LÊ QUANG THIỆN
LÊ QUANG THIỆN
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ trích dẫn đáng tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ một luận văn nào.
LÊ QUANG THIỆN
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
KHÓA 9
KHÓA 9
Lê Quang Thiện
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội, năm
2020
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ QUANG THIỆN
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC
Hà Nội, năm 2020
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và qua công tác thực tiễn,
được sự hướng dẫn, giảng dạy của các thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của cơ quan
cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sỹ
Luật học. Qua đây tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:
Ban giám hiệu cùng thầy cô Trường học viện Khoa học xã hội, các giảng
viên đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những tri thức kinh nghiệm quý báu trong
suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn Lãnh đạo đơn vị công tác đã tạo điều kiện để tôi được học tập, nâng
cao trình độ.
Cảm ơn Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai thành phố Hà Nội đã giúp
đỡ tôi rất nhiều để tôi có được tư liệu thực tiễn hoàn thành luận văn này.
Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
Mở đầu .......................................................................................................................1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ..........................................................6
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự tội cướp giật tài sản ......................6
1.2 Khái niệm kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản ............................................17
1.3 Nội dung, phạm vi và hình thức kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra tội
cướp giật tài sản ....................................................................................................19
1.4 Vị trí, vai trò và ý nghĩa của kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản ...............33
Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI
SẢN TẠI THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI .....................................................38
2.1 Thực trạng quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra .................................38
2.2 Thực tiễn hoạt động kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản tại thực tiễn quận
Hoàng Mai .............................................................................................................40
2.3 Nhận xét hoạt động kiểm sát điều tra đối với tội cướp giật tài sản tại thực tiễn
quận Hoàng Mai ....................................................................................................50
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN NÂNG
CAO HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI
SẢN TẠI ĐỊA BÀN QUẬN HOÀNG MAI ...........................................................58
3.1 Một số phương hướng góp phần nâng cao kiểm sát hoạt động điều tra đối với
tội cướp giật tài sản tại địa bàn quận Hoàng Mai .................................................58
3.2 Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hoạt động kiểm sát điều tra tội
cướp giật tài sản tại địa bàn quận Hoàng Mai .......................................................61
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................75
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
CGTS
: Cướp giật tài sản
ĐTV
: Điều tra viên
KSĐT
: Kiểm sát điều tra
KSV
: Kiểm sát viên
TTHS
: Tố tụng hình sự
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
VAHS
: Vụ án hình sự
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
STT
01
02
TÊN BẢNG
Số lượng án xâm phạm sở
hữu trên địa bàn quận
Hoàng Mai
Số liệu giải quyết án Cướp
giật tài sản trên địa bàn
quận Hoàng Mai.
SỐ TRANG
42
45
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuộc sống xã hội không ngừng phát triển đặc biệt là cuộc cách mạng
công nghiệp không ngừng tăng lên ngày càng rộng lớn góp phần sản xuất ra ngày
càng nhiều của cải vật chất. Chất lượng của máy móc, dây chuyền sản xuất ngày
càng được nâng cao bởi ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật. Trước
một thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ đặc biệt là nền kinh tế đang ngày một phát
triển thì nước ta cũng chủ trương xây dựng một đất nước có nền kinh tế thị trường.
Ngoài điểm mới quy định quyền con người ngay tại Chương 2 của Hiến pháp thể
hiện rõ quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước ta là một nhà nước của dân, do
dân và vì dân thì bên cạnh đó quyền sở hữu được quy định với tư cách là một quyền
cơ bản của công dân nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Trong Hiến
pháp 2013 của nước ta cũng quy định rất rõ quyền này theo quy định tại Điều 32:
“1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư
liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia,
tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng
có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.” [14, tr. 21]
Không những được quy định ngay trong Hiến pháp mà quyền này còn được
thể hiện và Nhà nước bảo vệ rất rõ theo các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) tại Chương XVI: Các tội xâm phạm sở hữu.
Chủ thể xâm hại tới quyền sở hữu hợp pháp của công dân sẽ phải chịu những chế tài
hình phạt nặng nhất là tù chung thân được đảm bảo thi hành bởi hệ thống các cơ
quan Nhà nước. Để đảm bảo cho pháp luật Nhà nước ban hành được thực thi cũng
như thi hành một cách nghiêm minh và thống nhất thì việc yêu cần cấp thiết cần
pahir có một tổ chức có chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng pháp luật
của các cơ quan Nhà nước và công dân là một đòi hỏi tất yếu. Vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta đã quyết định thành lập một cơ quan Nhà nước có chức năng như vậy là
1
Viện kiểm sát. Đây là sự vận dụng rất đúng đắn tư tưởng của chủ nghĩa Mác –
Lênin vào thực tiễn xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đã được thể
chế háo trong Hiến pháp của nước ta nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội, và phải
chịu trách nhiệm chính trong việc việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy
tố; phải bảo đảm việc truy tố có căn cứ, đúng pháp luật, cùng với cơ quan điều tra
khắc phục những vi phạm, tồn tại trong quá trình điều tra, bảo đảm không để lọt tội
phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội. Viện kiểm sát các cấp cần phải
nghiêm túc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp
luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi tiếp
nhận nguồn tin tố giác về tội phạmn kiến nghị khởi tố của các cơ quan Nhà nước
hoặc khởi tố vụ án và kéo dài liên tục trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, đảm bảo xử lý
kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành
nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong thực tế đến nay vẫn tồn tại nhiều vướng mắc do chưa đạt
được sự thống nhất cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Công tác kiểm sát
hoạt động tư pháp đặc biệt là kiểm sát điều tra vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế mà
nguyên nhân của các hạn chế đó không phải chỉ xuất phát từ chủ quan mà còn cả
khách quan vì thế cần được nghiên cứu làm rõ và có hướng khắc phục để quá trình
cải cách tư pháp dần được nâng cao, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đổi
mới. Do đó, làm sáng tỏ những vấn đề trên ngoài giá trị về mặt lý luận mà còn rất
có ý nghĩa trong việc thống nhất góp phần nâng cao hiệu quả của công tác kiểm sát,
đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp trong thời điểm hiện nay đặc biệt là hoàn
thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã tin tưởng giao cho Viện kiểm sát nhân
dân.
Quận Hoàng Mai chính thức được thành lập từ theo nghị định số
132/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2003 của thủ tướng chính phủ Việt Nam
trên cơ sở tách 9 xã của huyện Thanh Trì và 05 phường của quận Hai Bà Trưng
cùng 55 ha diện tích đất tự nhiên của xã Tứ Hiệp thuộc quận Thanh Trì cho đến nay
đã có hơn 15 năm phát triển với đặc điểm đông dân cư, tình hình kinh tế xã hội phát
triển nhanh tổng thu ngân sách năm 2004 khi mới thành lập quận chỉ đạt 90 tỷ đồng
2
thì đến năm 2017 con số này đã tăng gấp 80 lần cụ thể: tổng thu ngân sách đã đạt
4,576 tỷ đồng. Với những con số trên cho thấy quận Hoàng Mai có tốc độ tăng
trưởng rất nhanh bên cạnh đó là mật độ dân cư ngày càng đông đúc khiến những tội
phạm về xâm phạm kinh tế đặc biệt là tội phạm xâm phạm tới quyền sở hữu của
công dân tại quận Hoàng Mai ngày càng có nhiều diễn biễn phức tạp.
Với mong muốn làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn
thông qua hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đối với quyền
sở hữu tài sản đối với một tội phạm cụ thể đồng thời qua đó phân tích những khó khăn,
vướng mắc nhằm đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này
trong quá trình cải cách tư pháp tịa nước ta hiện nay nên tôi chọn đề tài: “Kiểm sát
điều tra tội cướp giật tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tế quận Hoàng
Mai, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến hoạt động kiểm sát điều tra, tôi cũng đã tiếp cận, tham khảo
được một số công trình nghiên cứu, giáo trình của các cơ sở giáo dục trong nước ta
hiện nay như:
- "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra" của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, 2005.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân" của Trịnh Duy Tám, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II),
NXB: Công an nhân dân, Hà Nội, 2014
- Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (phần các tội
phạm), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2007
- Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2012, Nxb. Tư pháp,; chủ biên: Võ
Khánh Vinh
- Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi Bổ sung 2017) Phần tội phạm, nxb. Công an nhân dân, 2017.
3
Bên cạnh đó, còn các các bài viết được đăng trên các tạp chí như: Tạp chí
Luật học, Tạp chí Kiểm sát của các tác giả khác với nhiều ý kiến và quan điểm khác
nhau. Tuy nhiên, trong luận văn này, tác giả sẽ cố gắng luận giải nhiều nhất những
vấn đề liên quan đến đề tài.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện kiểm sát
điều tra ở giai đoạn điều tra các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn quận Hoàng
Mai như khái niệm, đặc điểm, nội dung thực hiện và các yếu tố ảnh hưởng và các
điều kiện đảm bảo trong hoạt động đó.
- Đánh giá thực trạng kiểm sát điều tra các vụ cướp giật tài sản của Viện
kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Nêu lên những thành quả đã
đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Trình bày các quan điểm, giải pháp nhằm bảm bảo kiểm sát điều tra các vụ
cướp giật tài sản của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: làm rõ việc tiến hành chức năng kiểm sát điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân: khái niệm, cơ sở lý luận chung. Thực trạng việc thực
hiện chức năng trên trong giai đoạn điều tra các vụ án về tội cướp giật tài sản.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc kiểm sát điều tội phạm của
các vụ án về tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Hoàng Mai.
- Phạm vi nghiên cứu: những lý luận chung về tội cướp giật tài sản như: cấu
thành tội phạm, hình phạt, chủ thể của tội này; tập trung nghiên cứu, khảo sát trong
phạm vi kiểm sát điều tra các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn quận Hoàng Mai
giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019. Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn việc trong quá trình thực thi công vụ, áp dụng pháp luật, trực tiếp bắt
đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi Viện kiểm sát nhân dân quyết định truy tố
bị can ra trước toà án để xét xử, không nghiên cứu những vấn đề ở giai đoạn tiếp
nhận nguồn tin báo, tố giác tội phạm và giai đoạn xét xử.
4
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, pháp luật của nước ta về
kiểm sát điều tra các vụ án cướp giật tài sản.
Quá trình nghiên, cứu tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự và các nghiên cứu cụ thể: Thống kê,
phân tích, so sánh và tổng hợp số liệu, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn…
6. Ý nghĩa khoa học với thực tiễn của luận văn
Lần đầu tiên hoạt động thực hiện kiểm sát điều tra các vụ án cướp giật tài sản
trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội được nghiên cứu một cách có hệ
thống, toàn diện. Trên cơ sở đó, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt
động kiểm sát điều tra ở giai đoạn điều tra các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; xác định những tồn tại, thiếu sót và bất cập
giữa lý luận và thực tiễn trong thực hiện kiểm sát điều tra các vụ án cướp giật tài
sản trên địa bàn quận Hoàng Mai. Luận văn góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý và
thực tiễn cũng như tổ chức thực hiện và nâng cao hiệu quả, quan điểm chỉ đạo của
Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Đề xuất
các giải pháp, nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát điều tra các vụ án cướp giật tài sản
của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội trong
thời gian tới.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn được
cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản theo pháp luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng kiểm sát điều tra tội cướp giật tài sản tại thực tiễn
quận Hoàng Mai.
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao
kiểm sát hoạt động điều tra đối với tội cướp giật tài sản tại địa bàn quận Hoàng Mai.
5
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự tội cướp giật tài sản
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm tội cướp giật tài sản
Tại Điều 171 BLHS năm 2015 các nhà lập pháp chỉ quy định tội cướp giật
tài sản như sau: “Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01
năm đến 05 năm.” [5, tr.126] Trong điều luật không mô tả cụ thể những dấu hiệu
đặc trưng hay nêu ra một khái niệm nào của tội cướp giật tài sản (CGTS) mà chỉ
nêu tội danh. Xoay quanh vấn đề khái niệm tội CGTS, có nhiều tác giả đưa ra nhiều
quan điểm khác nhau như: “cướp giật tài sản là nhanh chóng giật lấy tài sản của
người khác một cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát”, hoặc “tội cướp giật giật tài
sản là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công khai”, hoặc “tội cướp
giật tài sản là hành vi nhanh chóng, công khai chiếm đoạt tài sản”.
Tội CGTS là một trong những tội xâm phạm sở hữu của người phạm tội đối
với của chủ thể khác một cách cố ý. Đối tượng thực hiện hành vi CGTS có mục
đích chiếm đoạt từ trước và lợi dụng sơ hở của chủ thể sở hữu hoặc người đang
quản lý tài sản rồi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bằng cách nhanh chóng
giật, giằng lấy tài sản; hành vi được thực hiện một cách công khai, nhanh chóng
giằng, giật lấy tài sản trong tay người khác hoặc đang trong sự quản lý của người có
trách nhiệm về tài sản rồi tẩu thoát mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực
hay bất kỳ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Đối
tượng có thể phải sử dụng một lực nhất định tác động khi thực hiện hành vi phạm
tội tác động lên người bị hại hoặc người đang trực tiếp quản lý tài sản nhằm chiếm
đoạt tài sản nhanh chóng mà không để cho chủ sở hữu kịp phản ứng.
Qua quá trình nghiên cứu các tài liệu, quan điểm của tác giả đối với khái
niệm tội CGTS có thể được hiểu như sau: Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện với lỗi cố ý bằng cách công khai bất ngờ giật lấy tài sản của người
khác rồi nhanh chóng tẩu thoát.
6
Kế thừa quy định tại Điều 136 BLHS năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015
quy định tội cướp giật tài sản tại Điều 171, điều luật cũng không nêu ra một khái
niệm cụ thể nào của tội CGTS mà chỉ nêu tội danh. Tuy nhiên, có thể xác định một
số đặc điểm nổi bật của tội cướp giật tài sản như: Người phạm tội lợi dụng sơ hở
của người quản lý tài sản để nhanh chóng giật lấy tài sản mà người quản lý khó có
thể giữ được hoặc giằng lại được. Cũng chính vì vậy, tài sản mà người phạm tội
cướp giật chủ yếu hướng tới là loại tài sản gọn nhẹ như: Đồng hồ, dây chuyền vàng,
điện thoại, túi xách, trang sức,..... Tuy nhiên cũng có một số trường hợp người phạm
tội cướp giật cả những tài sản có kích thước lớn như xe đạp, xe máy, vì sau khi
người phạm tội chiếm đoạt được tài sản thì họ sẽ sử dụng chúng làm phương tiện
tẩu thoát. Ngoài ra, yếu tố bất ngờ trong tội CGTS cũng là một dấu hiệu đặc trưng
của tội phạm, có thể nói, đây là dấu hiệu quyết định tới việc người phạm tội có thực
hiện thành công hành vi phạm tội hay không. Ngoài ra, tội CGTS còn mang tính
chất công khai, trắng trợn, thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi
phạm tội của mình từ trước đến toàn bộ quá trình thực hiện hành vi nên ngay khi bị
mất tài sản người bị hại có thể biết ngay người giật tài sản của mình là ai.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản và phân biệt tội
cướp giật tài sản với một số tội phạm khác
1.1.2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
1.1.2.1.1 Khách thể của tội cướp giật tài sản
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại được
BLHS bảo vệ. Theo LHS Việt Nam, những khách thể được bảo vệ bởi luật hình sự
là những quan hệ xã hội đã được xác định trong Khoản 1, Điều 8 của BLHS năm
2015. Cũng như các tội phạm có tính chất chiếm đoạt trong chương các tội xâm
phạm sở hữu được quy định tại XVI BLHS năm 2015, khách thể của tội CGTS là
quan hệ sở hữu tuy nhiên, trong một vài trường hợp người phạm tội CGTS còn xâm
phạm đến một vài khách thể khác như quan hệ nhân thân của bị hại. Điểm giống
nhau của các tội cùng Chương tội phạm xâm phạm sở hữu là có cùng khách thể vậy
nên đó không phải là một tiêu chí để phân biệt tội CGTS với các tội khác cùng
chương.
7
Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài
sản là đối tượng tác động của tội cướp giật tài sản thường là những tài sản dưới
dạng vật chất, gọn nhẹ, dễ dịch chuyển vì khi đó kẻ phạm tội mới có thể nhanh
chóng chiếm đoạt, tẩu thoát khỏi sự quản lý của người đang quản lý tài sản.
Tài sản là đối tượng của tội CGTS phải thỏa mãn cả hai yếu tố là còn đang
nằm trong sự chiếm hữu và phạm vi quản lý của chủ tài sản bởi chỉ khi đó, hành vi
người phạm tội CGTS mới cấu thành tội này bởi khi tài sản đã thoát ly khỏi sự quản
lý của chủ tài sản hoặc tài sản không có ai quản lý ... thì không thể là đối tượng của
tội CGTS. Một điểm quan trọng nữa có ý nghĩa quan trọng để đánh giá tài sản có
phải là đối tượng của tội CGTS hay không là tài sản đó phải là những tài sản được
giao dịch hoặc mua bán một cách hợp pháp, là tài sản hữu hình, có thực, có thể sờ
thấy, nhìn thấy. Ngoài ra, có những tài sản bị nhà nước cấm lưu hành như vũ khí,
chất phóng xạ, pháo nổ, ma túy ... thì không phải là đối tượng của tội cướp giật tài
sản.
1.1.2.1.2 Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản
Mặt khách quan là tổng hợp tất cả các mặt phản ánh hành vi tác động đến thế
giới khách quan bên ngoài của sự xâm hại đến khách thể được bảo vệ của chủ thể
thực hiện hành vi một cách nguy hiểm đáng kể cho xã hội bao gồm rất nhiều yếu tố
như: thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện, ...
Mặt khách quan của tội phạm CGTS được thể hiện rõ tại chính là hành vi
chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi chiếm đoạt được hiểu là là việc một
người nào đó dịch chuyển tài sản đang do người khác quản lý thành tài sản của
mình một cách trái PLHS. Pháp luật không nêu rõ hay và mô tả hành vi cụ thể nào
là khách thể của tội CGTS tuy nhiên, căn cứ vào khái niệm tội CGTS thì người
phạm tội cướp giật tài sản có những hành vi sau:
Giật tài sản
Đặc trưng đầu tiên và cũng là tiên quyết của tội CGTS là hành vi giật, tức là
sử dụng lực giằng mạnh lấy tài sản về mình một cách nhanh chóng. Cũng giống như
các tội giết người, tội trộm cắp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản... các nhà
làm lập pháp không mô tả chi tiết hành vi khách quan của tội phạm tuy nhiên ngay
8
trong hành vi giật tài sản đã bao gồm bản chất của tội CGTS vậy nên các nhà làm
luật không mô tả hành vi khách quan của tội CGTS cũng là điều dễ hiểu.
Trong quá trình áp dụng pháp luật, để đánh giá hành vi cho là phạm tội
CGTS, người tiến hành tố tụng cần đánh giá các thủ đoạn, hình thức phạm tội của
các đối tượng một cách chính xác để không nhầm lẫn với cầu thành các tội xâm
phạm quyền sở hữu khác gần kề như: Công nhiên chiếm đoạt tài sản; Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản; Cướp tài sản ... Các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng dễ
nhầm với hành vi phạm tội khác thường là:
- Dùng thủ đoạn chen lấn, xô đẩy người giữ tài sản để người này không chú ý
đến tài sản nên người phạm tội có cơ hội tiếp cận, giật tài sản rồi tẩu thoát, nếu chỉ
căn cứ vào một vài hành vi tác động đến thân thể sở hữu chủ thì có thể nhầm với
hành vi phạm tội cướp tài sản, thực chất trờng hợp này người phạm tội chỉ dùng thủ
đoạn để đánh lạc hướng rồi thực hiện hành vi CGTS mà không có ý định đương đầu
với sở hữu chủ;
- Lợi dụng chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vướng mắc, không có khả
năng đuổi bắt hoặc giằng giật lại tài sản để chiếm đoạt tài sản như: Lợi dụng người
bán hàng xén đang bán hàng cho khách, người phạm tội đã lấy một thứ hàng trong
rạp hàng rồi bỏ chạy, trường hợp phạm tội này dễ nhầm với hành vi công nhiên
chiếm đoạt tài sản;
- Người phạm tội có thể dùng thủ đoạn có vẻ như đe doạ chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản như: Giả làm cán bộ quản lý thị trường đến kiểm tra hàng rồi
bất thần giật tài sản hoặc tạo điều kiện cho đồng phạm khác giật tài sản rồi tẩu thoát,
trường hợp phạm tội này dễ nhầm với hành vi cưỡng đoạt tài sản;
- Người phạm tội cũng có thể dùng thủ đoạn lén lút để tiếp cập chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản rồi bất ngờ giật tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản
lý tài sản như: Bí mật đột nhập từ phía sau chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản
đang ngồi nghỉ trên một chiếc ghế trong Công viên, rồi bất thần giật chiếc túi xách
của người này rồi bỏ chạy, trường hợp này dễ nhầm với hành vi trộm cắp tài sản.
Mặt khác, ngoài hành vi giật tài sản thì 02 dấu hiệu đặc trưng không thể thiếu
của tội CGTS là dấu hiệu công khai và dấu hiệu nhanh chóng.
9
Dấu hiệu công khai: Là một trong những đặc trưng của tội CGTS và là một
trong cách tiêu chí nhằm so sánh, phân biệt tội CGTS với các tội khác của chương
xâm phạm sở hữu. Dấu hiệu này thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội là
không hề giấu giếm, che đậy hành vi của mình đối với thế giới khách quan. Nó là
dấu hiệu cơ bản giúp phân biệt với dấu hiệu lén lút trong cấu thành tội phạm tội
trộm cắp tài sản hay dấu hiệu gian dối trong hành vi khách quan của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Dấu hiệu công khai của tội cướp giật tài sản được thể hiện bởi việc người
phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội thì hành vi đó phải được thực hiện công
khai đối với mọi người xung quanh và đặc biệt là đối với người bị hại. Dấu hiệu
công khai này cho phép những người xung quanh và chủ sở hữu tài sản biết ngay
hành vi CGTS. Tuy nhiên, thời gian thực hiện hành vi này diễn ra rất nhanh và bất
ngờ nên mọi người và đặc biệt là chủ sở hữu thường không có cách nào can thiệp
ngay tức khắc nhằm chống trả lại hành vi CGTS. Khả năng nhận biết của chủ sở
hữu có ý nghĩa then chốt để phân biệt tội CGTS với tội trộm cắp tài sản trong quá
trình định tội. Hành vi công khai này phải đáp ứng đủ cả 2 yếu tố là công khai với
mọi người xung quanh và cả chủ sở hữu bởi nếu chủ sở hữu không biết hành vi
chiếm đoạt của người phạm tội tức là người phạm tội đang lén lút đối với chủ sở
hữu thì trường hợp này người phạm tội thỏa mãn cấu thành của tội trộm cắp tài sản
chứ không phải tội CGTS.
Có những trường hợp trong thực tiễn người phạm tội có sử dụng thủ đoạn lén
lút nhưng khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản lại thực hiện một cách công khai.
Ví dụ: Khoảng 10 giờ ngày 20/12/2019 tại bến xe nước ngầm, Hà Văn Tuấn theo
dõi thấy chị Hà Diệu Thúy đang xếp hàng mua vé xe khách đã có đeo túi xách tại
vai bên trái, Tuấn đã lặng lẽ tiến tới áp sát tay chị Thúy và nhân lúc chị Thúy lơ là
đã dùng tay giật mạnh túi xách trên tay chị Thúy và bỏ chạy. Việc theo dõi chị Thúy
xếp hàng mua vé xe khách của Tuấn là lén lút, bí mật chờ khi chị Thúy mất cảnh
giác tuy nhiên khi chiếm đoạt tiền của chị Thúy, Tuấn lại thực hiện một cách công
khai đối với chính bị hại và với mọi người xung quanh cũng vậy. Đó là dấu hiệu để
xác định tội danh và hành vi này của Tuấn đã cấu thành tội CGTS.
10
Dấu hiệu công khai của tội CGTS thể hiện rõ nét trong suy nghĩ của người
phạm tội và được bộc lộ ra bên ngoài bởi hành vi khách quan bởi khi thực hiện hành
vi, người phạm tội ý thức được hành vi của mình có thể bị phát hiện nhưng hoàn
toàn không có ý định che giấu thậm chí là không quan tâm việc những ai thấy được
việc chiếm đoạt của mình từ người bị hại đến những người xung quanh. Trường hợp
này, người phạm tội nhận thức rõ được hành vi phạm tội của mình nhưng với suy
nghĩ sẽ chạy thoát được nên vẫn thực hiện hành vi tới cùng.
Dấu hiệu nhanh chóng: Đây là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mặt khách
quan của tội CGTS và được phản ánh qua phương thức thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản của chủ tài sản một cách khẩn trương, vội vã. Quá trình thực hiện hành
vi phạm tội, tội phạm lợi dụng sơ hở của bị hại, người quản lý tài sản. Khi phát hiện
thấy sơ hở (có thể có sẵn hoặc do người phạm tội chủ động gây nên) người phạm tội
sẽ nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản rồi nhanh chóng tẩu
thoát... Dấu hiệu này diễn ra liên tục và kéo dài toàn bộ quá trình người phạm tội
thực hiện hành vi từ khi bắt đầu (nhanh chóng tiếp cận tài sản) đến khi kết thúc
(nhanh chóng tẩu thoát, tẩu tán tài sản). Để đánh giá thế nào là nhanh chóng, chúng
ta cần căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau như cách thức chiếm giữ, quản lý tài sản
của chủ sở hữu tài sản: cầm tay, đeo trên người, … ngoài ra còn căn cứ vào đặc
điểm của tài sản: gọn nhẹ, dễ lấy, dễ dịch chuyển hay không … cũng như những
ngoại cảnh bên ngoài môi trường như mật độ người qua lại, thời gian, địa điểm, ….
Dấu hiệu nhanh chóng tiếp cận và tẩu thoát không phải là dấu hiệu bắt buộc mà chỉ
là thủ đoạn nhanh chóng trốn thoát của tội phạm. Có quan điểm cho rằng yếu tế tẩu
thoát là một trong những yếu tố bắt buộc của tội CGTS tuy nhiên theo tác giả thì đó
không phải là yếu tố bắt buộc bởi nhiều trường hợp trên thực tiễn cho thấy người
phạm tội muốn tẩu thoát tuy nhiên vì lý do khách quan mà không thực hiện được.
Khi đó tuy không có dấu hiệu tẩu thoát nhưng hành vi CGTS đã đủ cấu thành vẫn
phải truy cứu TNHS.
Bên cạnh đó, dấu hiệu sử dụng vũ lực cũng là một trong các yếu tố có thể
thấy trong một vụ án CGTS. Yếu tố này không phải là bắt buộc bởi người phạm tội
sử dụng yếu tố này không nhằm mục đích khống chế ý chí của chủ sở hữu mà chỉ sử
11
dụng với mục đích để tẩu thoát. Hành vi dùng vũ lực trong quá trình CGTS rất dễ
nhầm lẫn với các tội cướp tài sản hay cưỡng đoạt tài sản. Trong thực tiễn quá trình
đánh giá chứng cứ dấu hiệu này rất dễ dẫn tới việc định tội danh sai.
Mục đích cuối cùng của tội phạm CGTS là chiếm hữu tài sản rồi mau chóng
tẩu thoát nên khi có hành vi giật tài sản từ sự quản lý của chủ sở hữu việc tác động
một lực nhẹ lên chủ sở hữu gần như là điều tất yếu nhưng mục đích của việc tác
dụng lực không phải là làm tê liệt ý chí hay loại bỏ khả năng chống cự nhằm chiếm
đoạt tài sản. Người phạm tội chỉ mong muốn chủ tài sản không kịp phản ứng và
không còn khả năng bảo vệ tài sản và người phạm tội cũng không có bất cứ thủ
đoạn nào để đối phó bằng vũ lực với chủ tài sản nhằm để tài sản rời khỏi sự quản lý
của người chiếm hữu, quản lý tài sản. Hành vi dùng vũ lực ở tội CGTS chỉ là biện
pháp hỗ trợ, nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm được nhanh chóng bởi
nếu đó là hành vi đầu tiên với mục đích loại bỏ khả năng chống cự của chủ tài sản
thì đó không còn là tội CGTS nữa mà sẽ chuyển hóa sang tội khác như cướp tài sản,
cưỡng đoạt tài sản ... Không phải tất cả mọi trường hợp có dấu hiệu dùng vũ lực
trong quá trình chiếm đoạt tài sản đều chuyển hóa tội CGTS thành tội cướp tài sản
bởi lẻ nếu đánh giá như vậy thì chúng ta đã có cái nhìn sai về tội CGTS. Dấu hiệu
sử dụng vũ lực cần đánh giá chính xác vào thời điểm người phạm tội thực hiện hành
vi dùng vũ lực. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, việc chứng minh
ý thức chủ quan bên trong của tội phạm là cực kỳ khó khăn cũng như độ chính xác
không cao vì thế khi đánh giá chứng cứ cần xem xét đến những vấn đề liên quan
khác như thời gian, phương thức ... Bởi nếu hành vi dùng vũ lực xảy ra sau khi
chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi đó để chống trả lại quá trình vây bắt của chủ tài sản
cùng quần chúng nhân dân thì đó chỉ là một dấu hiệu nhằm tẩu thoát của người
phạm tội. Trường hợp này không thể chuyển hóa tội CGTS sang tội cướp tài sản.
Việc dùng vũ lực trong trường hợp này được đánh giá là một tình tiết tăng nặng
định khung của tội CGTS. Ngoài ra, tùy thuộc vào tính chức mức độ của hành vi sử
dụng vũ lực mà người tiến hành tố tụng phải xem xét về việc phải chịu TNHS của
người phạm tội với tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 BLHS năm 2015. Bởi tội
12
CGTS có cấu thành hình thức, tội phạm hoàn thành ngay sau khi thực hiện hành vi
giật tài sản mà không cần đến đến các dấu hiệu hậu quả để định tội.
1.1.2.1.3 Chủ thể của tội cướp giật tài sản
Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành: Chủ thể của tội phạm có thể là con
người cụ thể hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách
cố ý hoặc vô ý được luật hình sự quy định là tội phạm, thực hiện hành vi trong tình
trạng có năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định dp PLHS quy định tuy nhiên chủ
thể của tội CGTS chỉ có thể là con người chứ không thể là pháp nhân. Đối với chủ
thể của tội CGTS phải là người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi nghuy hiểm
cho xã hội và đạt độ tuổi chịu TNHS bên cạnh đó còn phải có năng lực TNHS và đã
thực hiện hành vi CGTS. Căn cứ để xác định chủ thể của tội cướp giật tài sản là
Điều 12 và Điều 171 BLHS năm 2015. Điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi
chịu TNHS như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các
điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249,
250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.” [5,
tr.14]
Một vấn đề đặt ra với chủ thể của tội CGTS riêng và tội phạm nói chung
chúng ta cần lưu ý là vấn đề TNHS. Vấn đề này được quy định tại Điều 21 BLHS
năm 2015, tác giả hiểu rằng người có năng lực TNHS là những người không mắc
bệnh tâm thần hay một bệnh lý nào khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của bản thân. Chủ thể của tội CGTS phải đáp ứng đủ 02
yếu tố đó là nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự
của hành vi do mình thực hiện hoặc điều khiển được hành vi của mình.
Điều 171 BLHS năm 2015 quy định bốn khung hình phạt. Căn cứ vào quy
định tại Điều 9 BLHS năm 2015 về phân loại tội phạm, tội cướp giật tài sản bao
gồm các loại tội nghiêm trọng (Khung 1), rất nghiêm trọng (Khung 2 và 3) và đặc
13
biệt nghiêm trọng (Khung 4). Căn cứ vào Điều 12 BLHS 2015 cùng với sự phân
loại tội phạm ở các khung thì chủ thể của tội CGTS còn phải là người đủ 16 tuổi
(đối với khoản 1 điều 171 hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (đối với khoản 2, 3 và 4 Điều
171).
1.1.2.1.4 Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là đặc điểm tâm lý bên trong, thể hiện bởi thái độ
và tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Mục đích chiếm đoạt tài sản được manh nha và hình thành trước khi người
phạm tội thực hiện hành động. Họ mong muốn hậu quả xảy ra là chiếm đoạt được
tài sản của người khác và hành động nhằm thực hiện mong muốn của mình. Vì thế
nếu chủ thể thực hiện ra bên ngoài cùng một hành vi nhưng mục đích không phải để
chiếm đoạt tài sản mà chỉ là đùa vui hay trêu đùa thì người này không phải chủ thể
của tội CGTS. Do đó, người phạm tội CGTS nhận thức được hành vi và mối quan
hệ nhân quả từ hành vi của mình tuy nhiên lại thực hiện hành vi của mình một cách
công khai và hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi đó như phân tích ở trên.
Hành vi của người phạm tội với mong muốn không cho chủ sở hữu cơ hội phản
kháng ngăn cản việc chiếm đoạt tài sản nên sẽ không dùng bất kỳ một thủ đoạn nào
khác để đối phó trực tiếp với chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản của chủ tài sản.
Người phạm tội biết rõ tài sản là của người khác tuy nhiên vẫn muốn chiếm đoạt
bằng được. Vậy nên, người phạm tội cố ý, mong muốn hậu quả thực tế xảy ra để đạt
được mục đích của mình. Trước khi thực hiện hành vi, người phạm tội có đầy đủ
thời gian để lựa chọn hành động hoặc không hành động. Bởi những lẽ đó, người
thực hiện tội phạm đã có sự cố ý đối với hành động bất hợp pháp của mình và yếu
tố lỗi trong cấu thành của tội CGTS phải là lỗi cố ý.
Điều 10 BLHS năm 2015 quy định về lỗi cố ý:
“1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng có ý
thức để mặc cho hậu quả xảy ra.” [5, tr.13]
14
- Xem thêm -