn. Khoảng 40% số thanh niên Áo từ 15 tuổi được hướng nghiệp và học một nghề cơ bản trong 3 năm, trong đó 80% thời gian được thực hành tại các doanh nghiệp. Tại Mỹ, từ tháng 2/2009, Mỹ đã ký ban hành Luật Tái đầu tư và khôi phục, với trị giá 787 tỷ USD. Gói kích thích này giúp tạo thêm và bảo vệ 3,5 triệu việc làm, với 90% việc làm thuộc khu vực tư nhân. Các kế hoạch thúc đẩy kinh tế được công bố bao gồm: 200 hệ thống đường ống nước sinh hoạt và nước thải mới ở các khu vực nông thôn (tạo ra 125 nghìn việc làm), cùng với các dự án bảo dưỡng và xây dựng 98 sân bay, hơn 1.500 đường cao tốc, 107 công viên quốc gia. Ngoài ra, còn phải kể đến các dự án lớn khác như: mở rộng dịch vụ y tế đối với 300 nghìn bệnh nhân trên khắp nước Mỹ; tài trợ cho 135 nghìn việc làm trong ngành giáo dục; nâng cấp 90 trung tâm y tế; duy trì 5 nghìn việc làm trong lĩnh vực thực thi pháp luật; 1.300 dự án tái định cư và xây dựng tại 359 địa điểm quân sự… Tính đến tháng 1-2016, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất là 4,9% so với con số 7,2% trong 8 năm qua (năm 2008). Tại châu Á, nhằm khuyến khích sử dụng lao động trong nước và cũng để giảm gánh nặng thất nghiệp ở nước này, từ ngày 12-3-2016, Chính phủ Ma-lai-xi-a bắt đầu thực hiện chính sách hạn chế sử dụng lao động nước ngoài, theo đó, người sử dụng lao động ở Ma-lai-xi-a chỉ được phép tuyển những lao động nước ngoài đang ở Ma-lai-xi-a, bao gồm cả những người có giấy phép đã hết hạn. Người sử dụng lao động hoặc công ty môi giới lao động bị phát hiện có hành vi bao che cho việc sử dụng lao động nước ngoài bất hợp pháp sẽ đối mặt với án hình sự. Tạo việc làm mới cho thanh niên cũng là một trong những ưu tiên hàng đầu của Hàn Quốc. Tháng 8-2015, Bộ Kế hoạch - Tài chính Hàn Quốc đã đưa ra “Đối sách tổng hợp về tuyển dụng thanh niên”. Theo đó, tại các cơ quan, công ty nhà nước sẽ 4 tuyển thêm nhiều giáo viên và công chức hơn bằng việc mở rộng áp dụng chế độ nghỉ hưu sớm (chưa đủ tuổi về hưu theo quy định nhưng có số năm làm việc đạt tiêu chuẩn) cho các giáo viên, đơn giản hóa thủ tục tuyển dụng công chức được lựa chọn làm việc theo giờ. Ngoài ra, Chính phủ Hàn Quốc cũng sẽ giảm thuế hoặc hỗ trợ cho các doanh nghiệp tăng tuyển dụng lao động thanh niên. Doanh nghiệp tuyển nhân viên chính thức là thanh niên trong năm hiện tại nhiều hơn so với năm trước sẽ được hưởng ưu đãi khấu trừ thuế; hoặc áp dụng quy định kéo dài độ tuổi về hưu, giảm dần lương theo giai đoạn và tăng thêm việc làm sẽ được chính phủ nước này hỗ trợ 9.250USD/người trong vòng 2 năm. Như vậy, để ứng phó với những thách thức về vấn đề việc làm của giới trẻ toàn cầu đòi hỏi những cách tiếp cận phù hợp và đa dạng trong đó giải quyết việc làm cho thanh niên dựa vào nguồn lực cộng đồng là một giải pháp nhiều hữu ích. 2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về giải quyết việc làm cho thanh niên Giải quyết việc làm cho thanh niên là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng. Chủ trương giải quyết việc làm cho thanh niên ở Việt Nam được thể hiện cụ thể theo từng giai đoạn cách mạng của lịch sử dân tộc. Cụ thể: 2.2.1. Thời kỳ trước đổi mới Chủ trương giải quyết việc làm cho thanh niên được nằm trong chủ trương chung của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội: * Giai đoạn 1945- 1954: Ngay sau Cách mạng Tháng Tám và trong những năm thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc, chính sách xã hội của Đảng ta được chỉ đạo bởi tư tưởng: Chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân ta cứ chết đói, chết rét, thì tự đo, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Do đó, chính sách xã hội cấp bách lúc này là làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Tiếp sau đó là làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu 5 thì giàu thêm. Chủ trương này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và đạt được những hiệu quả thiết thực. Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình Dân chủ nhân dân: Chính phủ có chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân chủ động và tự tổ chức giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình. Chính sách tăng gia sản xuất (nhằm tự cấp tự túc), chủ trương tiết kiệm, đồng cam cộng khổ trở thành phong trào rộng rãi, từ cơ quan chính phủ đến bộ đội, dân chúng, được coi trọng như đánh giặc. Khuyến khích mọi thành phần xã hội phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Thực hiện chính sách điều hòa lợi ích giữa chủ và thợ. * Giai đoạn 1955 - 1975: Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, trong hoàn cành chiến tranh. Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp tràn lan dựa vào viện trợ. * Giai đoạn 1975 - 1985: Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô lập và cấm vận. Có thể nói, chính sách xã hội trong 9 năm kháng chiến, kiến quốc, tiếp sau đó là thời bao cấp tuy có nhiều nhược điểm và hạn chế nhưng đã bảo đảm đuợc sự ổn định của xã hội, đồng thời còn đạt được thành tựu phát triển đáng tự hào trên một số lĩnh vực như văn hóa, giáo dục, y tế, lối sống, đạo đức, kỷ cương và an ninh xã hội, hoàn thành nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Những thành tựu đó nói lên bản chất tốt đẹp của chế độ mới và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong giải quyết các vẩn đề xã hội trong điều kiện chiến tranh kéo dài, kinh tế chậm phát triển. . Bên cạnh những thành tựu này, chủ trương giải quyết vấn đề xã hội trong đó có giải quyết việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên còn mắc phải những hạn chế nhất định, đó là: Trong xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà 6 nước và tập thể trong cách giải quyết các vấn đề xã hội; chế độ phân phối trên thực tế là bình quân, cào bằng không khuyến khích những đơn vị, cá nhân làm tốt, làm giỏi, v.v... Đã hình thành một xã hội đóng, ổn định nhưng kém năng động, chậm phát triển về nhiều mặt. Nguyên nhân cơ bản của các hạn chế trên là chúng ta đặt chưa đúng tầm chính sách xã hội trong quan hệ với chính sách của lĩnh vực khác, đồng thời lại áp dụng và duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. 2.2.2. Trong thời kỳ đổi mới * Tại Đại hội VI của Đảng (12/1986), lần đầu tiên Đảng ta nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách xã hội, đặt rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội đối với chính sách kinh tế và chính sách ở các lĩnh vực khác. Đại hội cho rằng trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội nhưng những mục tiêu xã hội là mục đích của các hoạt động kinh tế. Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm... Do đó, cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài, phù hợp với yêu cầu và khả năng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. * Tại Đại hội VII của Đảng (6/1991), mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở chỗ đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện, các chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy, thời điểm này, chính sách giải quyết việc làm đã được hoạch rõ nét hơn. * Tại Đại hội VIII của Đảng (6/1996), hệ thống chính sách xã hội trong đó có chính sách giải quyết việc làm cho người lao động trong đó chủ yếu là cho thanh niên được Đảng chủ trương phải được hoạch định theo những quan điểm sau đây: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất cũng như ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình; 7 Thực hiện nhiều hình thức phân phối; Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo; Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. * Tại Đại hội IX của Đảng (4/2001), các chính sách xã hội trong đó có giải quyết việc làm được chủ trương phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. * Từ Đại hội lần thứ X của Đảng đến nay: Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên, coi thanh niên là lực lượng xung kích, kế tục sự nghiệp cách mạng. Giải quyết việc làm cho thanh niên là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Hội nghị Trung ương 7 khóa X chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên”. Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành các chính sách và hệ thống văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho việc giải quyết việc làm cho thanh niên, từng bước hội nhập thị trường lao động quốc tế. Luật dạy nghề ban hành ngày 29/11/2006, quy định " đầu tư mở rộng các cơ sở dạy nghề, nâng cao chất lượng dạy nghề góp phần bảo đảm cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần thực hiện phân luồng học sinh tốt nghiệp THCS và THPT; tạo điều kiện phổ cập nghề cho thanh niên..." Luật thanh niên ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005 , quy định: "Nhà nước có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân giải quyết việc làm cho thanh niên; ưu đãi thuế, tín dụng, đất đai để phát triển giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu đa dạng về học nghề cho thanh niên; Phát triển hệ thống các cơ sở dịch vụ tư vấn giúp thanh niên tiếp cận thị trường". Năm 2008 Thủ tướng Chính phủ đã bàn hành Quyết định 103/2008/QĐ- TTg phê duyệt Đề án “Hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008 - 2010”, mục tiêu: Nâng cao chất lượng dạy nghề, tạo việc làm 8 cho thanh niên. Năm 2009 thủ tướng chính phủ ban hành quyết định 1956/QĐ-TTg phê duyệt đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020. Theo đề án lao động thuộc hộ gia đình chính sách học nghề ngắn hạn được miễn học phí, hỗ trợ tiền ăn 15000 đồng 1 ngày, tiền đi lai; hộ cận nghèo hỗ trợ 2,5 triệu đồng, hộ khác 2 triệu đồng 1 khóa học dưới 3 tháng. Các giáo viên dạy nghề cũng được hỗ trợ. Đặc biệt ngày 16 tháng 11 năm 2013 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành luật Việc làm với 7 Chương, 61 Điều đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc giải quyết việc làm cho người lao động, trong đó đối tượng người lao động chủ yếu là độ tuổi thanh niên. Việc triển khai các Chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; Chương trình phát triển công nghiệp, dịch vụ; Chương trình xây dựng và phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao và các dự án kinh tế trọng điểm, đã góp phần giải quyết việc làm, từng bước nâng cao đời sống nhân dân, trong đó một phần lớn là lao động trẻ. Hằng năm, các chương trình, dự án này đã giải quyết việc làm cho 1,2 triệu lao động. Mặt khác, thông qua các nguồn lực hỗ trợ, sự lồng ghép với các chương trình mục tiêu quốc gia và thực hiện các dự án phát triển kết cấu hạ tầng, dự án tín dụng việc làm với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm, đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, tạo việc làm cho thanh niên. Việc triển khai các mô hình thanh niên hỗ trợ nhau lập thân, lập nghiệp để phát triển sản xuất do Đoàn Thanh niên các cấp phát động đã đạt được kết quả tích cực. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã có nhiều biện pháp hỗ trợ thanh niên về hướng nghiệp việc làm. Để thanh niên có cơ hội tìm được việc làm, công tác đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, hướng nghiệp cho thanh niên được đẩy mạnh. Hoạt động đào tạo được đa dạng hóa về loại hình. Bên cạnh hệ thống các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học công lập, còn mở rộng các trường dân lập, nên thanh niên có nhiều cơ hội được học tập. Thực hiện nghị quyết về công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, chính sách giải quyết việc làm cho thanh niên được các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể quan tâm. Nhiều địa phương đã xác định hoạt động 9 hướng nghiệp và tạo việc làm là một khâu đột phá trong công tác tập hợp, đoàn kết thanh niên. Mặc dù chất lượng nguồn nhân lực thanh niên trong những năm qua đã có những chuyển biến tích cực, số thanh niên thiếu việc làm ngày càng giảm, song trên thực tế nguồn nhân lực thanh niên vẫn chưa theo kịp yêu cầu của thị trường lao động trong nước và quốc tế. 2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 2.1. Việc làm và giải quyết việc làm 2.1.1. Việc làm, thất nghiệp * Việc làm: - Khái niệm việc làm: Là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, là vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Tại hội nghị quốc tế lần thứ 13 của tổ chức lao động thế giới (ILO), các nhà thống kê lao động đã đưa ra khái niệm người có việc làm như sau: Người có việc làm là những người làm việc gì đó có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc người tham gia và các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật. Theo Bộ luật lao động thì: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Còn theo từ điển Tiếng việt (xuất bản năm 1992) xác định việc làm như sau: 1. Hành động cụ thể; 2. Công việc được giao cho làm và được trả tiền công. Như vậy, việc làm được nhận thức là những hoạt động lao động có ích cho bản thân, gia đình và xã hội và được thể hiện dưới các hình thức: Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật hoặc để đổi công. Các công việc tự làm để thu lợi cho bản thân. Làm các công việc nhằm tạo thu nhập (bằng tiền hoặc hiện vật) cho gia đình mình nhưng không hưởng tiền lương tiền công. 10 Hiện nay quan niệm về việc làm đã có nhiều thay đổi, trong thời kỳ bao cấp, người lao động được coi là có việc làm khi họ tiến hành những công việc đòi hỏi một chuyên môn nào đó, tạo thu nhập nhất định; người có việc làm hoặc phải thuộc biên chế Nhà nước, hoặc làm việc trong các hợp tác xã... Theo cách hiểu này, khái niệm việc làm không tính đến những người lao động đang làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân, cá thể, hay làm việc tại nhà. Do quan niệm máy móc như vậy và để đảm bảo tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội nên trong xã hội không thừa nhận thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư thừa. Quan niệm này đã hạn chế rất lớn hoạt động lao động sản xuất của con người, triệt tiêu nhiều tiềm năng sáng tạo, tính chủ động của họ trong quá trình hoạt động thực tiễn. Hiện nay quan niệm này đã thay đổi, người có việc làm không thất thiết phải vào biên chế nhà nước mà có thể làm việc ở mọi thành phần kinh tế hoặc do bản thân người lao động tự tạo ra để có thu nhập. Việc đổi mới nhận thức về việc làm đã đưa đến sự đổi mới nhận thức, quan niệm về chính sách, biện pháp giải quyết việc làm trong điều kiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo hướng khơi dậy mọi nguồn lực và và khả năng to lớn nhằm giải phóng sức lao động, giải quyết việc làm cho người lao động ở mọi thành phần kinh tế, ở mọi khu vực, trong đó đặc biệt chú ý đến khả năng tự tạo việc làm của chính bản thân người lao động. Hơn nữa, quan niệm mới hiện nay không chỉ chú ý đảm bảo có đủ việc làm cho người lao động, mà còn coi trọng nâng cao chất lượng việc làm tiến tới việc làm có năng suất, có thu nhập cao và được tự do lựa chọn việc làm, tức là đảm bảo tính nhân văn của việc làm. Người có việc làm: Là người có đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ liền kề trước thời điểm điều tra có thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có việc làm. ở nhiều nước sử dụng mức chuẩn này là 1 giờ, còn ở nước ta mức chuẩn này là 8 giờ. Riêng với những người trong tuần lễ tham khảo không có việc làm vì các lý do bất khả kháng hoặc do nghỉ ốm, thai sản, nghỉ phép, nghỉ hè, đi học có hưởng lương, nhưng trước đó họ đã có một công việc nào đó với thời gian thực tế làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có việc làm và họ sẽ tiếp tục trở 11 lại làm việc bình thường sau thời gian tạm nghỉ, vẫn được tính là người có việc làm. Căn cứ vào chế độ làm việc, thời gian thực tế và nhu cầu làm thêm của người được xác định là có việc làm trong tuần lễ trước điều tra. Người có việc làm chia thành hai nhóm: Người đủ việc làm và người thiếu việc làm. Người đủ việc làm: Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo lớn hơn hoặc bằng 36 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn 36 giờ nhưng bằng hoặc lớn hơn số giờ quy định đối với người làm các công việc nặng nhọc, độc hại. - Người thiếu việc làm: Là người có số thời gian làm việc trong tuần lễ tham khảo dưới 36 giờ, hoặc ít hơn giờ chế độ quy định đối với các công việc nặng nhọc, độc hại, có nhu cầu làm thêm giờ và sẵn sàng làm việc khi có việc làm. - Vai trò của việc làm Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân. Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cá nhân, thực tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào những vùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng,..), vào những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, trình độ văn hoá thấp,..). Việc không có việc làm trong dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến thức, trình độ vốn có. Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu vào không thể thay thế đối với một số ngành, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc làm cho từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và kinh tế, 12 tức là luôn bảo đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bền vững, ngược lại nó cũng duy trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động. Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động tích cực, mặt khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã hội đó được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội , không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ…Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm cho người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động ngoài việc đảm bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự hoàn thiện, vì vậy trong nhiều trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Ngoài ra khi không có vệc làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu nghèo là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và nó ảnh hưởng đến tình hình chính trị. Vai trò của việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi Nhà nước phải có những chiến lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này. * Thất nghiệp - Khái niệm thất nghiệp Thất nghiệp là từ Hán - Việt (thất: mất mát, nghiệp là việc làm) chỉ tình trạng không có việc làm mang lại thu nhập, người cần có việc làm nhưng lại không có việc sẽ gặp khó khăn hoặc không thể chi trả các khoản đóng góp, thuế, nợ nần…Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, mại dâm…Theo luật lao động nước ta sửa đổi và bổ sung năm 2002: “Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng chưa tìm được việc làm”. Căn cứ vào thời gian thất nghiệp mà người ta chia thất nghiệp ra thành thất nghiệp dài hạn và thất nghiệp ngắn hạn. 13 Thất nghiệp dài hạn là thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc tính từ thời điểm điều tra trở về trước. Những người không thuộc lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (còn được gọi là dân số không hoạt động kinh tế) bao gồm: Toàn bộ số người chưa đủ từ 15 tuổi trở lên nên không thuộc bộ phận người có việc làm và thất nghiệp. Những người không hoạt động kinh tế vì các lý do: Đang đi học, đang làm công việc nội trợ cho gia đình, già cả ốm đau kéo dài, tàn tật không có khả năng lao động, tình trạng khác. Người thất nghiệp năm 2006, khái niệm “người thất nghiệp” đã được luật hóa và trở thành thuật ngữ pháp lý tại khoản 4 điều 3 Luật BHXH. Theo đó, người thất nghiệp được định nghĩa là: “Người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp dồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm”. Theo bộ luật lao động Việt Nam, thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng chưa tìm được việc làm mang lại thu nhập, trừ những người đang nghỉ làm theo quy định của luật lao động. Như vậy người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm theo quy định. Căn cứ vào thời gian thất nghiệp, người thất nghiệp được chia thành: Thất nghiệp ngắn hạn và thất nghiệp dài hạn. - Ảnh hưởng của thất nghiệp Thất nghiệp làm cho một bộ phận của lực lượng lao động không được tham gia vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất và những giá trị tinh thần cho xã hội. Vì vậy, thất nghiệp ảnh hưởng tới mức sản lượng của một quốc gia. Hơn nữa, xã hội còn phải mất thêm chi phí trợ cấp cho những người thất nghiệp nhằm làm giảm bớt khó khăn trong đời sống của họ. Thất nghiệp làm cho những người thất nghiệp và gia đình họ gặp khó khăn về kinh tế, họ càng khó khăn hơn trong việc tiếp cận với các dịch vụ giáo dục và y tế, sức khoẻ và trình độ hạn chế sẽ ảnh hưởng lâu dài đến năng lực làm việc của gia đình họ và từ đó ảnh hưởng đến xã hội. Với 14 lao động nông thôn, thất nghiệp và thiếu việc làm ảnh hưởng to lớn đến phát triển kinh tế nông thôn nói riêng và toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Thất nghiệp và thiếu việc làm dẫn đến thu nhập của người dân thấp nên họ không có khả năng áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, không có khả năng mở mang sản xuất các ngành nghề phi nông nghiệp. Điều đó làm cho cơ cấu kinh tế nông thôn dịch chuyển chậm, hiệu quả kinh tế thấp. Nông thôn là nơi cung cấp nguồn lao động cho các ngành của nền kinh tế quốc dân. Nguồn lao động đó phải có chất lượng cao, điều đó không thể đạt được khi hiện tượng thiếu việc làm và thu nhập thấp vẫn gay gắt ở nông thôn. Do vậy, thiếu việc làm và thu nhập thấp ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Thất nghiệp ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý xã hội, con người được làm việc trước hết là nhằm tạo ra thu nhập để ổn định cuộc sống. Không có việc làm đồng nghĩa với không có thu nhập, cuộc sống khó khăn con người trở lên cùng quẫn, dẫn đến buồn chán với những suy nghĩ và hành động tiêu cực. Lao động và việc làm còn thể hiện được vai trò và vị trí của con người trong xã hội. Không có việc làm con người cảm thấy bơ vơ như bị bỏ rơi gây tâm lý hụt hẫng. Ngoài ra qua lao động con người luôn thể hiện được khả năng của mình và không ngừng nâng cao và hoàn thiện khả năng ấy, thông qua lao động con người cũng không ngừng được giao tiếp và học hỏi từ đó con người ngày cang hoàn thiện khả năng lao động cùng nhân cách của họ. Như vậy, lao động làm cho con người ngày càng hoàn thiện, vì thế nếu không có việc làm con người không thể phát triển và họ luôn cảm thấy họ bị bỏ ra ngoài lề xã hội. Không có việc làm không chỉ ảnh hưởng đến tâm lý của bản thân người thất nghiêp mà còn ảnh hưởng đến những người thân của họ. Từ những khó khăn trong cuộc sống và sự tổn thương về tâm lý làm cho người thất nghiệp dễ có những hành vi ảnh hưởng đến sự ổn định và an toàn xã hội. Thất nghiệp ảnh hưởng đến sự ổn định và an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác bừa bãi như phá rừng, đánh bắt hải sản bằng thuốc nổ và xung điện, khai thác vàng bạc, đá quý, thiếc, quặng sắt và than thổ phỉ...một cách tự do và bừa bãi làm huỷ hoại các nguồn 15 tài nguyên và huỷ hoại môi trường. Bên cạnh đó, thất nghiệp, thiếu việc làm và thu nhập thấp còn kéo theo rất nhiều những tệ nạn như buôn bán và sử dụng chất ma tuý, buôn lậu, mại dâm, trộm cắp...cùng với dòng người di cư tìm việc làm từ thành phố về mang theo những tệ nạn khác làm cho cuộc sống nông thôn không được bình yên, phá hỏng những thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng. 2.1.2. Giải quyết việc làm * Khái niệm Giải quyết việc làm Trong nền kinh tế thị trường, giải quyết việc làm thông qua quan hệ cung - cầu và quy luật cạnh tranh trên thị trường lao động. Các quy luật này có khả năng điều tiết việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực lao động của xã hội. Kinh tế thị trường có mặt tích cực là bảo đảm quyền tự do lựa chọn việc làm của người lao động và chọn người làm việc của người sử dụng lao động, kích thích tính tích cực, năng động, sáng tạo của cả hai chủ thể này, điều chỉnh một cách linh hoạt nhu cầu lao động xã hội. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của cơ chế này là tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường lao động, dễ dàng loại bỏ những đối tượng yếu thế như: Người khuyết tật, người dân tộc thiểu số thiếu kiến thức, kỹ năng, chủ sản xuất kinh doanh nhỏ tiềm lực yếu… càng khoét sâu khoảng cách phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Giải quyết việc làm cho người lao động là việc tạo cho người lao động từ chỗ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm, việc làm không đầy đủ trở thành người có việc làm và có thu nhập từ việc làm đó. Có thể phân tích một số khía cạnh liên quan đến giải quyết việc làm như sau: Giải quyết việc làm là tạo ra chỗ làm việc mới cho người lao động có nhu cầu về việc làm và có khả năng đáp ứng yêu cầu của việc làm đó. Khi người lao động hội tụ đủ những điều kiện này, họ tham gia làm việc và có thu nhập từ việc làm đó. (Nguyễn Thị Kim Ngân, 2009). Giải quyết việc làm là hỗ trợ người lao động tìm được việc làm phù hợp với nhu cầu và khả năng của họ như: cung cấp thông tin về cơ hội việc làm, hỗ trợ đào 16 tạo nghề và nâng cao kỹ năng cho người lao động, tổ chức ngày hội hoặc các sàn giao dịch việc làm để người lao động gặp gỡ người sử dụng lao động ... (Chu Tiến Quang,2001). Giải quyết việc làm còn là khuyến khích, tạo điều kiện cho người lao động tự tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm phù hợp với điều kiện, với khả năng và trình độ của bản thân. Giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp, những người chưa có việc làm và đang mong muốn được làm việc, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến lực lượng thanh niên - đối tượng mới gia nhập thị trường lao động (Nguyễn Thị Thu Hà, 2012). Đối với một quốc gia có cơ cấu “dân số vàng”, có lực lượng lao động dồi dào như nước ta, giải quyết việc làm cho người lao động là vấn đề quan trọng và cấp bách hàng đầu. Điều 13, chương II, Bộ luật Lao động của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ: “Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục chỉ rõ: “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”. Do đó có thể thấy giải quyết việc làm vấn đề cần thiết, cấp bách, mang tính chiến lược của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Căn cứ vào mục đích nghiên cứu sẽ có nhiều cách tiếp cận vấn đề giải quyết việc làm. Phạm vi nghiên cứu của đề tài này có thể đưa ra khái niệm: Giải quyết việc làm là tạo ra các chỗ làm việc phù hợp với trình độ, khả năng của người lao động, đáp ứng nhu cầu của người lao động, người sử dụng lao động và yêu cầu phát triển của đất nước. Với khái niệm trên, giải quyết việc làm không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước mà còn là trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức chính trị, xã hội và của toàn xã hội. Trong đó, nhà nước có vai trò, trách nhiệm rất 17 quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, ban hành các cơ chế, chính sách tạo việc làm, hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động. * Ý nghĩa giải quyết việc làm Tạo nguồn thu nhập, ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cho người lao động. Người có việc làm giúp họ tạo ra thu nhập hợp pháp, chính đáng từ đó ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống để ổn định xã hội, phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội: Người thất nghiệp bắt buộc họ phải đi làm nhiều công việc khác để kiếm thu nhập trang trải cuộc sống. Đôi khi vì mục đích kiếm tiền mà động đã làm những công việc trái pháp luật mà bản chất họ không phải như vậy. Do thất nghiệp mà có thời gian thừa cộng với tâm lý chán nản, thích thể hiện sẽ dẫn tới các hoạt động phạm pháp, tệ nạn xã hội tăng gây áp lực cho xã hội. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người lao động sẽ góp phần, ổn định an ninh - chính trị. Tăng trưởng kinh tế: Mỗi địa phương đều có nguồn lực, giải quyết việc làm cho người lao động không những có lợi cho chính bản thân và gia đình họ mà còn khai thác phát huy tiềm năng, lợi thế thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh tăng sản phẩm cho xã hội, kinh tế tăng trưởng. Góp phần đảm bảo công bằng xã hội: Mọi người lao động có việc làm sẽ rút ngắn được khoảng cách giàu nghèo trong xã hội làm cho xã hội công bằng hơn, phát huy được khả năng sáng tạo của lao động. Có việc làm giúp thúc đẩy nông thôn phát triển, giảm khoảng cách giàu ngheo giữa nông thôn và thành thị, giảm áp lực di cư lên thành thị. Khi người lao động có việc làm sẽ mang lại thu nhập cho bản thân họ và từ đó tạo ra tích lũy. Nhà nước không những không phải chi trợ cấp cho những người nghèo người thất nghiệp, dẫn đến tăng tích lũy cho nền kinh tế quốc dân. Tăng tích lũy sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, thu hút thêm nhiều lao động. Mặt khác, khi người lao động có thu nhập, họ sẽ tăng tiêu dùng từ đó làm tăng sức mua cho xã hội, tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. 18 2.2. Thanh niên, giải quyết việc làm cho thanh niên 2.2.1. Thanh niên * Khái niệm Thanh niên Theo Điều 1 Luật Thanh niên (năm 2005): Thanh niên là một nhóm xã hội nhân khẩu đặc thù bao gồm những người trong một độ tuổi nhất định, có sự phát triển nhanh chóng về thể chất, tâm lý, trí tuệ, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội; có mối quan hệ gắn bó mật thiết với tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; là lực lượng xã hội to lớn đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển trong tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc. * Đặc điểm, vai trò của thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội Thanh niên là một giai đoạn phát triển trong cuộc đời của con người. Đặc điểm lớn nhất của tuổi thanh niên là chấm đứt giai đoạn trẻ em để trở thành người lớn, người trưởng thành. Đặc điểm này thường được thể hiện ở việc xác định độ tuổi thanh niên. Thanh niên Việt Nam được xác định là công dân Việt Nam có độ tuổi từ 16-30 (Luật Thanh niên được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005). Theo Báo cáo khái quát tình hình thanh niên giai đoạn 2008 – 2011 của Viện nghiên cứu thanh niên: Thanh niên Việt Nam (16 - 30 tuổi) có 25.328.073 người chiếm 28,9% dân số cả nước, trong đó nam chiếm 50,6% và nữ chiếm 49,4%. Trong văn kiện Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ X nhiệm kỳ 2012 – 2017 nhận định tỷ lệ thanh niên trong tổng số dân cả nước và trong lực lượng lao động xã hội trong những năm gần đây có xu hướng giảm nhẹ, Tuy nhiên, trong tương quan xã hội, thanh niên vẫn là lực lượng đông đảo, có tiềm năng to lớn trên mọi lĩnh vực, đã và đang giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Thanh niên là thời kỳ kế tiếp của lứa tuổi thiếu niên nhưng đây là giai đoạn phát triển rất cao về thể chất và nhân cách. Sự phát triển về thể chất là điều rất có ý nghĩa để từ đó thấy được sức mạnh, vai trò của họ trước yêu cầu của đời sống tự thân cũng như gia đình và xã hội, nhất là những khả năng và nhiệm vụ mà họ phải đảm đương. 19 Thanh niên là "rường cột của nước nhà", "chủ nhân tương lai của đất nước" như Bác Hồ đã nói. Vì vậy, trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, cần phải có một cách nhìn, một sự nhận thức mới và hành động đúng đắn về những động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, phải hết sức coi trọng nguồi lực lao động thanh niên, quan tâm đến tất cả các mặt: Số lượng, chất lượng, cơ cấu và tổ chức quản lý, sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động thanh niên của các ngành, các cấp ở các địa phương. Thanh niên đã và đang là lực lượng lao động đông đảo có mặt trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước để lao động sáng tạo - sản xuất kinh doanh một cách trực tiếp, gián tiếp tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Bởi vậy, thanh niên có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của đất nước (Nghị quyết Đại hội toàn quốc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ X). 2.2.2. Giải quyết việc làm cho thanh niên * Hiểu về giải quyết việc làm cho thanh niên Theo phạm vi rộng, giải quyết việc làm cho thanh niên bao gồm những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn nhân lực và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trẻ. Tức là quá trình đó diễn ra bắt đầu từ vấn đề giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc đời lao động, đến vấn đề tự do lao động và hưởng thụ xứng đáng với giá trị mà lao động sáng tạo ra (Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung, 1997). Theo phạm vi hẹp, giải quyết việc làm cho thanh niên chủ yếu hướng vào đối tượng và mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả việc làm và tăng thu nhập cho cho đối tượng thanh niên. Tức là, chỉ giới hạn nội dung giải quyết việc làm trong khuôn khổ và phạm vi của chính sách xã hội (Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung, 1997). Như vậy, giải quyết việc làm theo phạm vi rộng và hẹp trên đây đều có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và đan xen vào nhau, đều hướng vào mục tiêu hàng đầu là sử dụng tối đa tiềm năng lao động thanh niên. Nhà nước có chức năng quản lý xã hội vì vậy, để giải quyết việc làm cho thanh niên, Nhà nước phải ban hành 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng