VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ GIANG
HỎI CUNG BỊ CAN TRONG VỤ ÁNTHAM Ô TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄNĐIỀU TRA TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ GIANG
HỎI CUNG BỊ CAN TRONG VỤ ÁN THAM Ô TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN ĐIỀU TRA TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN LUYỆN
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ trong Luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình khoa học nào khác.
Tác giả
Hà Giang
LỜI CÁM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực
tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy của các thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của
cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành
Luận văn thạc sỹ Luật hình sự và tố tụng hình sự. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm
ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng các thầy cô Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt
nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại đây.
Cám ơn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ninh và Công an tỉnh Quảng Ninh đã giúp đỡ rất nhiều để tôi
hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Trần Văn
Luyện, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện Luận văn.
Cám ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian học tập.
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN
VÀ HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG TRONG VỤ ÁN THAM Ô TÀI SẢN ..... 5
1.1. Nhận thức chung về tội phạm tham ô tài sản. ...................................... 5
1.2. Một số vấn đề cơ bản về chiến thuật hỏi cung bị can trong quá
trình điều tra vụ án tham ô tài sản. ............................................................ 15
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN VÀ THỰC TRẠNG HỎI CUNG BỊ
CAN TRONG VỤ ÁN THAM Ô TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐIỀU
TRA TỈNH QUẢNG NINH .......................................................................... 34
2.1. Những quy định của pháp luật về hoạt động hỏi cung bị can............ 34
2.2. Một số kết quả điều tra, xử lý các vụ án tham ô tài sản..................... 35
2.3. Thực trạng hoạt động hỏi cung bị can trong các vụ án tham ô tài
sản của lực lượng Cảnh sát điều tra .......................................................... 41
2.4. Nhận xét, đánh giá ............................................................................. 52
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN TRONG VỤ ÁN
THAM Ô TÀI SẢN ....................................................................................... 54
3.1. Dự báo tình hình tội phạm tham ô tài sản trong những năm tới và
những khó khăn trong công tác hỏi cung bị can. ...................................... 54
3.2 Một số kiến nghị ................................................................................. 58
3.3. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can
trong vụ án tham ô tài sản ......................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 77
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CSĐT
Cảnh sát điều tra
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
BLHS
Bộ luật hình sự
ĐTV
Điều tra viên
CSKT
Cảnh sát kinh tế
TNHH 1 TV
Trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên
NN&PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
CQĐT
Cơ quan điều tra
CĐTS
Chiếm đoạt tài sản
CVQH
Chức vụ quyền hạn
CQ ANĐT
Cơ quan an ninh điều tra
TS
Tài sản
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai đoạn Điều tra là công việc đầu tiên của hoạt động tố tụng hình sự, có vai
trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Để thu thập chứng cứ trong
giai đoạn này, Cơ quan điều tra được tiến hành các biện pháp điều tra theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hoạt động điều tra là bắt buộc đối với tất cả các vụ án
hình sự, thiếu hoạt động điều tra, Viện kiểm sát không có cơ sở để truy tố, Tòa án
không có cơ sở để xét xử vụ án. Chính vì vậy mà pháp luật tố tụng hình sự quy định
rất chặt chẽ về các biện pháp điều tra. Điều này được thể hiện trong Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 của Nhà nước Cộng hòa
XHCNViệt Nam, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 2004 và luật Tổ chức cơ quan
điều tra hình sự năm 2015 các văn bản chuyên ngành khác. Trong những biện pháp
điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, hỏi cung bị can là biện pháp có
vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Qua hỏi cung bị can giúp Cơ quan điều tra làm rõ
sự thật khách quan của vụ án, làm rõ được âm mưu, ý đồ, động cơ, hành vi phạm tội
của bị can và đồng bọn. Đồng thời hỏi cung còn tạo điều kiện mở rộng công tác
điều tra, giúp phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm có hiệu quả. Với ý nghĩa ấy hỏi
cung bị can đựơc xem là hoạt động trọng yếu của quá trình điều tra vụ án.
Trong thời gian qua, những vấn đề lý luận cơ bản về hỏi cung bị can đã được
quan tâm tuy nhiên việc nghiên cứu hỏi cung bị can đối với mỗi tội riêng biệt là rất ít.
Vì vậy, việc nghiên cứu về hỏi cung bị can trong vụ án Tham ô tài sản có ý nghĩa về
mặt lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, là nhiệm vụ đặt ra không chỉ
với khoa học điều tra hình sự mà còn là yêu cầu cấp thiết đối với thực tiễn điều tra tội
phạm trong giai đoạn hiện nay.
Quá trình hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự là quá trình thu thập tài liệu
làm rõ toàn bộ về vụ án, hành vi phạm tội của bị can để lập hồ sơ truy tố. Hỏi cung
bị can là biện pháp điều tra làm rõ động cơ và mục đích phạm tội phát hiện ra đồng
bọn, những vật chứng còn cất giấu hay phát hiện những âm mưu và hành động
chuẩn bị để gây án… Điều này lý giải tại sao vấn đề hỏi cung bị can luôn là một
1
trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập pháp mỗi nước khi xây dựng
BLTTHS. Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra phổ biến bởi vì hỏi cung bị can
thường được tiến hành trong hoạt động điều tra mọi loại tội phạm.
Một trong những loại tội phạm nguy hại nhất cho xã hội được Bộ luật Hình sự
quy định là tội tham ô. Khi còn sống Hồ Chí Minh coi tệ tham ô là một căn bệnh, là
hành động xấu xa nhất. Người cho rằng “Tham ô là lấy của công làm của tư. Là
gian lận tham lam”, “tham ô là trộm cướp”… Trong cơ chế thị trường hiện nay,
kinh tế là lĩnh vực luôn tiềm ẩn khả năng tham ô lớn. Do đó lợi ích vật chất được
xác định là động lực thúc đẩy mạnh mẽ hành vi tham ô tài sản. Từ thực tiễn những
năm gần đây thấy tội phạm tham ô tài sản ngày càng gia tăng với quy mô, mức độ
phức tạp rất cao, điển hình như Tham ô tài sản xảy ra ở các tập đoàn, tổng công ty
lớn Tập đoàn dầu khí, Vinashin… Yêu cầu đặt ra trong công tác Hỏi cung bị can
trong các vụ án Tham ô tài sản phải làm rõ được vụ án để thấy rõ kẻ phạm tội, các
yếu tố của vụ án, hậu quả xảy ra để Viện kiểm soát và Tóa án đề xuất, quyết định
hình phạt thích đáng đồng thời nắm được thực trạng tham ô và rút ra các bài học,
biện pháp giải quyết phù hợp.Tại tỉnh Quảng Ninh, số lượng vụ án về tham ô rất
đáng kể, công tác hỏi cung bị can nhìn chung được thực hiện hiệu quả, đúng pháp
luật,được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đánh giá cao. Tuy nhiên việc hỏi cung bị
can còn bộc lộ những thiếu sót trong áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Điều đó đòi
hỏi cần có sự nghiên cứu, áp dụng pháp luật vào hỏi cung bị can có hiệu quả, hợp
lý, hợp pháp hơn trong khi số lượng công trình nghiên cứu rất hạn chế.
Với những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Hỏi cung bị can trong vụ án
tham ô tài sản từ thực tiễn điều tra tỉnh Quảng Ninh” làm Luận văn thạc sĩ của
mình. Qua việc tìm hiểu công tác hỏi cung bị can trong vụ án tham ô tài sản trong
các quy định của BLTTHS về hỏi cung bị can để đề xuất những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự góp phần tránh bỏ
lọt tội phạm, gây oan sai cho người vô tội…
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn hỏi cung bị can trong hoạt động điều tra các vụ
án tham ô tài sản nhằm đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả
hoạt động hỏi cung bị can trong quá trình điều tra các vụ án tham ô tài sản, góp phần bổ
sung, từng bước hoàn thiện lý luận về hỏi cung bị can.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ lý luận cơ bản về tội phạm tham ô tài sản và hoạt động hỏi cung bị
can trong vụ án tham ô tài sản.
+ Làm rõ những diễn biến của tình hình tội phạm tham ô và kết quả điều tra
xử lý giai đoạn 2008-2018.
+ Phân tích làm rõ được những nội dung cơ bản của đặc điểm hình sự tội
phạm tham ô tài sản.
+ Nghiên cứu thực tiễn hỏi cung của lực lượng CSĐT đối với bị can trong các
vụ án tham ô tài sản.
+ Kiến nghị và đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục vướng mắc, hạn chế
để nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can trong điều tra vụ án tham ô tài sản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn
hoạt động hỏi cung bị can trong vụ án tham ô tài sản.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Về mặt nội dung: Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề hỏi cung bị can
trong điều tra vụ án tham ô tài sản do CSĐT Công an tỉnh Quảng Ninh tiến hành.
+ Địa bàn nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở số liệu một số vụ
ántrên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
+Về khoảng thời gian khảo sát:Giai đoạn 2008-2018.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn chủ yếu được thực hiện trên cơ sở những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật; các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
3
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm về hoạt động quản
lý kinh tế nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, tọa đàm, tham khảo ý
kiến chuyên gia, nghiên cứu hồ sơ vụ án ..để hoàn thiện đề tài này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
- Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống lý luận
về hỏi cung bị can nói chung và trong hoạt động điều tra các vụ án tham ô tài sản
nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Những đề xuất của đề tài có thể giúp các Cục nghiệp vụ Cảnh sát, Công an các
địa phương nghiên cứu, tham khảo, áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả biện pháp hỏi
cung bị can trong hoạt động điều tra các vụ án kinh tế nói chung và tham ô tài sản
nói riêng.
6.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm ba chương. Cụ thể:
Chương 1: Lý luận cơ bản về tội phạm tham ô tài sản và hoạt động hỏi cung
bị can trong vụ án tham ô tài sản.
Chương 2: Những quy định của pháp luật về hoạt động hỏi cung bị can và thực
trạng hỏi cung bị can trong vụ án tham ô tài sản từ thực tiễn điều tra tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Những kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả hỏi cung bị can
trong vụ án tham ô tài sản.
4
Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN VÀ HOẠT ĐỘNG
HỎI CUNG TRONG VỤ ÁN THAM Ô TÀI SẢN
1.1. Nhận thức chung về tội phạm tham ô tài sản.
1.1.1. Khái niệm tội phạm tham ô tài sản.
Theo từ điển Tiếng Việt, tham ô được hiểu là hành vi “lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc chức trách để ăn cắp của công”[17,tr.728]. Hiểu theo cách chung
nhất thì tham ô là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ,
quyền hạn ấy để chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý.
Ở nước ta kể từ sau Cách mạng tháng Tám, từ những năm đầu mới giành được
chính quyền về tay nhân dân, hành vi tham ô được gọi là “biển thủ công quỹ” hành
vi này lần đầu tiên được quy định tại Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 “Trừng
trị các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ nhằm bảo vệ tài sản của công”. Sau đó
khái niệm “biển thủ công quỹ” dần dần được thay thế bằng khái niệm “tham ô”.
Cùng với quá trình phát triển của xã hội và quá trình hệ thống pháp luật, nhận
thức về tội phạm tham ô ngày càng được hoàn thiện. Về cơ bản thì nội dung của hai
khái niệm” Tham ô tài sản” và khái niệm “Biển thủ công quỹ” không có gì khác
nhau, mà chỉ khác nhau về tên gọi của tài sản bị chiếm đoạt mà thôi. Tội danh
“Tham ô tài sản” lần đầu tiên được quy định trong văn bản pháp luật hình sự tại
Điều 8 của Pháp lệnh Trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN được Uỷ ban
thường vụ Quốc hội Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua ngày 21/10/1970.
Trước năm 1975, khi đất nước chưa thống nhất giữa 2 miền Nam Bắc, để kịp
thời trừng trị tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, ngày
25/3/1976, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ban
hành Sắc luật số 03 “về tội phạm và hình phạt”. Điều 4 của Sắc luật này đã quy định
về tài sản công cộng và tội tham ô tài sản công cộng.
Quá trình phát triển của xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật là một yêu cầu
tất yếu, ngày 9/7/1985 Bộ luật hình sự đầu tiên của Nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam đã được công bố và có hiệu lực từ ngày 1/1/1986. Tội tham ô tài sản XHCN đã
5
được quy định tại Điều 133 của Bộ luật này. Theo quy định của điều luật thì tham ô
tài sản XHCN là hành vi của những người có chức vụ quyền hạn đã lợi dụng chức vụ
quyền hạn ấy để chiếm đoạt tài sản XHCN mà họ có trách nhiệm trực tiếp quản lý.
Hơn 10 năm thi hành Bộ luật 1985, nội dung của nhiều điều luật không còn
phù hợp và đã được sửa đổi, trong đó có Điều 133 quy định về tội tham ô tài sản
XHCN. Tại Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 133 (Tham ô tài sản XHCN) được
thay thế bằng Điều 278 (Tội tham ô tài sản), nay là Điều 353 BLHS 2015(Sửa đổi
bổ sung 2017) Về khách thể bị xâm hại trong Bộ luật Hình sự 2015 đã mở rộng hơn,
không chỉ còn là tài sản XHCN (tài sản của Nhà nước) mà yếu tố tài sản ở đây đã
được mở rộng với các hình thức sở hữu. Luật sửa đổi đã bỏ yếu tố trực tiếp trong
quản lý tài sản và đưa ra khái niệm có trách nhiệm quản lý nhằm mở rộng phạm vi
chủ thể của tội phạm tham ô, tránh được sự tranh cãi về khái niệm thế nào là trực
tiếp quản lý tài sản. Về xác định giá trị tài sản trong Bộ luật cũng có sự thay đổi,
trước đây tài sản bị tham ô phải có giá trị từ năm triệu đồng trở lên; thì ở Bộ luật
Hình sự 2015 qui định “ " từ hai triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng .... ”.
Thông qua giá trị định lượng vật chất ở đây đã thể hiện quan điểm đấu tranh
mạnh mẽ, triệt để của Đảng và Nhà nước ta với tội phạm tham ô.
Đặc trưng cơ bản nhất của hành vi phạm tội tham ô là lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Đây là hành vi sử dụng
và dựa vào quyền năng do chức vụ mà có để làm không đúng, sai với chức trách,
làm trái nguyên tắc chính sách, chế độ, thể lệ về quản lý tài sản thuộc lĩnh vực công
việc của mình phụ trách để chiếm đoạt tài sản. Hành vi làm không đúng có thể là
trong giới hạn được phép nhưng có liên quan đến cương vị công tác hoặc cũng có
thể dùng uy quyền, chức vụ để tác động đến cấp dưới, hoặc người khác. Tài sản bị
tham ô ở đây có thể được hiểu bao hàm tất cả các tài sản thuộc các nhóm sở hữu: tài
sản thuộc sở hữu của Nhà nước; tài sản thuộc sở hữu chung theo phần hoặc sở hữu
chung hỗn hợp.
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý.
- Bị can trong các vụ án tham ô tài sản là những đối tượng có nhiều kinh
nghiệm, hiểu biết cuộc sống, có trình độ chuyên môn, có quan hệ xã hội rộng rãi.
6
1.1.2. Những đặc điểm hình sự của tội phạm tham ô tài sản
"Đặc điểm hình sự tội phạm là sự phản ánh của hệ thống những đặc tính, dấu
hiệu của những vụ tội phạm trong hiện thực khách quan"
Từ đó cho thấy đặc điểm hình sự của tội phạm là một tập hợp thông tin về hệ
thống các đặc điểm, dấu hiệu của một loại tội phạm hoặc một nhóm tội phạm cụ thể
được hình thành trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn điều tra, đóng vai trò là cơ sở đưa ra
những chỉ dẫn tối ưu hoá quá trình thực hiện mục đích điều tra khám phá tội phạm.
Cấu trúc đặc điểm hình sự của tội phạm bao gồm những thông tin về các vấn
đề sau: Dấu vết vật chất của vụ án, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm, thời gian
và địa điểm xảy ra vụ án, diễn biến của quá trình gây án, hoàn cảnh điều kiện xảy ra
vụ án, đối tượng bị xâm hại, mục đích và động cơ gây án, phẩm chất cá nhân của
người phạm tội, của người bị hại và những hoàn cảnh tạo thuận lợi cho tội phạm.
a) Đặc điểm thông tin ban đầu về tội phạm tham ô tài sản:
Để xác định có vụ việc phạm tội xảy ra có căn cứ tiến hành tổ chức hoạt động
điều tra, cơ quan điều tra phải có những thông tin cụ thể về vụ phạm tội. Những
thông tin ban đầu đến với cơ quan điều tra từ nhiều nguồn khác nhau và dưới những
hình thức khác nhau.
Điều 143 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về căn cứ khởi tố vụ
án hình sự như sau:
“Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc
xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
1) Tố giác của cá nhân;
2) Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3) Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4) Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước:
5) Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
5) Người phạm tội tự thú”.
Những cơ sở nêu trong điều luật có tính chất quy định chung làm căn cứ để
khởi tố vụ án đối với các loại tội phạm. Song đi sâu nghiên cứu bản chất của các cơ
sở đó, trên cơ sở các tài liệu thực tiễn của hoạt động điều tra tội phạm thì mỗi loại
7
tội phạm hoặc nhóm tội phạm cụ thể sẽ có những đặc tính riêng về nguồn thông tin
ban đầu đối với loại tội phạm hoặc nhóm tội phạm cụ thể ấy.
Theo số liệu thống kê tổng hợp nhiều năm của Cơ quan CSĐT, Cơ quan
CSKT và kết quả nghiên cứu của một số đề tài khoa học về tội phạm và hoạt
động điều tra tội phạm cho thấy các nguồn thông tin ban đầu về các vụ phạm tội
kinh tế nói chung, trong đó có các vụ phạm tội tham ô tài sản được tiếp nhận từ
các nguồn sau:
- Tố giác của cá nhân.
- Tin báo về tội phạm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong đó có
các phương tiện thông tin đại chúng.
- Kết quả hoạt động nghiệp vụ trinh sát
- Kết quả thanh tra của các cơ quan chức năng và hoạt động kiểm sát của Viện
kiểm sát.
- Người phạm tội tự thú.
- Người phạm tội bị bắt quả tang.
- Kết quả khai thác từ các vụ án khác.
Tóm lại thông tin ban đầu về vụ tham ô tài sản thường rất đa dạng phong phú
và đòi hỏi phải phân tích đánh giá sâu.
b) Đặc điểm về địa bàn, lĩnh vực xảy ra tội phạm tham ô tài sản:
Căn cứ số liệu thống kê của các cơ quan chức năng và các thông tin đăng tải
trên các phương tiện thông tin đại chúng thì thấy rằng: tham ô xảy ra ở tất cả các địa
bàn, các lĩnh vực, các địa phương trong toàn quốc, song tập trung chủ yếu ở các
thành phố lớn, các trung tâm kinh tế, các tỉnh có nền kinh tế phát triển. Những khu
vực này được gọi là các địa bàn trọng điểm về kinh tế, đồng thời cũng là những địa
bàn trọng điểm về hoạt động của tội phạm kinh tế. Ở các địa bàn này tập trung nhiều cơ
quan nhà nước, nhiều doanh nghiệp lớn của Nhà nước cũng như của các thành phần
kinh tế khác... Trong đó tham ô tài sản chủ yếu xảy ra ở các doanh nghiệp nhà nước.
Hầu hết các vụ án tham ô lớn được phát hiện trong khoảng thời gian 5 năm trở
lại đây đều xảy ra ở các địa bàn trọng điểm về kinh tế hoặc có liên quan đến các địa
bàn này. Một vụ án tham ô không còn chỉ xảy ra trong một phạm vi hẹp là một cơ
8
quan, một doanh nghiệp như trước đây. Nhiều vụ án tham ô liên quan đến nhiều cơ
quan, doanh nghiệp nhà nước, nhiều cấp từ Trung ương đến cơ sở. Đặc biệt đã có cả
yếu tố nước ngoài trong một số vụ án tham ô được phát hiện trong thời gian gầy đây.
Có những cơ quan, tổ chức trước đây rất ít xảy ra tham ô như lực lượng vũ
trang, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan thuộc tổ chức Đảng... nhưng thời
gian gần đây tham ô đã xảy ra ở đây, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng.
Ở các ngành, các lĩnh vực trong xã hội đều có tham ô xảy ra, nhưng tập trung
chủ yếu ở các ngành, các lĩnh vực trọng điểm tập trung nhiều tài sản, tiền bạc của
nhà nước như Tài chính, Ngân hàng, Kho bạc, Thương mại, Đầu tư xây dựng cơ
bản, Quản lý nhà đất, Bảo hiểm,Y tế, Giáo dục, Dự trữ quốc gia, Giao thông-Vận
tải, thực hiện các chương trình kinh tế-xã hội của Nhà nước v.v...
c) Đặc điểm về đối tượng gây án:
Theo quy định tại Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015 sủa đổi bổ sung 2017
thì đối tượng phạm tội tham ô là những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ quyền hạn ấy để chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý. Chức vụ
ở đây là vị trí làm việc trong hệ thống lãnh đạo, điều hành cơ quan, doanh nghiệp
mà người phạm tội được cấp có thẩm quyền phân công. Quyền hạn ở đây là những
quyền năng đi cùng với các chức vụ ấy và các quyền của những người khác không
giữ chức vụ nhưng được giao những nhiệm vụ có trách nhiệm trong việc quản lý tài
sản của cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Nói cách khác, chủ thể của tội phạm tham
ô là chủ thể đặc biệt. Những người khác không phải chủ thể đặc biệt thì chỉ phạm
tội tham ô khi họ là đồng phạm với những chủ thể phạm tội.
Như vậy, đối tượng phạm tội tham ô là những người có chức vụ, địa vị trong
các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước hoặc những người khác làm việc trong các cơ
quan doanh nghiệp ấy. Những người này thường là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ
quan, doanh nghiệp, những người phụ trách các bộ phận của cơ quan, doanh nghiệp,
những người khác có trách nhiệm, quyền hạn nhất định đối với công tác quản lý tài
sản của cơ quan, doanh nghiệp như nhân viên kế toán, thủ kho, thủ quỹ; nhân viên
nghiệp vụ khác như kế hoạch, cung ứng vật tư, kỹ thuật viên v.v...
9
Trong cơ chế quản lý hành chính tập trung, bao cấp trước đây, đối tượng tham
ô thường chỉ tập trung ở những đối tượng giữ các chức vụ thấp, những nhân viên
nghiệp vụ như: thủ kho, thủ quỹ, kế toán... và ở các cơ quan, doanh nghiệp cấp thấp,
ở những bộ phận trực thuộc v.v... Nhưng từ khi có sự chuyển đổi cơ chế, địa vị,
chức vụ của các đối tượng khi phạm tội tham ô đã thay đổi rất nhiều. Nhiều đối
tượng phạm tội tham ô giữ những chức vụ, cương vị quan trọng trong hệ thống các
cơ quan chính quyền nhà nước như lãnh đạo cấp Bộ, Lãnh đạo các Tổng cục, Vụ,
Cục của các Bộ. Nhiều người giữ những chức vụ quan trọng trong các doanh nghiệp
nhà nước như Tổng Giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc các
tổng công ty, công ty, các viện nghiên cứu... Hầu hết các vụ án tham ô tài sản
nghiêm trọng được phát hiện trong thời gian gần đây đều có liên quan đến những
người đứng đầu các cơ quan, doanh nghiệp nơi xảy ra vụ án.
d) Thành phần, đặc điểm tâm lý đối tượng:
Các đối tượng tham ô chiếm phần lớn là những người có trình độ văn hoá cao,
có trình độ chuyên môn được đào tạo có hệ thống, nhất là về nghiệp vụ quản lý kinh
tế. Đây là một đặc điểm rất quan trọng trong tổ chức điều tra các vụ án tham ô.
Với đặc điểm này của tội phạm tham ô, trong việc lập kế hoạch điều tra cần
cân nhắc tính toán việc bố trí phân công ĐTV sao cho thích hợp với từng đối tượng
cụ thể. Ngoài yêu cầu về kinh nghiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ĐTV được
phân công điều tra loại án này đòi hỏi phải có thêm những phẩm chất khác như có
kinh nghiệm sống, có kiến thức xã hội, có nghiệp vụ và những hiểu biết nhất định
về nghiệp vụ chuyên môn liên quan trực tiếp đến đối tượng phạm tội, đặc biệt là đối
với ĐTV được phân công hỏi cung bị can.
Từ đặc điểm này cần chú ý một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
điều tra vụ án, đó là: Do có chức vụ quyền hạn, nhiều đối tượng phạm tội giữ những
cương vị lãnh đạo quan trọng do đó họ thường có những quan hệ xã hội rộng rãi và
phức tạp, nhất là có quan hệ với những người có chức, có quyền, trong hệ thống bộ
máy nhà nước do đó dễ tạo ra những vụ án tham ô lớn bị “chìm xuồng” cùng với
thời gian...
10
Cũng do có những quyền hạn nhất định, các đối tượng thường sử dụng các
quyền hạn đó để thực hiện hành vi che giấu tội phạm và cản trở hoạt động điều tra
như khống chế những nhân viên dưới quyền không được tạo điều kiện thuật lợi cho
hoạt động điều tra, hoặc những người dưới quyền phải tham gia vào việc hợp pháp hoá
hoặc thủ tiêu các tài liệu, chứng cứ về tội phạm... Thậm chí có khi họ dùng quyền hành
để đổ tội cho người khác để lẩn tránh trách nhiệm.
đ) Đặc điểm về thủ đoạn phạm tội và che giấu tội phạm:
Cũng như các tội phạm khác một vụ tham ô xảy ra là kết quả của một loạt các
hành vi nhất định của chủ thể phạm tội. Những hành vi được gọi là thủ đoạn phạm
tội (hay thủ đoạn gây án) chỉ có ở những tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý.
Những hành vi ấy vừa nhằm mục đích phạm tội, vừa nhằm che giấu tội phạm.
Trong Bộ luật Hình sự có đề cập đến thủ đoạn phạm tội nhưng đó chỉ là những quy
định chung có tính khái quát và không phải khi nào cũng được thể hiện rõ trong
hành vi của đối tượng gây án mà phải phân tích, mổ xẻ, chứng minh.
Đây là một yêu cầu rất quan trọng, bởi vì "Từ phương thức, thủ đoạn
thực hiện tội phạm mà nghiên cứu phương pháp chiến thuật khám phá tội phạm đó"
Tham ô tài sản là loại tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Người phạm tội sử
dụng chính ngay quyền hạn và nghiệp vụ của mình trong việc quản lý tài sản để
thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, thủ đoạn phạm tội và che giấu tội phạm của loại
tội phạm này thường rất tinh vi và phức tạp. Tính chất phức tạp và tinh vi còn thể
hiện ở hiện tượng sau: Trong thực tế nhiều khi để nhận biết được đối tượng phạm
tội tham ô nói riêng và tham nhũng nói chung không khó, chỉ cần quan sát điều kiện
sống và sinh hoạt của chúng là có thể nhận biết ngay được. Song để chứng minh
chúng đã phạm tội tham ô thì lại là một công việc không đơn giản. Chính vì vậy số
vụ án tham ô tài sản được phát hiện và xử lý trong những năm gần đây không tăng
nhưng vẫn có thể nhận định tội phạm tham ô nói riêng và tham nhũng nói chung
ngày càng nghiêm trọng và phức tạp.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, thủ đoạn phạm tội tham ô có những đặc điểm
riêng có tính đặc thù. Song về bản chất chung của thủ đoạn tham ô là những cách
thức để chiếm đoạt tài sản và hợp pháp hoá tài sản bị chiếm đoạt. Cách thức chung
11
phổ biến nhất là lập chứng từ giả mạo về các chi phí để rút tiền, tài sản ra khỏi sự
quản lý, kiểm soát của cơ quan, doanh nghiệp để chiếm đoạt tài sản đó. Chứng từ
giả mạo ở đây cần phải được hiểu là chứng từ được hợp thức hoá về mặt hình thức,
hoặc hình thức biểu hiện bên ngoài của chứng từ là như thật (theo đúng quy định
của Nhà nước) nhưng nội dung là giả là trái với sự thật.
Người phạm tội tham ô luôn tìm những thủ đoạn mới trong cách thực hiện và
che giấu tội phạm. Những thủ đoạn mới đã dần thay thế các thủ đoạn tham ô “cổ
điển” như tẩy xoá, sửa chữa chứng từ, sổ sách bằng các phương pháp cơ học hoặc
hoá học...
Khác với một số loại tội phạm khác, vụ án tham ô tài sản thường là một quá
trình được thực hiện bằng một loạt các hành vi tham ô (thực hiện tham ô nhiều lần)
trong những khoảng thời gian nhất định, có khi liên tục, có khi gián đoạn; tài sản bị
chiếm đoạt nhiều lần. Do đó nếu có bị phát hiện thì cơ quan điều tra cũng không dễ
gì phát hiện được toàn bộ các hành vi tham ô mà đối tượng phạm tội đã thực hiện.
Đây là một thủ đoạn tham ô rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Thực tế hiện nay
cho thấy rất ít vụ án tham ô mà hành vi chiếm đoạt tài sản có khối lượng lớn diễn ra
một cách chớp nhoáng bởi vì như vậy rất dễ bị phát hiện và làm rõ.
Bằng kinh nghiệm thực tiễn, nhiều cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của các
ngành bảo vệ pháp luật đã đưa ra kết luận: Chỉ cần chứng minh được 50% số tài sản
bị chiếm đoạt trong một vụ án tham ô đã là thắng lợi lớn. Điều đó có nghĩa là rất
khó có thể chứng minh làm rõ được toàn bộ các hành vi phạm tội đã thực hiện trong
các vụ án tham ô kéo dài.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và quá trình hoàn thiện các cơ chế quản
lý kinh tế, thủ đoạn phạm tội của tội phạm tham ô ngày càng phức tạp về nội dung
và đa dạng về hình thức.
Thủ đoạn phạm tội tham ô thường biểu hiện phổ biến dưới các hình thức sau:
- Đánh tráo tài sản: Đưa tài sản có giá trị thấp vào tráo lấy tài sản có giá trị cao
để chiếm đoạt (bán đi lấy chênh lệch hoặc sử dụng trực tiếp cho nhu cầu của đối
tượng phạm tội).
12
- Đưa vào các công trình xây dựng những vật tư, nguyên liệu... không đúng
chủng loại, có giá trị thấp hơn giá trị dự toán tạo ra khoản chênh lệch để chiếm đoạt.
- Khai khống, nâng khối lượng công việc đã thực hiện, khai khống chi phí
nhân công... tạo ra chênh lệch về chi phí để chiếm đoạt.
- Móc ngoặc giữa chủ đầu tư (bên A) với nhà thầu (bên B) hoặc thông đồng
mua chuộc cán bộ giám sát thi công, cán bộ giám định để thực hiện các hành vi gian
dối trong thi công công trình hoặc mua bán vật tư, vật liệu... nhằm tạo chênh lệch để
chiếm đoạt.
- Nâng định mức kinh tế-kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh từ đó dẫn đến
nâng khống giá trị chi phí tạo chênh lệch để chiếm đoạt.
- Trong đấu thầu xây lắp công trình, mua sắm vật tự, tài sản... chủ đầu tư và
nhà thầu thông đồng với nhau để thực hiện mục đích tham ô.
- Hạ giá sản phẩm sản xuất ra hoặc tài sản thanh lý thấp hơn so với giá trị thực
và giá bán thực tế, tạo chênh lệch để chiếm đoạt.
Những người phạm tội tham ô tài sản còn dùng một số thủ đoạn che giấu tội
phạm như:
- Thủ tiêu các tài liệu, chứng cứ bằng cách gây ra hoả hoạn. Thủ tiêu tài liệu,
chứng từ rồi tạo hiện trường giả vụ trộm v.v...
- Không sử dụng trực tiếp các tài sản chiếm đoạt là các vật cụ thể cho các nhu
cầu sinh hoạt cá nhân mà bán các tài sản đó đi, chuyển đổi thành vàng, ngoại tệ hoặc các
tài sản có giá trị khác để cất giấu hoặc sử dụng vào các việc như: cho vay, gửi vào ngân
hàng, đầu tư vào kinh doanh v.v...
- Tìm mọi cách hợp pháp hoá tiền và tài sản do phạm pháp dưới dạng quà biếu,
được thừa kế, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh; mua vé số trúng thưởng
v.v...
- Sử dụng các mối quan hệ với các nhân vật có địa vị, chức vụ cao trong xã hội
để bao che hành vi phạm tội (hiện tượng "ô dù").
- Sử dụng quyền hành khống chế những người dưới quyền, cản trở họ tố giác
với cơ quan chức năng... Hoặc không trực tiếp thực hiện tội phạm mà tạo điều kiện
13
cho người khác phạm tội rồi cùng chiếm đoạt tài sản, nếu có bị bại lộ thì chỉ có vi
phạm “thiếu trách nhiệm...”.
- Dùng các thủ thuật nghiệp vụ kế toán và các chế độ quản lý kinh tế khác
trong hạch toán tạo ra hiện tượng lỗ giả trong kết quả hoạt động kinh doanh để che
giấu hành vi chiếm đoạt tài sản. Đây là một thủ đoạn khá phổ biến trong giai đoạn
hiện nay.
- Tạo ra tình huống phá sản, thanh lý tài sản; hạ giá để chuyển nhượng... và
nhiều thủ đoạn khác.
- Trong những năm gần đây xuất hiện hình thức mới là “tham nhũng chính
sách”. Đó là những người có quyền lực sử dụng nó để xây dựng, ban hành chính
sách đó móc ngoặc với các tập đoàn, tổng công ty để xây dựng, ban hành những
chính sách có lợi, sau đó chia nhau những lợi ích như tăng giá một mặt hàng, giảm
giá hàng loạt, hạn chế hay nối rộng hạng ngạch xuất nhập khẩu,…chỉ cần một quyết
định sẽ tạo ra lợi ích hàng nghìn tỷ đồng chia nhau.
e) Đặc điểm về tài sản bị chiếm đoạt của tội phạm tham ô:
Ngày nay, những vụ tham ô có giá trị tài sản bị chiếm đoạt lớn, đối tượng
tham ô không sử dụng trực tiếp tài sản chiếm đoạt được cho nhu cầu cuộc sống mà
được chuyển đổi thành tiền và các tài sản có giá trị khác (vàng, ngoại tệ, đá quí) để
cất giữ và sử dụng dần cho nhu cầu cuộc sống của cá nhân và gia đình. Ngoài ra,
chúng còn sử dụng vào các việc khác như: mua bất động sản, gửi vào ngân hàng,
cho vay lãi, đầu tư vào kinh doanh...
Cùng với nhiệm vụ chính của hoạt động điều tra tội phạm tham ô tài sản là
khám phá; làm rõ sự thật của vụ án thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm một
trong những yêu cầu rất quan trọng của hoạt động điều tra loại tội phạm này là thu hồi
triệt để tài sản bị chiếm đoạt. Do đó, nghiên cứu nắm vững các đặc điểm về tài sản bị
chiếm đoạt trong các vụ án tham ô tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động
điều tra cũng như trong công tác bảo vệ tài sản cho Nhà nước và nhân dân.
g) Đặc điểm về quan hệ giữa tội phạm tham ô tài sản và các tội phạm khác
Thực tiễn kết quả hoạt động điều tra, khám phá tội phạm tham ô trong những
năm gần đây cho thấy trong các vụ án tham ô lớn hầu hết đều có các tội phạm khác
14
- Xem thêm -