Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của vũ bão sau năm 1986...

Tài liệu Luận văn nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của vũ bão sau năm 1986

.PDF
110
159
59

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––– NGUYỄN LONG HƢNG NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Thái Nguyên - 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: “Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986 ” với các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác, hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi. Tác giả luận văn Nguyễn Long Hưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn : - Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên. - Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Bích Thu người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình viết luận văn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Nguyễn Long Hưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan………………………………………………………………......i Lời cảm ơn…………………………………………………………………....ii Mục lục…………………………………………………………………….....iii PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7 4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .................................................................. 7 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 8 6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 8 7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 8 Chƣơng 1. VĂN HỌC TRÀO PHÚNG VÀ SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986 ............................................................................................... 9 1.1. Vài nét về văn học trào phúng Việt Nam ................................................... 9 1.1.1. Giới thuyết một số khái niệm .................................................................. 9 1.1.2. Những tiền đề lịch sử, xã hội chủ yếu làm hồi sinh văn học trào phúng Việt Nam sau 1986 .......................................................................................... 11 1.1.3. Văn học trào phúng trong văn học Việt Nam sau 1986 ........................ 14 1.2. Hiện thực cuộc sống và con người trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986.18 1.2.1. Hiện thực xã hội và con người trong và sau chiến tranh ...................... 19 1.2.2. Hiện thực xã hội và con người trong cuộc sống đời thường ................. 26 1.2.3. Hiện thực xã hội và con người qua thế giới tâm linh, hoang đường............... 40 Chƣơng 2. NHÂN VẬT, TÌNH HUỐNG VÀ CỐT TRUYỆN MANG TÍNH TRÀO PHÚNG TRONG SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986 ................................................................................................................. 44 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 2.1. Nhân vật trào phúng ................................................................................. 44 2.1.1. Cách đặt tên nhân vật ............................................................................ 45 2.1.2. Khai thác những yếu tố trái tự nhiên: chân dung, hành động, ngôn ngữ,.. ................................................................................................................ 48 2.2. Tình huống truyện .................................................................................... 52 2.2.1. Tình huống ngẫu nhiên ......................................................................... 53 2.2.2. Tình huống nghịch lí, ngược đời ........................................................... 55 2.2.3. Tình huống lật tẩy tính chất vô nghĩa lý của hiện tượng, nhân vật ............. 59 2.3. Cốt truyện ................................................................................................. 63 2.3.1. Cốt truyện đối lập - tương phản ............................................................ 63 2.3.2. Cốt truyện tăng cấp và kết thúc bất ngờ................................................ 67 2.3.3. Cốt truyện phân mảnh ........................................................................... 70 Chƣơng 3. GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT MANG TÍNH TRÀO PHÚNG TRONG SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986 ... 74 3.1. Giọng điệu trào phúng .............................................................................. 74 3.1.1. Giọng trào phúng - phê phán................................................................. 74 3.1.2. Giọng trào phúng - xót xa, phẫn uất...................................................... 77 3.1.3. Giọng trào phúng - giễu nhại ................................................................ 82 3.1.4. Giọng trào phúng - triết lý..................................................................... 84 3.2. Ngôn ngữ trào phúng ............................................................................... 87 3.2.1. Lạ hóa .................................................................................................... 87 3.2.2. Các thủ thuật ngôn ngữ ......................................................................... 89 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 100 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong lịch sử hình thành và phát triển của văn học Việt Nam, tuy chưa bao giờ là một chủ lưu, nhưng văn học trào phúng Việt Nam vẫn bám rễ và tồn tại qua nhiều thời kì, và trong những thời đại nhất định đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng. Từ truyện cười trong văn học dân gian, thơ văn trào phúng thời trung đại cho đến sáng tác hiện đại, dù ở thời kì nào những sáng tác này cũng đều phát huy được sức mạnh và ưu thế vốn có của nó, nói như C.Mác là dùng tiếng cười để giã từ quá khứ một cách vui vẻ. Cho nên, nghiên cứu sáng tác trào phúng là nghiên cứu một cách tiếp cận và phản ánh hiện thực độc đáo. Từ khi thống nhất đất nước năm 1975, đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, xã hội Việt Nam đã có những bước chuyển biến lớn lao ở nhiều phương diện, cả kinh tế - xã hội lẫn tư duy của con người. Hòa trong dòng chảy chung đó, văn học cũng có những vận động, đổi mới mà đáng kể nhất là sự trỗi dậy của ý thức cá nhân. Ý thức ấy đã thôi thúc các nhà văn tìm tòi, đổi mới về đề tài cũng như tư tưởng nghệ thuật và cách viết. Giã từ cảm hứng sử thi với giọng điệu ngợi ca của văn học thời chiến, các tác giả đã đi sâu vào khám phá đời sống và con người với nhiều biểu hiện phong phú và phức tạp của nó. Nhiều cảm hứng, giọng điệu vốn tạm thời lắng xuống ở thời kì trước nay được hồi sinh mạnh mẽ, trong đó không thể không kể đến cảm hứng trào lộng với giọng điệu hài hước, giễu nhại. Văn học trào phúng lại tiếp tục dòng chảy và sứ mệnh của nó. Trong quá trình đổi mới ấy, nhiều cây bút đã dùng tiếng cười như một phương tiện chủ yếu để phản ánh hiện thực. Có thể kể ra đây như Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng với giọng châm biếm nhẹ nhàng mà chua cay; Tạ Duy Anh với giọng trào lộng, châm chích; Chu Lai, Lê Lựu với giọng tự trào; Hồ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 1 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Anh Thái, Thuận với giọng giễu nhại,... Cùng đứng trong hàng ngũ của các nhà văn trào phúng, Vũ Bão đã định danh mình với cái nhìn biết cười vào cuộc đời. Hành trình sáng tác của ông tạo nên một dòng cười: dòng cười Vũ Bão. Vũ Bão có một lối văn châm biếm đặc biệt. Nhiều truyện của ông không những nổi tiếng ở trong nước mà còn được dịch ra tiếng nước ngoài và được bạn bè quốc tế đón nhận nồng nhiệt. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có những công trình nghiên cứu có quy mô về văn chương nói chung và về nghệ thuật trào phúng nói riêng trong hệ thống sáng tác của Vũ Bão. Đi sâu nghiên cứu về nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Vũ Bão, chúng tôi mong muốn góp phần khai phá thêm văn học trào phúng Việt Nam, đồng thời khẳng định vị trí và tài năng của nhà văn này trong văn học Việt Nam hiện đại. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Nhìn chung, cho đến nay lịch sử nghiên cứu về con người và văn chương Vũ Bão còn rất sơ sài. Chưa có những công trình nghiên cứu dày dặn, chuyên sâu mà chủ yếu là những bài phê bình, bài giới thiệu tác phẩm hoặc những bài phỏng vấn nhà văn đăng trên một số báo in và trang mạng. Tuy nhiên, qua khảo sát, chúng tôi thấy những bài viết này đã bước đầu đã khắc họa được chân dung con người cũng như nét độc đáo trong sáng tác của Vũ Bão. Có thể chia những bài viết này thành hai nhóm: nhóm bài viết, bài phỏng vấn Vũ Bão và nhóm bài phê bình, giới thiệu về sáng tác của nhà văn. Ở nhóm bài thứ nhất, các tác giả tập trung khắc họa chân dung con người Vũ Bão - yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sáng tác. Ngoài đời, Vũ Bão trước sau luôn được bạn bè, đồng nghiệp coi là một cây cười: Khi nhắc đến Vũ Bão, người ta nhớ nhất cách nói chuyện hóm hỉnh, cách pha trò có duyên và tiếng cười luôn nổ giòn như pháo...[14]. Tiếng cười như là thứ duyên nợ truyền kiếp và trở thành một dấu hiệu nhận biết con người ông: Vũ Bão là người sinh ra để cười. Mỗi tế bào trong người anh đều muốn được cười. Cười trong tác phẩm. Cười trong cuộc đời. Cười như một đứa trẻ. Và cười như một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 2 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ ông lão lõi đời giễu tất cả [51]. Với khiếu khôi hài bẩm sinh [63] và cái “tạng” của một nhà văn có khiếu trào phúng [40], dường như tiếng cười đã trở thành một thứ căn cước định danh Vũ Bão trong làng văn Việt Nam. Nhà văn Hồ Anh Thái, một cây bút trào phúng nổi tiếng cũng từng nói: Sinh thời, dường như lúc nào nhà văn Vũ Bão cũng tìm ra chuyện để cười [45]. Tiếng cười của Vũ Bão là tiếng cười vỡ ra từ hiện thực, quan trọng hơn, nó gắn liền với sự thật, với một con người bản lĩnh. Trong hành trình đi tìm sự thật biết cười, khi trả lời phỏng vấn báo điện tử Vietnamnet ngày 10/02/2004, nhà văn quan niệm: Cuộc đời người cầm bút, - theo ông - thở bằng lá phổi của mình, đi bằng đôi chân của mình, nhìn đời bằng đôi mắt của mình, suy nghĩ lẽ đời bằng cái đầu của mình và không bao giờ chịu viết bằng ngòi bút đã bị bẻ cong [28]. Cuộc sống có bao cái đáng cười, nhưng có cái đáng cười lại thuộc về những “vùng nhạy cảm” mà không phải nhà văn nào cũng dám phóng bút. Nói về sự cười trong văn chương, Vũ Bão tâm sự: Người đời cười những chuyện vô lý mà có thật trong cuộc đời, cười những chuyện nhảm nhí, nhố nhăng của thiên hạ. Những chuyện đó diễn ra hằng ngày, nhưng quan trọng là có ai dám phê phán nó hay không, và tôi đã thẳng thắn viết ra những điều đó.(...) Tôi thấy cuộc đời có nhiều chuyện đáng cười, có khi còn hay hơn những chuyện cười đã in trên báo hay viết thành sách. Tôi vui miệng kể cho bạn bè nghe những câu chuyện tự sáng tác, họ cười, tôi thử viết truyện ngắn, bạn đọc cười [68]. Phát hiện sự nhạy cảm với cái hài của Vũ Bão, nhà nghiên cứu Hoài Nam đã nhận định: Dường như ở bất cứ lĩnh vực nào của đời sống, ở bất cứ nơi nào có sự trái khoáy của việc lẫn lộn giữa cái thật và cái giả, cái đẹp và cái xấu, cái tử tế và cái nhem nhếch, cái hợp lý và cái phi lý... là Vũ Bão đều xuất hiện và cất tiếng cười (...). Tác giả bài viết cũng nhận thấy tiếng cười hài hước của Vũ Bão là tiếng cười gắn chặt với đời sống, phản ảnh trực tiếp đời sống, mang đậm hơi thở đời sống [41]. Với ông, tiếng cười trong văn chương không phải là để thể hiện thái độ hằn học, ác ý Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 3 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ hay chửi đổng [41], mà tiếng cười cất lên là để châm biếm những thói tật tràn lan trong xã hội, không phân biệt tầng lớp, địa vị, ngành nghề, vùng đất [69], để bảo vệ cái thiện, cái chân, chống lại cái ác, cái nguỵ [68]. Ào ào như thế (như cái tên Vũ Bão - người viết), ông cuốn ta đi cùng các câu chuyện của mình, sôi nổi, rất nhiều hài hước, giàu tình cảm, và không ngại ngùng [13]. Xuất phát từ đời sống, tiếng cười của Vũ Bão lại trở về với đời sống để thanh lọc tâm hồn con người, giúp họ sống tốt hơn, sống đẹp hơn. Tóm lại, từ những ý kiến đánh giá của các tác giả và lời phát biểu của nhà văn nói trên, có thể thấy Vũ Bão không chỉ là một con người hài hước, tôn trọng sự thật, mà còn là người biết đi tìm sự thật biết cười [41]. Trong nhóm bài viết thứ hai, các tác giả chủ yếu tập trung đánh giá sự ảnh hưởng, những nét độc đáo, bước đầu ghi nhận những thành công và vị trí của Vũ Bão trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học trào phúng nói riêng. Nhận xét về mối quan hệ của truyện ngắn Vũ Bão với văn học dân gian, Bùi Việt Thắng khẳng định sự ảnh hưởng của truyện tiếu lâm dân gian đối với tác phẩm của ông: Thi pháp truyện ngắn hiện đại cho chúng ta nhận biết về tính chất phong phú của hình thức thể loại “nhỏ” trong sự tiếp biến truyện kể dân gian: truyện tiếu lâm có chỗ đứng đặc biệt trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Vũ Bão... [58]. Có tác giả còn cho rằng, Vũ Bão có một lối văn châm biếm đặc biệt, được xem như là hậu duệ của nhà văn lớn Nguyễn Công Hoan [28]. Ở bài viết đánh giá về đội ngũ nhà văn Việt Nam viết truyện ngắn đương đại, Lê Dục Tú đã khẳng định: Với sự kết hợp tư duy sắc sảo nhanh nhạy của một nhà báo và sự mẫn cảm, tinh tế của một nhà văn, truyện của Vũ Bão vẫn tiếp tục chinh phục bạn đọc ở giọng điệu giễu nhại, tự trào của lối văn trào lộng với tiếng cười nhân bản, hồn hậu, ở khả năng sử dụng đắc địa ngôn ngữ dân dã, đời thường và cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên [52]. Các tác phẩm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 4 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ của Vũ Bão mang đậm nét hoạt kê, giọng điệu trào phúng, giễu cợt [69]. Vũ Thị Thường cũng nhận định: Vũ Bão là một cây bút trào lộng, lối viết dí dỏm, súc tích (...) lôi cuốn người đọc từ đầu chí cuối [63]. Ở khía cạnh khác, Hoàng Định còn cho rằng, tiếng cười trong tác phẩm của Vũ Bão không đơn thuần để giải trí: Vũ Bão có lối viết hóm hỉnh, dễ đọc, nhưng đằng sau câu chữ là những tầng ý sâu sắc [18]. Đó là những tác phẩm giản dị, gần gũi, hài hước, dí dỏm song lại ẩn chứa nhiều tầng lớp ý nghĩa sâu xa, khó quên [32]. Một số tác giả khác lại chỉ ra nét riêng trong sáng tác của nhà văn. Khi dịch tác phẩm của Vũ Bão, dịch giả người Nhật Kato Sakae nhận định: Truyện của ông ấy có cách viết rất trẻ, lại mới lạ [43]. Trong các tác phẩm của ông, tinh thần hài hước lúc nào cũng vượt trội, và tinh thần hài hước này lúc nào cũng tràn đầy trong tác phẩm của Vũ Bão. “Người vãi linh hồn”, “Người chưa có chiến công”, “Người không có tên trong từ điển”... là những tập sách khiến Vũ Bão không lẫn vào ai [40]. Tác giả Hoài Nam, trong bài viết Vũ Bão và tiếng cười triết luận cũng có nhận xét tương tự: Tiếng cười hài hước của Vũ Bão là thứ tiếng cười rất đặc biệt, thậm chí không giống ai. Nó là tiếng cười “xả láng”. Nó là tiếng cười phanh phui, quất roi vào cái giả cái xấu cái đáng ghét trong đời sống. Nó là tiếng cười có ý nghĩa điều chỉnh xã hội v.v... Trên cơ sở đó, người viết còn chỉ ra chất trí tuệ, tầm vóc tiếng cười trong truyện ngắn trào phúng của Vũ Bão:...ở một số trường hợp, tiếng cười hài hước của Vũ Bão đã chạm tới những vấn đề triết luận, và mang tầm của triết luận [41]. Đó không còn là tiếng cười để giễu cợt, phê phán. Cao hơn thế, nó khiến người ta nghĩ về những vấn đề rộng lớn hơn, mang tính qui luật của đời sống. Đặc biệt hơn, tác giả Bùi Ngọc Tấn còn phát hiện hành trình văn chương của Vũ Bão như một dòng chảy lạ mà không nhiều cây bút có được: Một mình anh làm nên một dòng riêng. Anh ra đi, bè bạn mất một tiếng cười, văn học mất một dòng cười. Dòng cười Vũ Bão [51]. Những cái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 5 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ nhìn như thế đã vẽ được bức tranh toàn cảnh về văn chương cũng như bước đầu tiếp cận phong cách của nhà văn quê lúa Thái Bình. Trong khi hầu hết các bài viết cho rằng giọng điệu trong sáng tác của Vũ Bão là giọng trào lộng, hài hước thì một số tác giả khác lại phát hiện ra rằng phía bên kia của giọng trào lộng lại là giọng buồn xót xa: văn của ông rất hoạt, đọc rất gây cười, rất lôi cuốn, chuyện như đùa, như giỡn, như chơi, để đọc xong rồi, cười rồi thì thấy thấm cùng nhà văn một nỗi buồn trầm lặng [44]. Nhiều tác phẩm của ông khi dí dỏm, lúc sảng khoái, lúc giễu nhại, nhưng dư vị để lại thật chua xót, tiếc nuối [67]. Đồng tình với ý kiến trên, tác giả Trần Thị Hạnh trong bài viết Tiếng cười trong “Utopi - một miếng để đời” của Vũ Bão cho rằng: Chất humour thấm đẫm từng trang sách, từng câu chuyện, cái cười của Vũ Bão trong tiểu thuyết này khi dí dỏm, lúc sảng khoái, lúc giễu nhại nhưng đằng sau đó chất chứa một sự suy ngẫm, có cả tiếng thở dài trước những ngổn ngang bề bộn chưa được dọn dẹp trên thế giới này [23]. Mặt khác, có tác giả còn phát hiện rằng ngay cả cái hài trong sáng tác của ông cũng không hề đơn điệu mà rất đa dạng, nhiều cung bậc: Ông dí dỏm trong tiểu thuyết “Sắp cưới”, “Thời gian không đợi”, “Gọi ai lần cuối”... Ông cười sảng khoái và cả chua chát trong truyện ngắn “Người vãi linh hồn”, “Người chưa có chiến công”, “Người không có tên trong từ điển”, “Phó tiến sĩ không hữu nghị”... Ông trào phúng sắc bén trong những thiên phóng sự và hóm hỉnh trong những kịch bản phim “Phút thứ 89”, “Những ngôi sao nhỏ”…[32] Tóm lại, các tác giả bài viết không chỉ phác họa chân dung “người cười” Vũ Bão mà còn khẳng định tính chất hài hước, trào lộng là một đặc điểm nổi bật, bao trùm trong các sáng tác của ông. Những đánh giá này đồng thời cũng chỉ ra những nét độc đáo trong văn chương Vũ Bão: đó là những sáng tác trào lộng giàu ý nghĩa, giọng hài hước đa thanh, đa sắc thái. Tuy nhiên, những ý kiến trên đây mới chỉ dừng lại ở mức khái quát những nét lớn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 6 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Tiếng cười trong tác phẩm Vũ Bão cũng chưa được các tác giả tìm hiểu một cách hệ thống, có chiều sâu; đồng thời chưa chỉ ra được ý nghĩa xã hội và thẩm mỹ của nó. Bên cạnh đó, các phương tiện, bút pháp thể hiện tiếng cười trong tác phẩm của ông như nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật, giọng điệu, ngôn ngữ… cũng chưa được chú ý khai thác. Chính vì thế, một công trình có tính chất tổng kết, đánh giá trên cơ sở phân tích các tác phẩm cụ thể để có những kết luận về nghệ thuật trào phúng trong các sáng tác của Vũ Bão là một việc làm cần thiết đối với người nghiên cứu văn chương Vũ Bão nói riêng và văn học sau 1986 nói chung. Từ những đánh giá, nhận xét mang tính gợi mở và định hướng trên đây, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986 với mong muốn đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống đặc điểm nói trên ở sáng tác Vũ Bão. 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Tập Truyện ngắn chọn lọc Vũ Bão - Nxb Hội nhà văn, 2007 - Tiểu thuyết Utopi - một miếng để đời - Nxb Hội nhà văn, 2007 - Hồi kí Rễ bèo chân sóng - Nxb Hà Nội, 2010 4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI: 4.1. Mục đích của đề tài: - Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu tiếng cười và nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986. Chất trào phúng ấy được thể hiện qua cách nhìn hiện thực đời sống và con người cũng như qua các phương tiện nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn. - Nghiên cứu nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Vũ Bão, luận văn khẳng định những đóng góp của nhà văn trong việc khám phá và miêu tả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 7 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ hiện thực đời sống xã hội và con người cũng như những đổi mới về tư duy, bút pháp của nhà văn trong văn học Việt Nam hiện đại. 4.2. Nhiệm vụ của đề tài - Tìm hiểu những vấn đề lý thuyết về trào phúng trong văn học. - Đặt sáng tác của Vũ Bão vào xu hướng hồi sinh và phát triển văn học trào phúng Việt Nam từ sau 1986. - Tìm hiểu sự thể hiện cụ thể của tiếng cười trong cái nhìn hiện thực và con người ở sáng tác của Vũ Bão và các phương thức nghệ thuật đặc trưng của tác giả để thể hiện tiếng cười ấy. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp lịch sử. - Các thao tác: phân tích, tổng hợp, so sánh,... 6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI - Khám phá những đặc sắc của nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của nhà văn Vũ Bão sau năm 1986 trên những phương diện cơ bản của thi pháp học. - Đề tài hoàn thành góp phần làm sáng tỏ thêm bức tranh chung về văn học trào phúng trong văn học Việt Nam hiện đại sau 1986. 7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Luận văn gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và kết luận. Trong đó, phần nội dung gồm 3 chương: Chƣơng 1: Văn học trào phúng và sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986. Chƣơng 2: Nhân vật, tình huống và cốt truyện trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986. Chƣơng 3: Giọng điệu và ngôn ngữ trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986. Sau cùng là phần Thư mục tham khảo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 8 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Chƣơng 1 VĂN HỌC TRÀO PHÚNG VÀ SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986 1.1. VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC TRÀO PHÚNG VIỆT NAM 1.1.1. Giới thuyết một số khái niệm Trào phúng là sự khái quát chung cho những tác phẩm nghệ thuật (không cứ gì văn chương) lấy tiếng cười làm phương tiện để biểu hiện thái độ gì đó, nhằm vào một đối tượng nhất định. Nhìn từ phương diện văn học, Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên định nghĩa: “Trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội” [22, tr.306]. Trào phúng bao gồm nhiều dạng như khôi hài, châm biếm, đả kích mà sự phân biệt các dạng này là ở mức độ và tính chất cùng với phương thức thể hiện. Theo nghĩa từ nguyên, trào phúng là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác, song trong lĩnh vực văn học, trào phúng gắn liền với cái hài. Cái hài là một kiểu nhận thức gắn với tiếng cười khi phát hiện ra những mâu thuẫn nào đó của sự vật hiện tượng ở góc độ thẩm mỹ. Cái hài bao hàm một ý nghĩa xã hội gắn liền với sự khẳng định lý tưởng thẩm mỹ cao cả. Nó là sự phê phán mang tính cảm xúc sáng tạo tích cực và có sức công phá mãnh liệt đối với những cái xấu xa, lỗi thời. Sức mạnh phê phán của nó vừa có tính phủ định lại vừa mang ý nghĩa khẳng định. Ghécxen đã cho rằng cái cười có ý nghĩa thẩm mỹ là một công cụ. Ông viết: “Tiếng cười là một công cụ phá hoại hùng mạnh nhất. Nó đánh và thiêu cháy như sét. Do tiếng cười mà những thần tượng bị sụp đổ”. Vì lẽ đó, cái hài “là vũ khí trong đấu tranh xã hội, giải quyết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 9 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ những xung đột, những mâu thuẫn luôn hướng con người đến với cái tốt, cái đẹp với niềm tin và khát vọng sống một cuộc sống tốt hơn, đẹp hơn” [57]. Hai yếu tố tạo nên cái hài là đối tượng trào phúng - bản chất mang tính hài của đối tượng; và chủ thể trào phúng - người phát hiện mâu thuẫn của đối tượng và sử dụng các phương tiện, phương thức phản ánh độc đáo để tăng hiệu quả của tiếng cười. Như vậy, cái hài là yếu tố hàng đầu không thể vắng mặt trong văn học trào phúng. Nếu như truyện cười nghiêng về mua vui, giải trí thì truyện trào phúng đồng thời còn là một thứ vũ khí mạnh mẽ. Tiếng cười trong văn học trào phúng nhằm lật tung và đưa ra ánh sáng bản chất của đối tượng: đó là những cái tiêu cực, giả dối, lệch chuẩn,... làm tha hóa con người và cản trở sự tiến bộ của xã hội. Nó là tiếng cười của chân lý, chính nghĩa; tiếng cười giúp con người tự hoàn thiện mình, như Secnưxepxki nói: “Khi cười cái xấu, chúng ta trở nên cao hơn nó” [34, tr.9]. Tuy nhiên, việc xác định đối tượng trào phúng cũng là một yêu cầu quan trọng thể hiện tầm tư tưởng, nhân cách, sự nhạy cảm và cả bản lĩnh của nhà văn. Một tác phẩm trào phúng thực sự trở thành văn trào phúng và đạt được mục đích của nó thì nó phải hoàn toàn nhận thức một cách rõ ràng đối tượng mà mình chĩa mũi nhọn vào. Không đạt được điều này, tiếng cười dễ trở nên rẻ rúng, lạc lõng, thậm chí còn là độc ác. “Nghệ thuật chân chính không dạy người ta cười cái mũi bị vẹo mà dạy người ta cười một tâm hồn lệch lạc” [34, tr.9]. Một nhà văn chân chính bao giờ cũng đứng về phía lẽ phải và tiến bộ; nhận thức được chân, thiện, mĩ để từ đó tấn công vào cái xấu. Đó là những cái xấu về đạo đức, nhân cách, lối sống,... là những cái xấu mà không biết mình xấu, là cái xấu đội lốt cái đẹp, nhân danh cái đẹp. Liên quan đến trào phúng còn có các thuật ngữ gần gũi như giễu nhại, trào lộng. Giễu nhại là sự nhắc lại, mô phỏng, một lời nói, một cử chỉ hay nét phong cách, giọng điệu của đối tượng nhại nhằm làm bật lên cái đáng cười, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 10 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ cái tầm thường, xấu xa, kệch cỡm đáng phê phán của chúng. Đặc điểm nổi bật của giễu nhại là luôn có sự bắt chước một cách cố ý các đặc điểm của đối tượng giễu nhại nhằm tạo ra sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức, bên trong và bên ngoài… hướng người đọc đến nhận thức cái khiếm khuyết, cái lỗi thời, lạc hậu, phản tiến bộ của đời sống xã hội và trong bản thân con người để cùng nhau nhận thức lại, hoàn thiện bản thân và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Trào lộng, theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là cười nhạo cợt chơi. Trào lộng là cười có tính chất hài hước để đùa cợt, chế giễu. Xét về mức độ thì trào lộng thường nhẹ nhàng hơn châm biếm, phê phán. Tuy nhiên, ở một số trường hợp, trào lộng vẫn có thể mang ý nghĩa của châm biếm, phê phán. 1.1.2. Những tiền đề lịch sử, xã hội chủ yếu làm hồi sinh văn học trào phúng Việt Nam sau 1986 Một cách khái quát, có thể nói văn học trào phúng Việt Nam với tiếng cười trào lộng, châm biếm đã trở thành truyền thống và luôn song hành với sự ra đời, vận động và phát triển của văn học dân tộc và trở thành nguồn cảm hứng không bao giờ tắt trong trường kì lịch sử. Trong văn học truyền miệng, tiếng cười cất lên ở nhiều thể loại như truyện cười dân gian, ca dao hài hước, chèo, tuồng cổ,... chủ yếu nhằm chế giễu, châm biếm những thói hư tật xấu, phê phán bộ máy thống trị và thể hiện tinh thần lạc quan của quần chúng nhân dân. Trong văn học viết, từ thời trung đại cho đến hiện đại, yếu tố trào phúng, tuy có những thăng trầm do hoàn cảnh lịch sử, vẫn hòa vào dòng chảy văn chương nước nhà. Có thể kể ra đây như: Nguyễn Sĩ Cố (thế kỉ XIII) người được cho là khởi nguồn văn học viết trào phúng với hai tác phẩm Tụng giá Tây Yết ở đền Tản Viên và Tụng giá Tây chinh Yết Uy Hiển Vương từ hài hước, đùa cợt thần linh. Đó là Nguyễn Biểu, Lê Thánh Tông (thế kỉ XIV XV), là Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỉ XVI - XVII), là Hồ Xuân Hương, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 11 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Nguyễn Công Trứ (thế kỉ XVIII - nửa đầu XIX), là Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương (nửa cuối thế kỉ XIX), là Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan (nửa đầu thế kỉ XX). Đặc biệt, sau năm 1975 văn học trào phúng bắt đầu phát triển mạnh mẽ, tạo nên dấu ấn đậm nét và trở thành một trong những giọng điệu chủ đạo của văn học giai đoạn này. Tiếng cười và nghệ thuật trào phúng đã trở thành phương thức phản ánh của nhiều nhà văn: Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Bắc Sơn với Luật đời và cha con; Võ Văn Trực với Vết sẹo và cái đầu hói; Tô Hoài với Ba người khác; Hồ Anh Thái với Tự sự 265 ngày và Mười lẻ một đêm; Vũ Bão với Utopi - một miếng để đời và nhiều truyện ngắn;... Có thể nói, tiếng cười trào phúng đã trở thành truyền thống có tính bền vững trong văn học Việt Nam. Sự xuất hiện của văn học trào phúng trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1986 là sự tiếp nối tất yếu của truyền thống ấy. Ở phương diện lịch sử - xã hội, chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975 đưa lịch sử dân tộc chuyển sang một trang mới. Sau những năm tháng chiến tranh ác liệt, cả dân tộc bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước. Nhưng những hậu quả của chiến tranh và mô hình bao cấp không còn phù hợp đã đặt ra nhu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết, đó là nhu cầu đổi mới. Trước yêu cầu lịch sử đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã xác định: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn…” [65, tr.64]. Sự biến chuyển đó của lịch sử và kéo theo là sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử - xã hội dần dần làm thay đổi diện mạo đời sống cũng như tâm lí, tư duy của con người. Chính sách mở cửa cùng với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, sự hội nhập kinh tế quốc tế, sự giao lưu văn hoá trong khu vực và trên thế giới từng ngày làm đất nước thay da đổi thịt. Nhưng cũng chính từ đó, bên cạnh việc đem đến những cơ hội, hoàn cảnh mới cũng làm nảy sinh nhiều thách thức. Những quan hệ xã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 12 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ hội mới xuất hiện; sự va chạm giữa cái cũ và cái mới, tiến bộ và lạc hậu, giữa giá trị truyền thống và hiện đại; sự suy thoái về đạo đức lối sống; những biểu hiện mới của tính cách con người... tạo nên một bức tranh đa sắc màu. Khác hẳn thời kì trước 1975, khi mà xã hội và tâm lí con người còn tương đối thuần nhất, thì đến bây giờ cuộc sống mới, bên cạnh nhiều giá trị tốt đẹp cũng natr sinh không ít điều tồi tệ, xấu xa: sự giả dối, rởm đời, lừa lọc, phản trắc; những suy đồi, tha hóa về đạo đức, nhân tâm,... Ngay trong mỗi con người, cái thiện và cái ác, cái cao cả và thấp hèn, cái tốt và cái xấu, cái bi và cái hài,... cùng đan xen, tồn tại. Tất cả những biểu hiện phong phú, phức tạp đó của đời sống đã trở thành chất liệu sáng tạo cho nền văn học mới nói chung và văn học trào phúng nói riêng. Mặt khác, từ sau 1986 quan điểm chỉ đạo văn nghệ thông thoáng và cởi mở của Đảng “đã thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra một thời kỳ đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật” [36, tr.11]. Tiền đề đó làm cho ý thức cá nhân, vốn xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ XX, tạm ẩn mình trong những năm tháng chiến tranh, lại có dịp hồi sinh. Ý thức ấy cùng với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật cho phép con người thể hiện chính kiến, quan điểm của mình về mọi vấn đề trong đời sống xã hội một cách thẳng thắn, trung thực; giúp nhà văn dám xông xáo vào mọi ngõ ngách của đời sống, khắc họa một cách chân thực, sinh động bản chất của con người và xã hội. Bên cạnh đó, khi văn học khám phá con người ở muôn mặt cuộc sống đời thường thì những giá trị tinh thần, khát vọng cá nhân luôn được đề cao. Nhu cầu thể hiện cá tính, vai trò của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể; nhu cầu được thư giãn, được giải toả và được đánh giá, bình phẩm về các hiện tượng đời sống mà văn học phản ánh cũng trở nên bức thiết hơn. Những yếu tố trên đã mở đường cho tiếng cười đi vào những trang sách. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 13 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Trong bối cảnh như thế, nhiều cảm hứng, giọng điệu vốn trước đây bị coi nhẹ nay đã sống lại trên những trang viết, trong đó phải kể đến bộ phận văn học trào phúng với cảm hứng trào lộng, phê phán, đúng như T.S Nguyễn Thị Bình đã nhận định: “Trong công cuộc đổi mới đất nước sau chiến tranh, ý thức cá nhân được giải phóng, ý thức cá tính được đề cao trong văn chương đã là cơ sở cho tiếng cười nở rộ” [12, tr.29]. 1.1.3. Văn học trào phúng trong văn học Việt Nam sau 1986 Kể từ sau năm 1975 đến trước 1986, đặc biệt là từ sau năm 1986, sự chuyển mình của lịch sử - xã hội đã kéo theo sự hồi sinh của văn học trào phúng Việt Nam. Nhiều cây bút đã tìm thấy ở tiếng cười một cách thức, một phương tiện phản ánh thực tại đầy tiềm năng và có sức hấp dẫn lớn đối với độc giả. Thay vì những vấn đề lớn lao, trọng đại của dân tộc, đất nước như giai đoạn trước, văn học nói chung và văn học trào phúng nói riêng đi sâu khám phá muôn mặt đời thường của con người cá nhân. Nhiều vấn đề của đời sống được đưa lên trang giấy. Trong thế hệ những nhà văn đàn anh, Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng”. Mỗi truyện ngắn của ông luôn ẩn giấu những suy tư, trăn trở về cuộc đời, về nhân tình thế thái. Đó có thể là giọng cười đùa hóm hỉnh, là cái “cười ra nước mắt”, cũng có khi lại là giọng châm biếm phẫn nộ. Trong một số tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đi vào những căn bệnh trầm kha của xã hội mà biểu hiện rõ nhất là những sự phi lý cứ ngang nhiên tồn tại trong cuộc sống. Ở Phiên chợ Giát, đó là cuộc đối thoại ngầm của lão Khúng và người lãnh đạo huyện chỉ chăm chăm “cách cái mạng” của người dân quê muôn đời nghèo khổ. Khúng “nín lặng nghe một cách cung kính” ông chủ tịch giảng giải về “hai con đường” mà chỉ chực thốt lên: “tôi gần mười đứa con, vào hợp tác xã để mà chết đói à?”. Ông chủ tịch là nhà cách mạng luôn thường trực bầu máu nóng “lúc nào cũng như cái chảo nước đang sôi, hễ thích làm gì là làm, bất chấp tất cả” nhưng với lão Khúng thì: “công trường với chả công triếc… toàn là một lũ ăn cắp”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 14 http://www.lrc-tnu.edu.vn/ Trong Thời xa vắng in năm 1986, Lê Lựu đã dẫn người đọc trở về với một thời đầy bi hài. Cái làng Hạ Vị của Giang Minh Sài dẫu đã lên đến hợp tác xã cấp cao, trải qua những cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, có đủ cả bộ máy đảng, chính quyền nhưng vẫn chỉ là một hình ảnh thu nhỏ của một vương quốc “rất ngố”, “rất nhắng”. Sự ấu trĩ của những người nắm quyền lực, nắm sinh mạng kẻ khác đã giết chết con người cá nhân, những mơ ước khát vọng và tài năng của không ít người trong đó có Giang Minh Sài. Tiếng cười xen lẫn dư vị chua cay mà tác phẩm tạo ra được khai thác ở những “chuyện thật như đùa” ngay trong hiện thực đời sống đất nước sau chiến tranh, vốn trước nay “vẫn bị dồn nén, che giấu cẩn thận”. Với Lê Minh Khuê, một cây bút nữ khá nổi bật thì cảm hứng trào lộng chỉ thấp thoáng trong một số tác phẩm ban đầu, càng về sau càng trở nên mạnh mẽ và đậm nét. Bằng cảm quan của mình, tác giả đã tập trung giễu nhại sự tha hoá và lối sống thực dụng của con người thời hiện đại, những bất ổn của cơ chế xã hội, những quan niệm lệch lạc, ấu trĩ của con người. Tất cả được nhà văn trình bày bằng một giọng văn hài hước, châm biếm theo kiểu: đường về làng trồng nhiều cây bạch đàn, con mương thẳng theo hàng cây. Hai cái quán karaokê đứng cạnh mấy đống rơm… bố mẹ Na cũng xây cái hộp vuông như cái bánh chưng, bên trên nhọn hoắt những tháp của người Ả rập... (Làng xi măng). Nhà văn giễu sự mù quáng của con người trước đồng tiền đến mức tự biến mình thành một kiểu con vật - người (Anh lính Tony.D); giễu chủ nghĩa bình quân, chủ nghĩa lý lịch, chủ nghĩa thành phần (Ga xép) và cũng chẳng ngại ngần châm biếm loại người “cỗ máy”, công cụ (Thân phận cu li). Đến Nguyễn Huy Thiệp, dường như tiếng cười trào phúng trở thành nét nổi bật trong các sáng tác của nhà văn. Hàng loạt truyện ngắn như Tướng về hưu, Những người thợ xẻ, Sang sông, Không có vua… được tác giả viết bằng cảm hứng giễu nhại. Trong Tướng về hưu, tác giả đã sử dụng nhại để “giải thiêng” những quan niệm anh hùng, thi vị hoá cuộc sống. Chẳng hạn, tác giả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 15 http://www.lrc-tnu.edu.vn/
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan