Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn lỗi chính tả của học sinh tiểu học tại thành phố hồ chí minh...

Tài liệu Luận văn lỗi chính tả của học sinh tiểu học tại thành phố hồ chí minh

.PDF
115
115
105

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Ngôn ngữ không chỉ là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất mà còn là công cụ tƣ duy của một cộng đồng dân tộc nói chung và của học sinh trong nhà trƣờng nói riêng. Ngôn ngữ đồng thời còn là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng nhất của nền văn hóa dân tộc, góp phần làm nên và thể hiện bản sắc, giá trị của nền văn hóa ấy. Hình thức của ngôn ngữ là âm thanh. Để ghi lại hình thức của ngôn ngữ con ngƣời đã tạo ra chữ viết. Giữa chữ viết và ngôn ngữ có mối ràng buộc tác động lẫn nhau. Do vậy nghiên cứu những vấn đề về chính tả luôn cần thiết, có ý nghĩa và là một trong các yêu cầu đặt ra của ngành Ngôn ngữ học. 1.2. Các ngôn ngữ có thể có hình thức chữ viết không giống nhau, nhƣng tất cả các kiểu chữ viết đều là do quy ƣớc và mang tính pháp chế, thống nhất trong toàn quốc. Trong bất kỳ hệ thống chữ viết nào trên thế giới cũng nhƣ chữ Quốc ngữ ở Việt Nam đều luôn bao gồm các quy định, quy tắc về chính tả (CT). Các quy tắc, quy định về chính tả là hƣớng đến chuẩn phát âm và chính tả nhằm giúp cho mọi ngƣời trong xã hội, học tập, giao tiếp thuận lợi (nhất là khi Quốc gia đó có nhiều tiếng địa phƣơng nhƣ ở Việt Nam) và đồng thời việc phát âm chuẩn và viết đúng chính tả sẽ góp phần giữ gìn sự trong sáng và thống nhất của ngôn ngữ văn hóa, ngôn ngữ quốc gia. Do vậy, chữ viết luôn là một nội dung giáo dục quan trọng đƣợc đƣa vào dạy học trong nhà trƣờng. Phổ biến, các nội dung chính tả ở các quốc gia thƣờng đƣợc tập trung dạy học ở chƣơng trình Tiểu học. Khả năng viết chính tả của học sinh từ cấp Trung học cơ sở trở lên cũng nhƣ của mỗi cá nhân hoạt động trong xã hội đều chịu ảnh hƣởng rất lớn từ bƣớc học chính tả ở bậc Tiểu học. Do vậy, tìm hiểu chất lƣợng chính tả của các lớp Tiểu học là cần thiết và có ý 2 nghĩa không chỉ đối với thầy cô giáo và học sinh Tiểu học mà còn hữu ích với những ngƣời làm công tác giáo dục và cả với những ai quan tâm tới giáo dục phổ thông. 1.3. Từ lý thuyết đến thực tiễn cũng nhƣ từ nội dung dạy học trong sách giáo khoa đến kết quả vận dụng trong thực hành ngôn ngữ luôn luôn có quan hệ mật thiết; tuy hai mặt nhƣng lại không tách rời, cô lập với nhau. Cho nên nghiên cứu chính tả trong nhà trƣờng, ngoài việc tìm hiểu nội dung học phần chính tả trong sách Tiếng Việt các lớp Tiểu học còn cần phải khảo sát thực tế chất lƣợng chính tả của học sinh để có những tác động trở lại đối với sách giáo khoa (SGK) và công tác dạy học. Hiện nay dƣ luận xã hội cũng nhƣ đánh giá của ngành Giáo dục, học sinh viết sai chính tả còn nhiều. Vậy nguyên nhân của vấn đề đó là do đâu? Chúng tôi cho rằng, khảo sát lỗi chính tả của học sinh, từ đó đặt chúng trong quan hệ với nội dung dạy học chính tả trong SGK để phân tích đánh giá có thể tìm ra một trong những nguyên nhân mắc lỗi và đề ra đƣợc những giải pháp hạn chế lỗi chính tả của học sinh. 1.4. Chữ viết tiếng Việt là chữ ghi âm. Về nguyên tắc, phát âm thế nào thì ghi âm thế ấy. Tiếng Việt là một ngôn ngữ có nhiều phƣơng ngữ, thổ ngữ khác nhau. Cho nên chính tả tiếng Việt có liên quan đến phát âm địa phƣơng. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố lớn của đất nƣớc, tiếng nói của cƣ dân thành phố Hồ Chí Minh không thống nhất mà rất đa dạng, phức tạp. Ngoài dân bản địa phát âm theo tiếng địa phƣơng, số dân là ngƣời Hoa chiếm hơn 30%, dân từ khắp các nơi về cƣ trú làm ăn và sinh sống (miền Bắc, miền Trung) khá nhiều, cho nên cách phát âm ở thành phố Hồ Chí Minh khá đa dạng. Điều này ảnh hƣởng không nhỏ đến cách viết chính tả của học sinh. Vì thế, việc nghiên cứu, khảo sát lỗi chính tả và tìm hiểu ảnh hƣởng của nhân tố phát âm mang tính địa phƣơng đến chính tả của HS thành phố Hồ 3 Chí Minh là cần thiết cho dạy học chính tả nói riêng và rèn luyện ngôn ngữ nói chung cho HS trên địa bàn này. Từ 4 lý do trên, chúng tôi chọn: Lỗi chính tả của học sinh Tiểu học thành phố Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Ngay từ khi chữ Quốc ngữ bắt đầu đƣợc truyền bá mạnh mẽ ở Việt Nam cho đến nay, vấn đề CT và lỗi CT đã luôn đƣợc các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục quan tâm, bởi nó có ảnh hƣởng rất lớn tới chất lƣợng giao tiếp bằng ngôn ngữ nói và viết. Sau đây là một số công trình tiên biểu đã nghiên cứu, đề cập đến vấn đề chính tả. Năm 1895, 1896, Paulus Huỳnh Tịnh Của, biên soạn cuốn Đại Nam quấc âm tự vị (tập 1 và tập 2). Đây là cuốn từ điển tiếng Việt quy mô đầu tiên của ngƣời Việt Nam. Sách đƣợc soạn thảo nhằm phục vụ cho việc học tập, tra cứu tiếng Việt nói chung, trong đó có tra cứu học tập chính tả chữ Quốc ngữ nói riêng. Từ đó về sau một loạt tác giả khác cũng cho ra đời các công trình tƣơng tự . Năm 1953, Nguyên Duyên Niên cho xuất bản cuốn Từ điển chính tả đối chiếu Việt Nam. Năm 1958, Nguyễn Châu xuất bản cuốn Việt Ngữ chính tả. Năm 1959, Lê Ngọc trụ, Thanh Tân xuất bản cuốn Việt ngữ chính tả tự vị. Năm 1997, Đỗ Nhƣ Ý, Đỗ Việt Hùng xuất bản cuốn Từ điển chính tả tiếng Việt. Năm 2001, Hoàng Phê xuất bản cuốn Chính tả tiếng Việt. Vấn đề dạy chính tả tiếng Việt trong nhà trƣờng cũng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu, nhà sƣ phạm quan tâm. Các nhà nghiên cứu đã đƣa ra nhiều 4 phƣơng pháp, giải pháp dạy chính tả tiếng Việt; chúng tôi có thể khái quát thành một số giải pháp cơ bản sau đây: 2.1. Phát âm đúng để viết đúng chính tả Quan điểm phát âm đúng đƣợc hiểu là: Muốn viết đúng CT thì phải phát âm đúng, phát âm theo những phân biệt đã đƣợc ghi nhận trong chính tả. Chẳng hạn ngƣời miền Bắc (Hà Nội) phát âm đúng là phải phân biệt ch và tr, s và x… Ngƣời miền Trung (Huế) phát âm đúng là phải phân biệt thanh hỏi (?) và thanh ngã (~). Ngƣời miền Nam (Sài Gòn) phát âm đúng là phải phân biệt các con chữ ghi phụ âm v với d với gi,… Các tác giả quan tâm đến giải pháp này là Lê Văn Lựu (1942) trong cuốn Lược khảo Việt ngữ, Nguyễn Minh Châu (1958) với cuốn Việt ngữ chính tả, Hoàng Phê với Vấn đề cải tiến và chuẩn hóa chính tả… Tuy nhiên, giải pháp này gặp nhiều khó khăn bởi phát âm chịu ảnh hƣởng rất lớn của thói quen; muốn phát âm đúng, trƣớc hết phải nắm đƣợc chính tả, phải nhớ đƣợc các yếu tố chính tả, nếu không những điều học đƣợc sẽ nhanh chóng bị thói quen xóa đi. Có khi còn phải làm ngƣợc lại là cần phải học cách viết chính tả đúng. Sau đó nhờ viết chính tả đúng sẽ giúp ngƣời ta phát âm chuẩn. Chƣa kể do ảnh hƣởng của phƣơng ngữ và thổ ngữ, việc thay đổi thói quen phát âm sẽ mất nhiều thời gian. Trên thực tế một số ngƣời phát âm không chuẩn do nói tiếng địa phƣơng nhƣng lại viết không sai chính tả. Nhƣ vậy giải pháp này không phải là giải pháp tối ƣu, càng không phải là giải pháp duy nhất mà chỉ có thể là giải pháp bổ trợ trong dạy học chính tả mà thôi. 2.2. Giải pháp học mẹo chính tả để viết đúng chính tả Các mẹo chính tả có ý nghĩa tƣơng đƣơng nhƣ những “thang thuốc” mà các nhà ngôn ngữ học đã “bốc” cho chúng ta bằng cách hệ thống hóa các tri thức ngôn ngữ trừu trƣợng thành những công thức giản tiện nhất để ứng dụng khi học chính tả. 5 Tiêu biểu cho nhóm giải pháp này là các tác giả biên soạn từ điển chính tả, nhƣ Trần Văn Thanh (1954) công bố một số công trình có giá trị về chính tả trong đó có công trình Đồng âm dẫn giải và mẹo luật chính tả. Trong công trình này, tác giả đƣa ra 26 mẹo luật chính tả, bao gồm mẹo về phụ âm đầu, vần, thanh cho từ thuần Việt và từ Hán Việt. Năm 1972, Lê Ngọc Trụ có Việt ngữ chính tả tự vị, ông đã bổ sung thêm một số mẹo luật về hỏi (?), ngã( ~). Năm 1982, Phan Ngọc công bố Chữa lỗi chính tả cho học sinh, trong đó tác giả đã đƣa ra 14 mẹo chính tả. Năm 1984, từ các mẹo luật CT đã đƣợc công bố trƣớc đó, Lê Trung Hoa đã tổng hợp thành 36 mẹo luật chính tả bổ sung trong công trình Mẹo luật chính tả. Ngoài ra, một số tác giả viết sách Tiếng Việt thực hành và bài tập Rèn luyện ngôn ngữ cũng có nhắc tới mẹo luật chính tả nhƣng không đi sâu phân tích, tiêu biểu cho hƣớng này là một số tác giả: Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Nguyễn Văn Hiệp (1996), Tiếng Việt thực hành, Nxb ĐHQG Hà Nội. Bùi Minh Toán( chủ biên), Lê An, Đỗ Việt Hùng (1997), Tiếng Việt thực hành, Nxb Giáo dục . Phan Thiều (1998), Rèn luyện ngôn ngữ (Tập I, II), Nxb Giáo dục . Từ những công trình trên cho ta thấy không có một mẹo chính tả nào là vạn năng; mỗi mẹo chỉ giúp chữa một loại lỗi nhất định nào đó. Muốn giải quyết tất cả các lỗi chính tả thì đòi hỏi ngƣời học phải nhớ hàng trăm mẹo luật chính tả, chƣa kể trong mỗi mẹo luật lại có thêm những trƣờng hợp ngoại lệ (phải học thuộc), điều đó không hề đơn giản với học sinh. Học sinh Tiểu học còn quá nhỏ để các em có thể hiểu và học thuộc đƣợc tất cả, cho nên mẹo cũng không phải là giải pháp tối ƣu. Theo chúng tôi mẹo chính tả vừa có ƣu 6 điểm vừa có nhƣợc điểm, nếu ngƣời học (học sinh) muốn vận dụng phải có sự lựa chọn và có sự hỗ trợ từ phía ngƣời dạy (Giáo viên) thì mới có hiệu quả cao. 2.3. Học chính tả bằng cách nhớ từng chữ một (nhớ một cách máy móc) Mục tiêu cuối cùng phải đạt đƣợc khi học chính tả là “dùng từ nào thì phải viết đúng chữ ghi từ đó”. Nên giải pháp học chính tả bằng cách nhớ từng chữ một cũng khá phù hợp với học sinh Tiểu học về mặt đặc điểm tâm lý nhận thức của học sinh. Các em có thể đƣợc học đi học lại thông qua các văn bản, hệ thống bài tập đƣợc nâng cao theo cấp lớp. Tuy nhiên lƣợng âm tiết trong tiếng Việt thì quá nhiều cũng gây khó khăn với các em, đòi hỏi ngƣời dạy phải biết cách hệ thống lại và quy chúng thành các loại, các nhóm lỗi chính tả và kết hợp với một số giải pháp khác để chúng có hiệu quả cao. 2.4. Giải pháp chữa lỗi chính tả thông qua bài tập lựa chọn Đây là tƣ tƣởng của các tác giả biên soạn SGK Tiếng Việt (chƣơng trình Tiểu học sau năm 2000). Song trong SGK các tác giả chỉ biên soạn đƣợc các bài tập mang tính phổ quát chung nhất mang tính vùng miền (Bắc – Trung – Nam) để giáo viên tự lựa chọn. Giải pháp này cũng có ƣu điểm, song trên thực tế đa phần giáo viên không có nhiều thời gian lựa chọn nên thƣờng bỏ qua hoặc bài nào cũng cho học sinh làm. Vì thế càng không khắc sâu và làm rõ đƣợc đặc trƣng lỗi chính tả vùng miền. Tóm lại: Qua các giải pháp đã trình bày ở trên thì giải pháp nào cũng có những ƣu điểm, hạn chế nhất định, song nó cũng ít nhiều giúp cho ngƣời dạy (giáo viên) ngƣời học (học sinh) hoàn thiện đƣợc kỹ năng dạy và học chính tả. Cần phải có sự đầu tƣ, gia công thêm của các nhà sƣ phạm để có thể đƣa vào áp dụng cho phù hợp với đối tƣợng học sinh. Tuy nhiên, để vận dụng 7 các giải pháp có hiệu quả cao thì cần có sự điều tra nghiên cứu thực trạng lỗi chính tả theo vùng miền để có thể áp dụng các giải pháp cho tốt nhất. Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất nƣớc ta, là trung tâm của kinh tế, văn hóa lớn đang trên đà phát triển. Thành phố Hồ Chí Minh cũng có những đặc điểm địa lý cƣ dân khác biệt các vùng nên về phát âm tuy cũng mang tính chất phƣơng ngữ Nam Bộ nhƣng lại có những đặc điểm riêng. Thực tế cho thấy, chính tả ở thành phố Hồ Chí Minh đã là vấn đề đáng báo động; không chỉ trẻ em mà cả ngƣời lớn cũng viết sai chính tả rất nhiều . Vậy thực trạng của vấn đề là gì? Nguyên nhân và giải pháp nào để khắc phục? Câu hỏi trên đến nay chƣa có tác giả nào nghiên cứu, viết cụ thể. Tiếp thu kết quả nghiên cứu của các công trình về chính tả, căn cứ vào tình hình khảo sát lỗi chính tả của học sinh tại thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi chọn Khảo sát Lỗi chính tả của học sinhTiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài: Lỗi chính tả của học sinh Tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm hai mục đích sau: - Thấy đƣợc thực trạng các loại lỗi CT của học sinh Tiểu học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. - Tìm đƣợc các nguyên nhân dẫn đến lỗi chính tả của học sinh từ đó đề ra đƣợc các biện pháp giải pháp phù hợp nhằm hạn chế lỗi chính tả của học sinh giúp học sinh nói và viết tiếng Việt ngày càng tốt hơn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn cho vấn đề nghiên cứu. - Khảo sát, mô tả thực trạng lỗi chính tả của học sinh Tiểu học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 8 - Phân tích, chỉ ra những nhân tố ảnh hƣởng đến lỗi CT và đề xuất hƣớng khắc phục. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ KHÁCH THỂ ĐIỀU TRA 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Khảo sát lỗi chính tả của học sinh Tiểu học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh qua bài kiểm tra, vở ghi và phiếu điều tra. - Đối chiếu nội dung phần chính tả trong sách tiếng Việt các lớp Tiểu học (từ lớp 2 đến lớp 5) để tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục lỗi CT. 4.2. Khách thể và phạm vi điều tra Đối tƣợng điều tra là học sinh Tiểu học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ khối 2 đến khối 5 (không khảo sát khối lớp 1 vì học sinh lớp 1 học âm vần và phân môn chính tả chỉ bắt đầu từ tuần 27 – tuần 35). Phạm vi điều tra: Chúng tôi tiến hành điều tra lỗi CT học sinh Tiểu học ở các quận có đặc điểm dân cƣ khác nhau : + Các trƣờng ở Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh (đa số là dân đã sống lâu đời ở thành phố Hồ Chí Minh, mặt bằng dân trí cao). + Các trƣờng ở Quận 5 (đa số dân cƣ là ngƣời dân tộc Hoa ) có hơn 30% dân cƣ sinh sống tại Quận 5 là ngƣời Hoa, thành phần làm kinh doanh và trí thức là chính. + Các trƣờng quận ngoài vùng ven, đa số là dân nhập cƣ từ các nơi, đủ các thành phần. 5. TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Ngữ liệu Ngữ liệu chính thu thập trên các sản phẩm học tập của học sinh trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nhƣ các bài kiểm tra định kỳ, vở ghi…. Ngoài ra, chúng tôi kèm theo phiếu điều tra biên soạn theo mục đích của ngƣời 9 nghiên cứu phát tới cho học sinh, trên chƣơng trình SGK của HS Tiểu học từ lớp 2 – lớp 5. 5.2. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng chủ yếu một số phƣơng pháp và thủ pháp sau: 5.2.1. Phƣơng pháp điều tra xã hội học. Chọn mẫu khảo sát và phân tích kết hợp với quan sát, tiếp cận, đàm thoại, phỏng vấn… để tìm ra các loại lỗi và những nhân tố ảnh hƣởng đến lỗi CT của học sinh Tiểu học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 5.2.2. Thủ pháp thống kê ngôn ngữ học: Để xác định thực trạng và nguyên nhân lỗi chính tả của học sinh Tiểu học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 5.3.3. Phƣơng pháp miêu tả: Đây là phƣơng pháp quan trọng nhằm phân tích, đánh giá các tƣ liệu thu nhập đƣợc về hiện tƣợng nghiên cứu. Ngoài các phƣơng pháp thủ pháp nghiên cứu trên, đề tài còn áp dụng các thủ pháp quy nạp, diễn dịch, so sánh,… trong quá trình miêu tả phân tích đánh giá. 6. CÁI MỚI CỦA ĐỀ TÀI Lần đầu tiên nội dung dạy học chính tả trong sách Tiếng Việt và lỗi CT của học sinh Tiểu học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đƣợc tìm hiểu, khảo sát, phân tích, miêu tả; nguyên nhân của lỗi và những biện pháp giải pháp ngôn ngữ học nhằm hạn chế lỗi đƣợc đề xuất. 7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 10 Chƣơng 2: CÁC LOẠI LỖI CHÍNH TẢ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. Chƣơng 3: NGUYÊN NHÂN LỖI CHÍNH TẢ VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NỘI DUNG DẠY HỌC NHẰM KHẮC PHỤC LỖI CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. 11 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Chữ viết và chính tả tiếng Việt 1.1.1. Chữ viết tiếng Việt 1.1.1.1. Khái niệm về chữ viết Chữ viết là một hệ thống kí hiệu làm bằng đƣờng nét đƣợc sử dụng để ghi lại lời nói của âm thanh. Nói cách khác, chữ viết là hệ thống ký hiệu đồ họa đƣợc quy ƣớc sử dụng để cố định hóa ngôn ngữ âm thanh trong văn bản viết. Có thể coi chữ viết là “hệ thống tín hiệu của tín hiệu”. 1.1.1.2. Hoạt động giao tiếp và hiệu quả của hoạt động giao tiếp bằng chữ viết Trong đời sống hàng ngày, con ngƣời luôn có nhu cầu trao đổi về thông tin, tâm tƣ, tình cảm với nhau. Và khi có hai hoặc hơn hai ngƣời sử dụng một loại phƣơng tiện nào đó để trao đổi thông tin nhằm đạt một mục đích nào đó thì đó là hoạt động giao tiếp. Theo lý thuyết thông tin, bất cứ một cuộc giao tiếp nào của con ngƣời cũng phải có các đối tƣợng giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp… Để đạt đƣợc mục đích giao tiếp, tức là truyền tải đƣợc tâm tƣ, tình cảm, ý kiến, quan điểm, nhận xét của mình đến với ngƣời khác, con ngƣời phải sử dụng những phƣơng tiện giao tiếp nhất định. Các phƣơng tiện đƣợc sử dụng trong giao tiếp của con ngƣời vô cùng phong phú. Ngƣời ta có thể sử dụng ánh mắt và nụ cƣời, cử chỉ và điệu bộ, các tín hiệu và ký hiệu, cờ hiệu, … để có thể làm cho ngƣời khác hiểu mình ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên sử dụng các phƣơng tiện này khi giao tiếp, trong rất nhiều trƣờng hợp, con ngƣời bị hạn chế về nội dung, về phƣơng thức, hình thức, về thời gian và không 12 gian, … nên các phƣơng tiện giao tiếp kể trên không thể truyền tải đƣợc hết các ý của ngƣời tham gia giao tiếp. Trong giao tiếp, con ngƣời đã sử dụng ngôn ngữ nhƣ một phƣơng tiện chủ yếu. Ngôn ngữ với những đặc điểm ƣu việt của nó đã giúp cho việc trao đổi thông tin, trao đổi những suy nghĩ, cho việc bộc lộ niềm vui và nỗi buồn của con ngƣời một cách cụ thể, có hiệu quả cao. Giao tiếp bằng ngôn ngữ thể hiện chủ yếu ở hai dạng văn bản còn gọi là ngôn bản: giao tiếp bằng lời (âm thanh) hoặc giao tiếp bằng văn tự (chữ viêt). Trong một hệ thống ngôn ngữ, âm vị là ký hiệu âm thanh nhỏ nhất. Ký hiệu âm thanh đó cần phải ghi thành ký hiệu vật chất để mắt ngƣời có thể nhìn thấy đƣợc, do vậy mà có chữ viết ghi âm, có hệ thống văn tự ghi âm của một ngôn ngữ. Chữ viết ra đời khi con ngƣời đã phát triển tới trình độ cao. Trong hệ thống các loại chữ viết có loại chữ viết ghi âm nhƣ tiếng Việt, đó là hệ thống tín hiệu đồ hình đƣợc sử dụng để ghi lại lời nói bằng âm thanh. Có thể coi chữ viết là “hệ thống tín hiệu của tín hiệu”. Nhờ chữ viết mà ngƣời đời sau có thể hiểu đƣợc ngƣời đời trƣớc, ngƣời đời trƣớc có thể “nhắn nhủ” với ngƣời đời sau. Chữ viết chẳng những khắc phục đƣợc hạn chế về không gian, thời gian của ngôn ngữ mà còn phát huy đƣợc tác dụng trong những hoàn cảnh giao tiếp không dùng ngôn ngữ nói đƣợc, do chữ viết có chức năng khác hẳn với lời nói. Chức năng khác biệt ấy chủ yếu thể hiện ở chỗ ngƣời đọc một văn bản khác với ngƣời tham gia đối thoại và chữ viết đƣợc đọc bằng mắt chứ không phải nghe bằng tai. Cho nên, một ngƣời khi tham gia vào cuộc giao tiếp thông qua lời nói sẽ có sự nhận diện về từ ngữ khác hẳn với một ngƣời chỉ nhận diện từ ngữ trên văn bản. Khi một hệ thống chữ viết đƣợc một dân tộc sử dụng trong một thời gian dài sẽ trở thành một truyền thống văn hóa. Với sức mạnh đó chữ viết thực sự là động lực phát trển của xã hội loài ngƣời. Nó giúp 13 con ngƣời có thể kế thừa và học tập lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực, từ lĩnh vực văn hóa, lịch sử cho đến các lĩnh vực khoa học kỹ thuật. 1.1.1.3. Các thành tố của âm tiết tiếng Việt và sự thể hiện bằng chữ viết Tiếng Việt là ngôn ngữ phân tiết tính: các âm tiết đƣợc tách bạch rõ ràng trong dòng lời nói. Vì thế, khi viết, các chữ biểu thị âm tiết đƣợc viết rời, Ví dụ: “ Trƣờng/ học/ là/ ngôi/ nhà /thứ/ hai/ của/ em” (9 âm tiết). Trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt, âm tiết có vị trí hết sức quan trọng. Âm tiết là sự biểu hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất những đặc điểm của tiếng Việt về mặt ngữ âm. Mỗi âm tiết tiếng Việt đều mang một thanh điệu nhất định, có 5 thanh đƣợc ghi bằng 5 kí hiệu: huyền (\), sắc (/), hỏi (?), ngã (~), nặng (.) và thanh ngang không có ký hiệu dấu ghi thanh trên chữ viết. Khi viết chữ phải đánh dấu ghi thanh điệu trên âm chính hoặc bộ phận chính (đối với âm chính là nguyên âm đôi). Cấu tạo âm tiết tiếng Việt rất chặt chẽ và ổn định. Ở dạng đầy đủ, âm tiết tiếng Việt có cấu tạo với 4 đơn vị đoạn tính (âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối) và một đơn vị siêu đoạn tính (thanh điệu) và đƣợc chia thành hai bậc. Trên chữ viết, cách xác định ký hiệu ghi âm tiết nhƣ sau: Âm tiết – chữ viết Âm đầu Vần Âm đệm Âm chính Âm cuối Thanh điệu À ze ro ze ro a ze ro huyền Én ze ro ze ro e n sắc oản ze ro o a n hỏi Hoãn h o a n Ngã Toan t o a n Ngang 14 kiện k ze ro iê n nặng huyền h u yê n huyền huế h u ê ze ro sắc Khi xác định đƣợc ký hiệu ghi âm chính trong âm tiết (tiếng, chữ), ta ghi dấu thanh điệu lên trên hoặc dƣới con chữ ghi nguyên âm đó, ví dụ: ban, bàn, bạn… Trong trƣờng hợp có hai con chữ (nguyên âm) biểu thị âm chính (nguyên âm đôi), ngƣời ta thƣờng ghi dấu thanh điệu lên trên hoặc dƣới những con chữ có dấu hiệu phụ, kiểu: tiên, tiền, tiến, tiễn, tiện. Trong trƣờng hợp cả hai con chữ vốn ghi nguyên âm trong đó 1 chữ biểu thị âm chính một chữ biểu thị ghi âm đệm, ngƣời ta thƣờng ghi dấu thanh điệu lên con chữ làm âm : hòa, múa, …. Nhƣng với những trƣờng hợp cả hai con chữ (nguyên âm) cùng ghi nguyên âm làm âm chính đều có dấu phụ, ngƣời ta thƣờng ghi dấu thanh điệu lên trên hoặc dƣới con chữ nguyên âm thứ hai (từ trái sang phải): bươi, bưởi,… Từ mô hình cấu trúc âm tiết tiếng Việt và cách ghi dấu thanh nêu trên, chúng ta có thể lần lƣợt đi tìm hiểu các nguyên tắc ghi các thành phần âm vị trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt. a). Âm đầu Hệ thống âm đầu trong tiếng Việt có 22 phụ âm, bao gồm: + Mỗi âm vị âm đầu đƣợc ghi bằng một chữ cái là: 12. + Mỗi âm vị âm đầu đƣợc ghi bằng nhóm hai chữ cái là: 06. 15 + Mỗi âm vị âm đầu có hai cách ghi bằng một chữ cái và hai chữ cái là: 03 /z-z/, /ʐ,/, /ɣ/. + Âm vị âm đầu có hai cách ghi bằng hai chữ cái và nhóm ba chữ cái là: 01 (/ŋ/). + Mỗi âm vị âm đầu ghi bằng 03 chữ cái khác nhau: 01 -/k/ ( c, k, q) Chữ viết tiếng Việt là loại chữ ghi âm bằng chữ cái. Âm vị phụ âm đầu đứng ở vị trí số một trong âm tiết với tổng là 22 phụ âm, âm vị phụ âm đầu và chữ cái ghi âm vị phụ âm đầu nhƣ sau: Stt Âm vị Chữ cái Ghi chú và ví dụ 1 /b/ b bằng , bơi, biếc… 2 /m/ m miệng , môi, mắt , mũi… 3 /f/ ph phổi, pháo… 4 /v/ v vui, vắng , vụt… 5 / t’ / th thu, thôi… 6 /t/ t ta, tôi… 7 /d/ đ đang, đợi , đòi… 8 /n/ n năm, nàng, nên… 9 /s/ x xuống, xua… 10 /z/ d Ví dụ: “con dao, da trâu” theo cách phát âm phổ biến, đứng trƣớc “i, iê, ia”; 11 /l/ gi riêng trong: giì, giiếng bị tinh giản thành “gì, giếng”, “gia đình, thầy giáo”. l lên ,lòng… 16 12 /ʈ/ tr trăng, trời… 13 /ş/ s say sƣa, sắp sửa… 14 /ʐ/ r Theo cách phát âm miền bắc: “rực rỡ”, rổ rá… 15 /c/ ch cho, chơi… 16 /ɲ/ nh nhà, nhảy… 17 /k/ k /η/ q c ngh khi đứng trƣớc các nguyên âm dòng trƣớc: /i, e, ê, iê/: “ký, kế kê, kiếp, …”. khi đứng trƣớc âm đệm : “quả, quê” trong các trƣờng hợp còn lại: “cá, cờ, cốm, …”. khi đứng trƣớc các nguyên âm dòng trƣớc: /i, e, ê, iê/ (nghiên cứu, nghe ngóng). Trong các trƣờng hợp còn lại: ngủ ngon, ngọt bùi. không,khuya… Khi đứng trƣớc /i, e, ê/: “ghi, ghế, ghè” Trong các trƣờng hợp khác: “gà gô, gỗ gụ”. ăn uống, ồn ào…. 18 ng 19 20 /χ/ /ɣ / 21 /?/ 22 /h/ kh gh g Zero (khuyết) h học hành, hoa… Chính tả tiếng Việt dựa trên nguyên tắc ngữ âm học: phát âm thế nào, viết thế ấy; giữa phát âm và chữ viết có sự phù hợp cao, một âm vị đƣợc biểu thị bằng một hình thức chữ viết. Tuy nhiên, giữa âm vị phụ âm đầu và chữ viết tiếng Việt còn có chỗ bất hợp lý, nhƣ một âm vị có thể đƣợc biểu thị bằng tổ hợp nhiều chữ cái. Ví dụ: /c/ : ch , /t’/ : th, /f/ : ph ; một âm vị phụ âm đầu đƣợc biểu thị bằng nhiều cách viết khác nhau nhƣ: /ɣ/: g, gh; /k/: c, k, q, + Ghi là c khi viết trƣớc các ghi nguyên âm /a/, /ă/, /ɤˇ/, - Viết âm đầu /k/ /ɯ/, /u/, /o/, /ɔ/, /uo/, /ɯɤˇ/ (ca, căn, cơ, câu, cƣ, cu, cô, co, cua, cƣa, cƣơi, cuôi, …) + Ghi là k khi viết trƣớc các nguyên âm hàng trƣớc /i/, 17 /e/, /ε/, /ie/ (ki, kê, ke, kia, kiên, …). + Ghi là q khi viết trƣớc âm đệm : /u≈/ (quả, quang, quăng… Riêng trƣờng hợp ka ki, theo thói quen k vẫn viết trƣớc a có lẽ do vay mƣợn có gốc từ Ấn Âu). + Ghi là ng khi viết trƣớc các ký hiệu ghi nguyên âm hàng giữa hàng sau /a/, /ă/, /ɤˇ/, /ɯ/, /u/, /o/, /ɔ/, /uo/, - Viết âm đầu /η/ /ɯɤˇ/ và đứng trƣớc âm đệm /u9/: (nga, ngăn, ngơ, ngây, ngƣ, ngu, ngô, ngo, ngựa, nguyên, ngoa, …) + Ghi là ngh khi viết trƣớc các ký hiệu ghi nguyên âm hàng trƣớc; /i/, /e/, /ε/, /ie/ (nghi, nghê, nghe, nghĩa, nghiên, …). + Ghi là g khi viết trƣớc các ký hiệu ghi nguyên âm hàng giữa, hàng sau: /a/, /ă/, /ɤˇ/, /ɯ/, /u/, /o/, /ɔ/, /uo/, /ɯɤˇ/ và đứng trƣớc âm đệm /u/ (ga, gắn, gơ, gây, gừ , gù, gô, - Viết âm đầu / ɣ / go, guốt, gƣơm, góa, …) + Ghi là gh khi viết trƣớc các nguyên âm hàng trƣớc /i/, /e/, /ε/, /ie/ (ghi, ghê, ghe, ghiền, …). b). Âm đệm: Bán nguyên âm /u/ Âm đệm đứng ở vị trí thứ hai trong âm tiết và vị trí số một trong vần, đƣợc gọi là âm nối liền âm chính. Trong tiếng Việt chỉ có bán nguyên âm là /u/ âm vị làm âm đệm. Trong âm vị bán nguyên âm /u/ thì /u / vừa đóng vai trò là âm đệm (viết “ o” trong toán, toàn, xoan...viết “u” trong tuần, tuấn, quẩn...), vừa đóng vai trò âm cuối (viết “o” trong táo, báo cáo... viết “u” trong đau, rau câu...). - Viết là chữ cái o khi đứng trƣớc các nguyên âm rộng hoặc hơi rộng. /a/ (loa, loan, …) - Viết là chữ cái u khi đứng trƣớc các nguyên âm hẹp và / ɤˇ/, (qua, …) /ă/ ( xoắn, hoăt, …). /ε/ (hoe, hoen, …) /e/ (quê, , …). Formatted: English (U.S.) 18 hơi hẹp hoặc sau phụ âm /k/ /i/ ( quân ...) c). Âm chính: Âm chính đứng ở vị trí thứ ba trong âm tiết, tức vị trí thứ hai trong phần vần. Âm vị đảm nhiệm vị trí này là 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi, cụ thể nhƣ sau: Stt 1 Âm vị Chữ cái /i/ i bị, ít khi y ý kiến, y tế Ghi chú 2 /e/ ê ghế, tế 3 /ε/ e nhe, mẻ 4 / ɯ/ 5 /ɤ/ ơ bơ, bớ 6 / ɤˇ/ â bất, bật 7 /a/ a ca, tá 8 / εˇ/ a (anh, ách) 9 /ă/ a ay, au a( bắt, cắp ư tƣ, nhừ 10 /u/ u ngu, thù 11 /o/ ô cô, bố ôô (từ phiên âm) o quanh co oo xoong chảo, rơ moóc O (ong, oc) 12 13 /ɔ/ /ˇɔ/ 19 14 15 16 /ie/ / ɯɤ,/ /uo/ ia chia cắt, bia ya đêm khuya iê buổi chiều yê khuyên bảo ưa cơn mƣa, quả dừa ươ tƣơi tốt, tƣơm tất ua chua uô chuông Phần lớn các nguyên âm đảm nhiệm vị trí âm chính đƣợc biểu thị bằng một hình thức chữ viết (a, ă, â, ê, ƣ, o...). Chỉ có một số âm vị nguyên âm đơn đƣợc biểu hiện bằng hai hay nhiều hình thức chữ viết. Chẳng hạn: - Nguyên âm /ε/ + Chữ cái e trong các vần có âm cuối (trừ các âm cuối là /ŋ/ ng, /k/ c) + Chữ cái a trong các âm tiết có âm cuối là phụ âm /ɲ/ nh, và /k/ c - Âm vị nguyên âm + Chữ i trong các vần vắng âm đệm bán nguyên âm. đơn /i/ đƣợc biểu thị + Chữ y trong các âm tiết có chứa âm đệm hoặc âm là tiết vắng âm đầu, âm đệm, âm cuối (y, uy, tuy, …) Có 03 nguyên âm đôi giữ vị trí là âm chính và đƣợc biểu thị bằng nhiều hình thức viết: + iê ở âm tiết có âm cuối: chiến, tiêu, tiếng… - Nguyên âm đôi /ie/ + yê ở âm tiết có âm đệm và âm cuối: tuyên truyền, quyên, … hoặc khi mở đầu âm tiết: yên, yết… + ia viết ở âm tiết không có âm cuối: chia, phía, … + ya ở âm tiết có âm đệm, không có âm cuối: khuya. - Nguyên âm đôi + ua ở âm tiết không có âm cuối: ủa, của, múa, … /uo/: + uô viết ở âm tiết có âm cuối: suối, suốt, chuối, ... Formatted: English (U.S.) 20 - Nguyên âm đôi + ƣa ở âm tiết không có âm cuối: chƣa, thừa, … + ƣơ viết ở âm tiết có âm cuối: nƣớc, thƣơng, ... /ɯɤ/: Riêng trong trƣờng hợp i, y làm âm chính thì hiện nay sự phân bố vị trí giữa i và y chƣa rõ ràng, còn tồn tại cách viết nƣớc đôi: kĩ thuật/kỹ thuật, mỹ học/mĩ học, quí/quý… Cụ thể là: + i viết sau âm đầu: bi, phi, kĩ, mĩ, kính, minh,…. + y viết sau âm đệm: quy, quynh, duy,… Khi đứng một mình viết I đối với các từ thuần Việt: ỉ eo, ầm ĩ, …, viết y đối với các từ gốc Hán: y tá, ý kiến, … d). Âm cuối: Âm cuối ở vị trí cuối vần và cũng là vị trí cuối của âm tiết, đƣợc dùng để kết thúc âm tiết. Âm vị đứng ở vị trí này là bán âm cuối hoặc phụ âm cuối. - Phụ âm cuối gồm có: Stt Âm vị Chữ cái Ghi chú 1 /p/ p - Xuất hiện sau chữ cái ghi nguyên âm (âm chính) trong các âm tiết mang thanh sắc (/), thanh nặng (.). 2 /t/ t - Xuất hiện sau chữ cái ghi nguyên âm (âm chính) trong các âm tiết mang thanh sắc (/ ), thanh nặng(. ). 3 /m/ m - Xuất hiện sau chữ cái ghi nguyên âm (âm chính) trong các âm tiết mang thanh sắc (/ ), thanh huyền (\ ), thanh nặng (.), thanh hỏi ( ?) thanh ngã (~ ) và thanh không.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan