Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn nguyễn phi khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả trong văn h...

Tài liệu Luận văn nguyễn phi khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả trong văn học việt nam

.PDF
147
131
65

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC  ĐỖ THU HIỀN NGUYỄN PHI KHANH VÀ SỰ CHUYỂN TIẾP VỀ MẶT LOẠI HÌNH TÁC GIẢ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI VÃN TRẦN SANG HỒ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 50433 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NGỌC VƯƠNG Hà Nội – 2004 Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................. 4 1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………... 4 2. Đốitƣợng và phạm vi nghiên cứu……………………………………….. 7 3. Mụcđích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………..... 8 4. Phƣơngpháp nghiên cứu………………………………………………… 9 5. Lịch sử vấn đề nghiên cứu………………………………………………. 10 6. Cái mới của luận văn…………………………………………………..... 14 7. Kết cấu của luận văn……………………………………………………. 14 NỘI DUNG Chƣơng 1: Động hình của các lực lƣợng xã hội và chủ thể văn hoá trong xã hội Việt Nam thời Vãn Trần sang Hồ……………. 15 1.1. Từ Phật giáo sang Nho giáo, định hướng vận động cơ bản của xã hộiViệt Nam từ Trần sang Hồ……………………………………… 15 1.1.1. Buổiđầu dựng nƣớc và kiếm tìm mô hình chính trị………………... 15 1.1.2. Tìnhthế “Tam giáo tịnh hành” trong thời Lý- Trần:………………... 18 1.1.3. Lựa chọn Nho giáo………………………………………………….. 22 1.1.3.1.Xu thế tất yếu……………………………………………………………... 22 1.1.3.2.Quá trình vận động…………………………………………………….... 27 1.2. Sự vận động của các loại hình nhân cách tiêu biểu thời Vãn Trần sang Hồ 34 1.2.1.Hƣớng vận động của loại hình nhân cách nhà sƣ và quý tộc……….. 34 1.2.1.1.Thiền sư- những nhà trí thức đầu tiên của thời độc lập…………… 34 1.2.1.2. Quý tộc nhà Trần và những kết cục………………………………… 37 -1- Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... 1.2.2. Sự khẳng định vị trí và xu hƣớng vận động của loại hình nhân cách nhà nho 41 1.2.2.1.Hiện tượng nho sĩ tham chính………………………………………….. 41 1.2.2.2.Sự trưởng thành về số lượng và các cuộc đấu tranh giành địa vị…. 44 1.2.2.3. Sự xuất hiện danh nho………………………………………………….. 47 Chƣơng 2: Nguyễn Phi Khanh - trƣờng hợp tiêu biểu của loại hình tác giả nhà nho thời Vãn Trần sang Hồ…………………... 2.1. Loại hình tác giả và văn chương nhà Nho thời Trần- 41 52 Hồ………….. 2.1.1. Loại hình tác giả nhà nho thế kỷ XIII- XIV………………............... 52 2.1.1.1.Sự đột biến về số lượng………………………………………………..… 52 2.1.1.2. Một số thuộc tính nổi bật “mang tính thời đại”…………………….. 57 2.1.1.3.Ảnh hưởng Phật- Đạo và học phong Đông A……………………....... 60 2.1.2. Văn chƣơng nhà nho giai đoạn Trần- Hồ…………………………... 61 2.1.2.1. Định hình ở bước đầu những đặc trưng của văn chương Nho giáo 61 2.1.2.2.Tiếp tục truyền thống văn chương Đông A. ………………………….. 66 2.1.2.3. Ảnh hưởng Phật giáo, Lão- Trang…………………………………….. 70 2.2. Nguyễn Phi Khanh và bi kịch của nhà nho nửa cuối thế kỷ XIV 2.2.1. Tiểu sử Nguyễn Phi Khanh…………………………………………. 71 71 2.2.2. “Ƣu quốc chính tu ngô bối sự”- Kẻ sĩ của tƣơng lai và mối quan hệ vớiTrần Nguyên Đán…………………………………………...… 73 2.2.3. “Thế lộ phong đào, ngã diệc châu”- Bi kịch cá nhân trong bi kịch thời đại - Mối quan hệ với Hồ Quý Ly và vƣơng triều 82 Hồ…………. Chƣơng 3: Thơ văn Nguyễn Phi Khanh- sự định hình của văn học nhà nho thời Vãn Trần sang Hồ…………………………… 89 3.1. Quan niệm nghệ thuật……………………………………………..... 90 -2- Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... 3.2. Cảm hứng chủ đạo…………………………………………………... 94 3.2.1. Khát vọng trí quân trạch dân……………………………………….. 96 3.2.2. Xã hội lý tƣởng……………………………………………………... 99 3.2.3. Tâm sự u uất ………………………………………………………... 102 3.2.4. Tình cảnh ẩn dật…………………………………………………….. 106 3.3. Hình tượng trung tâm……………………………………………….. 109 3.3.1. Hình tƣợng nhà nho đang tự khẳng định…………………………… 109 3.3.2. Hình tƣợng Trần Nguyên Đán……………………………………… 115 3.3.3.Hình tƣợng vị thánh quân trong mộng tƣởng ………………………. 118 3.4.Hệ thống thể loại và ngôn ngữ văn học……………………………... 120 3.4.1.Thể loại……………………………………………………………... 120 3.4.2. Ngôn ngữ văn học…………………………………………………... 123 KẾT LUẬN......................................................................................................... 127 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 132 -3- Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Nghiên cứu tác giả- chủ thể sáng tạo theo khuynh hƣớng loại hình học có thể đƣợc coi là một trong những chìa khoá giải mã nhiều vấn đề của lịch sử văn học. Nó sẽ góp phần đƣa chúng ta đến với một cái nhìn có tính hệ thống về quy luật vận động và phát triển của các nền văn học. Việc tìm hiểu loại hình tác giả nhà nho, loại hình tác giả có vai trò quan trọng nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam, là rất cần thiết đối với công tác nghiên cứu văn học sử. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi có ý định tìm hiểu loại hình tác giả nhà nho tại một thời điểm đặc biệt của nó trong lịch sử, khi tác giả nhà nho bắt đầu chiếm lĩnh văn đàn, thế kỷ XIV. Thế kỷ XIV là một trong những giai đoạn vẫn đƣợc coi là ít thành tựu của lịch sử văn học Việt Nam. Đó là giai đoạn dƣờng nhƣ không có tác giả, tác phẩm nổi bật, cũng không có những hiện tƣợng văn chƣơng đáng lƣu ý. Nằm giữa hai thời kỳ có dấu ấn đặc trƣng là thế kỷ XIII và thế kỷ XV, văn học thế kỷ XIV thƣờng chỉ đƣợc lƣớt qua trong các cuốn văn học sử nhƣ một gạch nối mờ nhạt. Thế nhƣng, rất dễ nhận thấy là, dƣới vẻ ngoài quá tĩnh lặng đó, ở giai đoạn này đã âm thầm diễn ra một trong những sự kiện quan trọng nhất của văn học trung đại, đó là sự chuyển đổi về mặt loại hình tác giả. Nhà nho trở thành loại hình tác giả chính yếu, thay thế cho nhà sƣ và quý tộc- võ tƣớng thời Lý- Trần. Đây là sự khẳng định một loại hình tác giả sẽ chiếm lĩnh văn đàn cho đến hết lịch sử văn học trung đại, có thể đƣợc coi là một bƣớc ngoặt hình thành nên văn chƣơng nhà nho ở Việt Nam. Nhƣ vậy là, tác giả nhà nho đã tức vị ở phƣơng diện văn chƣơng trƣớc khi nho sĩ đạt sự ƣu thắng trên chính trƣờng và Nho giáo có đƣợc địa vị độc tôn trong xã hội. Những điều -4- Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... kiện lý luận và thực tiễn nào đã quy định sự chuyển đổi đó? Và trên thực tế, quá trình chuyển tiếp của các loại hình tác giả đã diễn ra nhƣ thế nào? Loại hình tác giả nhà nho đã đƣợc hình thành nhƣ thế nào? Diện mạo của loại hình tác giả nhà nho ở giai đoạn giao thời này có đặc điểm gì đáng lƣu ý, có những điểm chung cơ bản và những đặc trƣng gì so với nhà nho những giai đoạn sau? Sự chuyển đổi của loại hình tác giả có ý nghĩa nhƣ thế nào đối với sự phát triển của văn học giai đoạn này, đặt trong tổng thể quá trình vận động của văn học mƣời thế kỷ nói chung? Chúng tôi cho rằng đây là một trong những vấn đề mấu chốt có ý nghĩa lý luận để giải quyết những khúc mắc cũng nhƣ nhận diện quy luật phát triển của văn học Việt Nam trung đại. Về mặt lịch sử, đây là một trong những thời kỳ có nhiều biến động bậc nhất của lịch sử trung đại Việt Nam. Ở đó đã diễn ra sự suy tàn dẫn đến sụp đổ của một trong những vƣơng triều đƣợc tôn vinh nhất trong lịch sử Việt Nam là nhà Trần, sự kiện đoạt ngôi của Hồ Quý Ly đƣa nhà Hồ, một trong những triều đại bị kết án nhiều nhất lên cầm quyền. Nhà Hồ tồn tại chỉ đƣợc dăm năm ngắn ngủi, để đất nƣớc rơi trở lại vào tay đế quốc phƣơng Bắc, lần đầu tiên và cũng là duy nhất trong thời tự chủ, sau mấy trăm năm tồn tại và phát triển rực rỡ của nƣớc Đại Việt. Đó là một trong những thất bại cay đắng nhất của lịch sử dân tộc. Nhƣng sự sôi động của giai đoạn này còn diễn ra ở một phƣơng diện quan trọng hơn, có tác động sâu sắc và lâu dài hơn đối với con đƣờng phát triển, diện mạo văn hoá cũng nhƣ vận mệnh của đất nƣớc. Các nhà nghiên cứu xƣa nay vẫn thừa nhận rằng, thời Trần sang Hồ là giai đoạn ở Việt Nam đã diễn ra một quá trình chuyển đổi từ Phật giáo sang Nho giáo trên quy mô hệ tƣ tƣởng chủ đạo chi phối mọi mặt đời sống xã hội. Đây là một trong những bƣớc ngoặt quan trọng nhất trong lịch sử trung đại Việt Nam, là bƣớc tiến dứt khoát cuối cùng của Việt Nam về phía vùng văn hoá Đông Á. Nho giáo đã đƣợc du nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc, nhƣng xu thế Nho giáo hoá này mới có cơ sở để bắt đầu từ đời Lý, diễn ra âm thầm, chậm chạp sang ở đời Trần, và -5- Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... trở nên thực sự quyết liệt, mạnh mẽ vào thời Vãn Trần sang Hồ, nửa cuối thế kỷ XIV. Sau cuộc xâm lƣợc của nhà Minh, Nho giáo càng đƣợc củng cố thêm bằng nhiều con đƣờng và ở nhiều phƣơng diện. Sang đến thế kỷ XV, với triều đại Lê Thánh Tông, Nho giáo sẽ bƣớc lên địa vị hệ tƣ tƣởng độc tôn. Vị trí này đƣợc giữ mãi cho đến tận ngày chế độ quân chủ ở Việt Nam kết thúc. Dĩ nhiên, ảnh hƣởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam đến đó chƣa phải là đã chấm dứt. Sự du nhập và phổ biến của Nho giáo vào Việt Nam đến mức độ nhất định đã hình thành nên một tầng lớp mới- tầng lớp nho sĩ. Không phải đến thế kỷ XIV ở Việt Nam mới xuất hiện nho sĩ, nhƣng phải đến thời điểm này, một tầng lớp nhà nho đông đảo, bắt đầu có địa vị đáng kể trong xã hội mới thực sự định hình. Nhƣng sự phát triển về mặt số lƣợng của nhà nho đã đi trƣớc mức độ thành đạt của họ. Tại đây đã có một cuộc đấu tranh giành giật địa vị xã hội giữa nho sĩ với nhà sƣ và nhất là với quý tộc. Nhà nho từng bƣớc đã thay thế nhà sƣ của thời Lý và quý tộc- võ tƣớng của thời Trần để trở thành nhân vật trí thức chính của đất nƣớc. Tất cả những vấn đề trên có liên quan nhƣ thế nào tới sự chuyển tiếp của loại hình tác giả trong văn học thời kỳ này? Sự chuyển tiếp của loại hình tác giả có thể coi là đã khởi đầu từ thế kỷ XIII. Nhƣng chúng tôi chọn mốc thời điểm Vãn Trần sang Hồ, nghĩa là nửa cuối thế kỷ XIV vì chỉ đến lúc này, sự chuyển tiếp nói trên mới thực sự diễn ra ráo riết, sự định hình của loại hình nhà nho đã đạt đến độ tiêu biểu cho một giai đoạn. Trong bối cảnh đầy ba động của lịch sử, mọi mâu thuẫn cũng nhƣ các đặc điểm cũng có cơ hội phát lộ hết mức. 1.2. Nhƣng với giới hạn của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi sẽ không khảo sát toàn bộ các tác giả của thời kỳ này, mà chỉ chọn một tác giả mà chúng tôi cho là tiêu biểu để nghiên cứu. Đó là Nguyễn Phi Khanh. Dĩ nhiên định hƣớng nghiên cứu là để nhận diện một loại hình tác giả trong giai đoạn giao thời. -6- Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... Nguyễn Phi Khanh là một tác giả quan trọng của nửa cuối thế kỷ XIV. Ở ông có nhiều điểm hội tụ những mâu thuẫn mà chúng tôi cho rằng có thể đại diện cho những vấn đề lớn nhất của thời đại. Ông là một nho sĩ, thân phụ của bậc đại nho tiêu biểu nhất của Việt Nam, Nguyễn Trãi; nhƣng ông cũng lại là con rể của Trần Nguyên Đán, một đại quý tộc tôn thất nhà Trần. Đỗ đạt dƣới triều Trần, nhƣng ông không đƣợc dùng cho đến tận khi nhà Trần diệt vong, khoảng 26 năm; sang đời nhà Hồ, ông lập tức ra làm quan và đƣợc trọng dụng. Con trai ông, Nguyễn Trãi cũng đỗ đại khoa và và làm quan dƣới triều Hồ. Khi nhà Minh xâm lƣợc, ông bị bắt giải sang Trung Quốc cùng cha con Hồ Quý Ly. Rõ ràng là có rất nhiều vấn đề khúc mắc trong cuộc đời cũng nhƣ tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh mà chúng tôi hy vọng có thể giải quyết bằng một hƣớng tiếp cận loại hình học tác giả. Chúng tôi cũng cho rằng những kết quả đạt đƣợc từ việc nghiên cứu một tác giả là Nguyễn Phi Khanh sẽ là bƣớc quan trọng để phác thảo nên diện mạo chung của loại hình tác giả giai đoạn này. Chính vì thế, chúng tôi chọn đề tài “Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp của loại hình tác giả trong văn học Việt Nam thời Vãn Trần sang Hồ” cho luận văn của mình. “Thời Vãn Trần sang Hồ” là một cách định danh mà chúng tôi dùng cho giai đoạn khoảng nửa cuối thế kỷ XIV. Chúng tôi dùng cách gọi có tính quy ƣớc này một phần lý do vì nó gợi mở cho thấy cả trạng thái vận động mang tính lịch sử: nhà Trần suy vong (tính từ khi Trần Minh Tông qua đời, năm 1357), nhà Hồ cƣớp ngôi (đến khi quân Minh xâm chiếm Đại Việt, năm 1407). Trong luận văn, hai cách gọi này sẽ đƣợc dùng tƣơng đƣơng, thay thế nhau. 2. Đối tƣợng và phạm vi tƣ liệu nghiên cứu Đối tƣợng của luận văn là Nguyễn Phi Khanh với tƣ cách là một loại hình tác giả chứ không phải chỉ là một tác giả văn học đơn thuần. Chính vì thế, -7- Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... chúng tôi sẽ nhìn Nguyễn Phi Khanh từ sự tổng hợp của rất nhiều góc độ văn hoá, tƣ tƣởng, chính trị, kinh tế, giai cấp… và tất nhiên, văn chƣơng, chứ không phải chỉ duy nhất từ góc độ văn chƣơng. Chúng tôi sẽ khảo sát “hiện tƣợng Nguyễn Phi Khanh” chứ không phải chỉ “văn chƣơng Nguyễn Phi Khanh”. Đƣơng nhiên, cuối cùng thì văn chƣơng Nguyễn Phi Khanh vẫn là đối tƣợng nghiên cứu quan trọng nhất, chiếm một dung lƣợng tƣơng đối lớn trong luận văn. Nghiên cứu về Nguyễn Phi Khanh, một tác giả mà tƣ liệu về ông còn lại không nhiều, chúng tôi chủ yếu phải dựa vào các tƣ liệu sử, tác phẩm của ông cũng nhƣ ngƣời thân và các tác giả cùng thời. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Chúng tôi hy vọng qua luận văn sẽ đạt đƣợc cái nhìn hệ thống về sự vận động và phát triển của lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam ở một giai đoạn đầy biến động của đất nƣớc, giai đoạn Vãn Trần sang Hồ. Cũng qua luận văn, chúng tôi muốn nhận diện rõ một tác giả là Nguyễn Phi Khanh từ góc độ loại hình tác giả, đặt Nguyễn Phi Khanh vào bối cảnh chung của loại hình tác giả nhà nho nửa cuối thế kỷ XIV. Chúng tôi cũng mong muốn qua đó thấy đƣợc diện mạo của văn chƣơng nhà nho ở giai đoạn mới hình thành. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học trung đại, một thời kỳ chƣa có sự phân hoá rạch ròi giữa các hình thái ý thức xã hội, không thể tránh khỏi việc nhìn đối tƣợng này trong tổng thể nguyên vẹn của nó. Vì vậy, xem xét văn học bắt đầu từ việc khảo sát các đối tƣợng khác nhƣ lịch sử, tƣ tƣởng là một thao tác cần phải có đối với ngƣời làm văn học sử. Với đề tài này, chúng tôi phải bắt -8- Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... đầu từ những vấn đề có vẻ quá rộng so với một luận văn về văn học, đó là các vấn đề lịch sử- tƣ tƣởng, kinh tế- chính trị… của thế kỷ XIV trong cái nhìn hệ thống từ thời lập quốc tới khi nhà Minh xâm lƣợc, thậm chí kéo dài đến tận thời Lê Thánh Tông. Luận văn đặt ra nhiệm vụ phải mô tả cho đƣợc quá trình chuyển từ Phật giáo sang Nho giáo cũng nhƣ chỉ ra những cơ sở chủ quan và khách quan quy định nó. Bên cạnh đó, tuy xác định là sẽ chỉ tập trung vào nghiên cứu một tác giả có tính đại diện, nhƣng chúng tôi vẫn không tránh khỏi việc đặt tác giả đó vào tổng thể loại hình tác giả nhà nho thời kỳ khởi đầu. Luận văn sẽ trình bày một cách khái quát nhất diện mạo cũng nhƣ những đặc điểm tiêu biểu của loại hình tác giả nhà nho và văn học nhà nho thế kỷ XIV. Chúng tôi tin rằng đây là những thao tác cần phải có để đạt đƣợc một cái nhìn vừa cụ thể, sâu sắc lại vẫn khách quan và toàn diện về đối tƣợng. Đƣơng nhiên, luận văn sẽ tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là Nguyễn Phi Khanh và tác phẩm của ông. Với con ngƣời Nguyễn Phi Khanh, chúng tôi sẽ cố gắng lý giải những mâu thuẫn trong cuộc đời cũng nhƣ tƣ tƣởng của ông đặt trong mối liên hệ với thời đại để tìm ra lôgic nội tại của vấn đề. Chúng tôi đặc biệt coi trọng việc khảo sát tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh về nhiều phƣơng diện: quan niệm thẩm mỹ, cảm hứng chủ đạo, hình tƣợng trung tâm, thể loại và ngôn ngữ văn học… Từ đó, chúng tôi hy vọng rút ra đƣợc những kết luận có ý nghĩa về tác giả cũng nhƣ văn chƣơng nhà nho nửa cuối thế kỷ XIV. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Với luận văn này, chúng tôi sử dụng nhiều phƣơng pháp có tính chất tổng hợp. Phƣơng pháp loại hình học đƣợc sử dụng xuyên suốt nhƣ một phƣơng pháp cơ bản. Chúng tôi cũng luôn tiến hành so sánh, đối chiếu, chủ yếu là theo -9- Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... lịch đại trong suốt quá trình khảo sát đối tƣợng nhằm làm rõ những điểm chung và đặc thù của loại hình tác giả nhà nho thế kỷ XIV. Để làm rõ quá trình thay đổi của các hệ tƣ tƣởng cũng nhƣ các loại hình tác giả, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp mô tả. Trong quá trình khảo sát, đặc biệt là với tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh, chúng tôi sử dụng thƣờng xuyên các phƣơng pháp phân tích, thống kê, phân loại… 5. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Đây là một đề tài khá tổng hợp nên những công trình nghiên cứu có liên quan rất đa dạng, có thể chia thành các loại sau: 5.1. Về lịch sử, văn hoá, chính trị, tư tưởng thế kỷ XIV: Các công trình về lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam nói chung và từng học thuyết nhƣ Nho giáo, Phật giáo có đề cập đến thế kỷ XIV khá nhiều. Chúng ta có thể kể đến các công trình chủ yếu sau:  Nguyễn Tài Thƣ (Chủ biên). Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993.  Nhiều tác giả. Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam. Viện Triết học- Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội, 1984.  Nhiều tác giả. Nho giáo tại Việt Nam. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội, 1994.  Phan Đại Doãn (Chủ biên). Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1998.  Quang Đạm. Nho giáo xưa và nay. NXB Văn hoá- Thông tin. Hà Nội, 1994.  Trần Đình Hƣợu. Đến hiện đại từ truyền thống. NXB Văn hoá- Thông tin. Hà Nội, 1996. - 10 - Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả...  Vũ Văn Vinh. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời Trần. Luận án tiến sĩ triết học. Viện Triết học. Hà Nội, 1999.  Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB Văn học. Hà Nội, 2000.  Nguyễn Tài Thƣ (Chủ biên). Lịch sử Phật giáo Việt Nam. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội, 1988.  Nhiều tác giả. Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam. Viện Triết học- Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội, 1986.  Nhiều tác giả. Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý- Trần. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội, 1981. Các công trình trên đều chỉ coi thế kỷ XIV là một chặng trong quá trình khảo sát, chính vì thế, khả năng tập trung vào giai đoạn này không cao. Nhƣng với mức độ đậm nhạt khác nhau, các tác giả nói chung đều nhìn nhận thời Trần là giai đoạn có sự chuyển hƣớng từ Phật giáo sang Nho giáo trên lĩnh vực tƣ tƣởng ở Việt Nam và sự chuyển hƣớng này đã có tác động toàn diện tới xã hội. Trong đó, giáo sƣ Trần Đình Hƣợu đặc biệt coi trọng cuộc chuyển giao Phật giáo- Nho giáo thế kỷ XIV- XV nhƣ một trong ba bƣớc ngoặt lớn nhất của lịch sử Việt Nam, ngang hàng với cuộc tiếp xúc của văn hoá bản địa và văn hoá Trung Quốc cũng nhƣ sự kiện Việt Nam gia nhập thế giới cận hiện đại bằng sự va chạm với văn minh phƣơng Tây [47, 117]. Tuy vậy, chƣa có công trình nào chú trọng mô tả từng bƣớc sự chuyển giao đó nhƣ một quá trình với lôgic nội tại mà thƣờng chỉ trình bày dƣới dạng các hiện tƣợng. Nhìn chung, ngoài số ít bài viết ra thì chƣa có một chuyên khảo nào dành riêng cho bƣớc ngoặt có tính lịch sử này. 5.2. Về văn học nửa cuối thế kỷ XIV: Chặng này vốn đƣợc coi là không có nhiều thành tựu, thậm chí là “hầu như tẻ nhạt” [106, 152] trong lịch sử văn học trung đại. Chính vì thế, các bộ văn học sử quan trọng đều chỉ dành cho nó một dung lƣợng rất khiêm tốn so với các giai đoạn khác. Thậm chí, “Việt Nam - 11 - Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... văn học sử giản ước tân biên” của Phạm Thế Ngũ, một bộ sử đƣợc viết theo tiêu chí thể loại, trong phần “Thi văn” chữ Hán đã bỏ qua thế kỷ XIV- một thế kỷ mà tác phẩm để lại đa phần là thi ca. Nghĩa là, văn chƣơng giai đoạn này đã hoàn toàn vắng bóng trong công trình của Phạm Thế Ngũ. Bên cạnh đó, không có chuyên khảo nào về các tác giả, tác phẩm hoặc các vấn đề văn học của giai đoạn này, số lƣợng bài nghiên cứu cũng không nhiều và thành quả chƣa đáng kể. Nói chung, các nhà nghiên cứu đều có xu hƣớng cho rằng văn học nửa cuối thế kỷ XIV không có nhiều vấn đề để nhắc tới. Nhƣng họ cũng đều thống nhất rằng, đã có một sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả trong văn học thời Vãn Trần- Hồ. Loại hình tác giả nhà nho đã thay thế loại hình tác giả nhà sƣ thời Lý và loại hình tác giả võ tƣớng- quý tộc thời Trần. Tuy thế, chƣa có công trình nghiên cứu nào đi sâu hơn những nhận định đó để mô tả diện mạo của loại hình tác giả nhà nho, quá trình phát triển cũng nhƣ sự thay thế của các loại hình tác giả giai đoạn này. 5.3. Về loại hình tác giả: Phƣơng pháp nghiên cứu theo loại hình học mới xuất hiện ở Việt Nam chƣa lâu. Các công trình nghiên cứu loại hình học tác giả chƣa nhiều. Có thể kể đến các bài viết của giáo sƣ Trần Đình Hƣợu về Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyễn, Tản Đà… nghiên cứu các tác giả riêng lẻ theo xu hƣớng loại hình. Trần Ngọc Vƣơng đã khái quát hoá các loại hình tác giả nhà nho trong chuyên khảo “Loại hình học tác giả văn học- Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam”. Sau công trình này, đã có nhiều luận văn, luận án tiếp theo nghiên cứu loại hình học. 5.4. Về Nguyễn Phi Khanh Nguyễn Phi Khanh là một tác giả gần nhƣ chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu độc lập. Ngƣời ta thƣờng chỉ nhắc đến Nguyễn Phi Khanh với tƣ cách thân sinh ra vị anh hùng dân tộc, nhà thơ lớn Nguyễn Trãi mà ít nhớ ra rằng ông cũng là một nhà thơ xuất sắc của thời Trần- Hồ. Bản thân tƣ liệu về Nguyễn Phi - 12 - Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... Khanh trong lịch sử cũng còn lại quá ít, và gần nhƣ tất cả đều lặp lại những dữ kiện đã có trong “Đại Việt sử ký toàn thư”. Nghiên cứu riêng về Nguyễn Phi Khanh cho đến nay chỉ có bài viết “Phi Khanh và thơ Phi Khanh” của Đào Phƣơng Bình (Tạp chí Văn học, số 4, 1965) và “Lời giới thiệu” sách “Thơ văn Nguyễn Phi Khanh (tuyển)” (NXB Văn học, Hà Nội, 1981) của Bùi Văn Nguyên. Đúng nhƣ tên gọi, bài viết của Đào Phƣơng Bình đề cập đến cả khía cạnh con ngƣời và tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh. Trong tình hình chung của nghiên cứu phê bình giai đoạn đó, Đào Phƣơng Bình cho rằng: “Những nhân tố tích cực trong văn chương Phi Khanh là tinh thần yêu nước, biểu hiện cụ thể bằng lòng yêu thương nhân dân, lòng yêu thiên nhiên đất nước, và khí phách kiên cường của ông khi đứng trước bè lũ thống trị, tinh thần hiên ngang của ông trước bọn giặc ngoại xâm”, và ông đã chủ yếu đi sâu phân tích những đặc điểm đó. Tuy nhiên, chính ông cũng nhận thấy rằng, trong thơ Nguyễn Phi Khanh, “những bài nói về nhân dân chưa phải là nhiều lắm, trong khi những bài nói về tâm sự ở ẩn của mình lại khá nhiều; mặt khác, đôi khi ông lại sa chân vào cái “nhàn” mà không có lối ra”, và cho đó là mặt hạn chế của Nguyễn Phi Khanh. Nhƣng nhìn chung, Đào Phƣơng Bình đã đánh giá rất cao tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh: “Có thể nói Phi Khanh chính là một trong những ngôi sao sáng của bầu trời văn học Việt Nam cổ đại”. Bài viết của Bùi Văn Nguyên có tính tổng hợp và đề cập đến nhiều phƣơng diện hơn. Nhƣng Bùi Văn Nguyên lại quá phụ thuộc vào những chi tiết về tiểu sử, gia thế Nguyễn Phi Khanh mà ông mới tìm thấy qua gia phả một số dòng họ. Ông đã dùng tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh chủ yếu để minh hoạ cho những phát hiện đó. Hơn nữa, bài viết này dù dài tới 17 trang thì cũng vẫn chỉ có quy mô của một lời giới thiệu tuyển tập. Chính vì thế, những vấn đề đặt ra ở đây chƣa nhiều và cũng chƣa vấn đề nào đƣợc giải quyết thấu đáo. - 13 - Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... Ngoài ra, trong các cuốn văn học sử, tên tuổi cũng nhƣ tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh vẫn đƣợc thoáng nhắc tới, chủ yếu ở khía cạnh một tiếng thơ bất bình với hiện thực xã hội đƣơng thời, với triều đình phong kiến: “Văn học Việt Nam (Thế kỷ X- nửa đầu thế kỷ XVIII)” (Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chƣơng, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997); “Giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII” (Bùi Duy Tân, Đại học Huế, 1995); “Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII” (Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Sĩ Cẩn, Hoàng Ngọc Trì, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1989)… Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu đã có chƣa xứng đáng với tầm cỡ một tác giả nhƣ Nguyễn Phi Khanh. 6. Cái mới của luận văn Luận văn đã mô tả quá trình chuyển hƣớng từ Phật giáo sang Nho giáo thời Lý- Trần- Hồ, đặc biệt tập trung vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIV, qua đó làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã quy định sự vận động này. Quá trình hình thành, diện mạo của loại hình tác giả nhà nho và văn chƣơng nhà nho thời Vãn Trần sang Hồ trong tƣơng quan so sánh với các giai đoạn khác đã bƣớc đầu đƣợc phác hoạ trong luận văn. Chúng tôi đã cố gắng chỉ ra những đặc trƣng cơ bản quy định loại hình cũng nhƣ những khác biệt có tính chất thời đại của đối tƣợng. Đây là những nội dung chƣa hề có trong các công trình khoa học trƣớc đó. Lần đầu tiên, Nguyễn Phi Khanh, một trong những tác giả quan trọng nhất của nửa cuối thế kỷ XIV đã đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống. Cũng lần đầu tiên, một nhà nho thuộc về những thế hệ đầu tiên của thời đại Nho giáo ở Việt Nam đƣợc khảo sát theo hƣớng loại hình học tác giả. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết thúc, luận văn gồm có 3 chƣơng: - 14 - Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả...  Chƣơng 1: Động hình của các lực lượng xã hội và chủ thể văn hoá trong xã hội Việt Nam thời Vãn Trần sang Hồ  Chƣơng 2: Nguyễn Phi Khanh - trường hợp tiêu biểu của loại hình tác giả nhà nho thời Vãn Trần sang Hồ  Chƣơng 3: Thơ văn Nguyễn Phi Khanh- sự định hình của văn học nhà nho thời Vãn Trần sang Hồ - 15 - Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... CHƢƠNG I : ĐỘNG HÌNH CỦA CÁC LỰC LƢỢNG XÃ HỘI VÀ CHỦ THỂ VĂN HOÁ TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI VÃN TRẦN SANG HỒ 1.1. TỪ PHẬT GIÁO SANG NHO GIÁO, ĐỊNH HƢỚNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ TRẦN SANG HỒ 1.1.1. Buổi đầu dựng nƣớc và kiếm tìm mô hình chính trị Sau một ngàn năm Bắc thuộc với quá trình Hán hoá diễn ra nhƣ một xu thế không thể cƣỡng lại đƣợc, Việt Nam đã chính thức là thành viên của vùng văn hoá Đông Á. Nhƣng quá trình Hán hoá không phải đến năm 938 với sự kiện Ngô Quyền toàn thắng trên sông Bạch Đằng là đã hoàn tất, mà còn kéo dài gần nhƣ trong suốt thời trung đại Việt Nam, dĩ nhiên với tính chất và mức độ đã khác rất xa so với buổi ban đầu. Sau khi giành đƣợc độc lập, Việt Nam còn mất thêm một thời gian nữa cho việc tạm thời ổn định đất nƣớc. Ngô Quyền ở ngôi đƣợc sáu năm, đến khi ông qua đời (944), nhà Ngô mất vào tay họ Dƣơng, rồi loạn 12 sứ quân. Các sử gia thời trung đại đặc biệt đánh giá cao Đinh Bộ Lĩnh chứ không phải Ngô Quyền nhƣ các nhà làm sử cận hiện đại. Họ coi vua Đinh là mở đầu của phần chính biên hay bản kỷ trong chính sử, có lẽ lý do chủ yếu vì ông ta là vị vua đầu tiên của Việt Nam xƣng đế ở thời độc lập. Gần đây, có ý kiến lại muốn trả vinh dự cho “ra đời một nhà nước có quy mô dân tộc, thống nhất được cả về lãnh thổ hành chính lẫn quyền lực đối với mọi tầng lớp và mọi khu vực dân cư” [70, 439] đầu tiên ở thế kỷ X trên mảnh đất Việt Nam này về với Đinh Bộ Lĩnh, ngƣời đã có công dẹp loạn cát cứ 12 sứ quân, thống nhất đất nƣớc, quá trình mà - 16 - Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... lịch sử Trung Quốc phải mất hàng ngàn năm mới thực hiện đƣợc dƣới bàn tay của vị hoàng đế đầu tiên Tần Thuỷ Hoàng. Dù Ngô Quyền đã có công “nối lại chính thống” của “nước Đại Việt ta” (lời Lê Văn Hƣu) [11, 148] thì công kiến thiết đất nƣớc của ông lại chƣa đƣợc là bao. Đó không phải do lỗi của cá nhân mà đơn giản là những bƣớc phát triển của lịch sử có điều kiện cần là sự chín muồi của nhiều yếu tố nội tại. Tình hình xã hội lúc này chƣa ổn định đủ cho việc nghĩ đến chuyện lâu dài. Lời bàn của Ngô Sĩ Liên: “Nhà Tiền Ngô nổi lên được, không những là chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của đế vương. Thế mà ở ngôi chưa được lâu, chưa thấy hiệu quả trị bình, đáng tiếc thay!” [11, 148] có lẽ chỉ nên coi nhƣ lời tán của ngƣời chép sử sau đó đến vài trăm năm, lại luôn ở tâm thế muốn khẳng định rằng nƣớc ta đã có văn hiến từ rất lâu mà thôi. Dù sao, các vị vua Ngô- Đinh- Tiền Lê cũng đã bƣớc đầu xây dựng thiết chế xã hội theo mô hình Trung Quốc nhƣ một tất yếu. Tất cả đều đã có sẵn, bao gồm cả di sản thời Bắc thuộc để lại cùng một mô hình đã đạt đến độ hoàn chỉnh bên Trung Quốc. Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhƣ vậy thì cũng khó mƣờng tƣợng ra một con đƣờng nào khác thế. Nhƣng vấn đề là các vị vua Ngô- Đinh- Tiền Lê có lẽ cũng mới chỉ áp dụng mô hình thiết chế xã hội của Trung Quốc ở hình thức sơ khai, tối giản và phiến diện nhất mà thôi. Họ điều hành đất nƣớc phần lớn theo kiểu ngẫu hứng, kinh nghiệm chủ nghĩa, hoàn toàn không dựa vào bất cứ điểm tựa tƣ tƣởng nào. Kiểu hành xử cũng nhƣ cai trị xã hội của họ, dƣới con mắt khắt khe của các sử thần- nhà nho sau này, là mang đầy những khiếm khuyết không thể tha thứ đƣợc, là vi phạm hàng loạt những nguyên tắc của đạo lý, những điển chƣơng chế độ của Nho giáo: “Các đế vương nổi dậy, không bao giờ là không do ở trời. Song bực thánh nhân không cậy là chịu mệnh ở trời mà lại càng làm hết phận sự của mình. Khi việc đã thành rồi, càng lo nghĩ mà phòng bị: sửa việc lễ nhạc hình chính là để phòng giữ lòng người; đặt nhiều lần cửa và đánh hiệu - 17 - Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... canh, là để giữ kẻ gian phi. Vì rằng lòng dục không cùng, việc đời không bến, không thể không phòng bị trước, thế là nghĩ xa về sau để mưu cho con cháu chính là ở đó” [11, 158]. Đó chính là lời bàn của Ngô Sĩ Liên về cái chết của Đinh Tiên Hoàng. Rõ ràng là triều đình thời này còn quá hoang sơ, dƣờng nhƣ chỉ mới thoát khỏi bóng dáng của tổ chức công xã thị tộc chƣa đƣợc bao lâu, việc hành thích nhà vua đơn giản và dễ dàng đến mức khó tin. Điều nhà viết sử này chê trách Đinh Tiên Hoàng nhất chính là chuyện không làm đúng “phận sự”, “sửa lễ nhạc hình chính”. Chƣa nói đến ông vua nổi tiếng bạo ngƣợc nhƣ Kiệt- Trụ là Lê Ngoạ Triều với các trò giết ngƣời man rợ, ngay cả các ông vua sáng nghiệp cũng nuôi hổ dữ, đặt vạc dầu, xử phạt tàn bạo. Bạo lực thật sự vẫn có sức mạnh chƣa thay thế nổi trong thời loạn. Nhƣng cũng phải nói lại rằng đó là giải pháp khó tránh khỏi để đƣa một xã hội còn chƣa thoát khỏi trạng thái hỗn loạn nhƣ thế vào quy củ. Có thể thấy là các vị vua thời này chƣa phải là mẫu hình các vị đế vƣơng của Nho giáo. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi, lập ra triều Lý, lần lƣợt dời đô về Thăng Long, đặt quốc hiệu là Đại Việt, mở ra một “kỷ nguyên mới” cho đất nƣớc. Đến đây, một hƣớng đi dài lâu cho nƣớc Đại Việt mới thực sự đƣợc mở ra. Công cuộc xây dựng nƣớc Đại Việt đến đây mới có thể coi là thực sự bắt đầu: “Triều Lý đã thiết lập quy mô của Đại Việt về nhiều phương diện: từ chủ quyền lãnh thổ, mô hình chính trị, ngôi vua (kiến cực), định đô, định điển chế hiến chương, các quan hệ đối ngoại với lân bang và đặc biệt là sự lựa chọn hệ tư tưởng chủ đạo” [70, 347]. Lý Công Uẩn lên ngôi nhờ một biến cố cung đình là kết quả của sự chuẩn bị, tính toán rất cao tay. Ngƣời đứng sau tất cả những chuyện đó là một nhà sƣ- Vạn Hạnh thiền sƣ. Có thể nói, thế lực Phật giáo đã có công trong sự ra đời của nhà Lý. Thực tế sau này, nhà Lý rất sùng bái Phật giáo, nhƣng cũng là trong bối cảnh phồn thịnh chung của Phật giáo tại Việt Nam bấy giờ. Thế nhƣng, thật đáng ngạc nhiên, chính đây cũng lại là mốc quan trọng ghi nhận sự có mặt mang tính tất yếu của Nho giáo. Việc dời đô về Thăng - 18 - Nguyễn Phi Khanh và sự chuyển tiếp về mặt loại hình tác giả... Long không chỉ có ý nghĩa lớn lao về mặt chiến lƣợc mà nó cho thấy Lý Công Uẩn đã không còn nhìn võ công và bạo lực nhƣ những yếu tố quan trọng nhất của kẻ làm vua. Ông đã tiến gần hơn đến hình ảnh của một vị đế vƣơng kiểu Nho giáo. “Thiên đô chiếu” đã phản ánh khát vọng trở thành một vị đế vƣơng đích thực của Lý Công Uẩn: “Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tự tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi” [15, 230]. Ngoài việc Vạn Hạnh có bóng dáng của một nhà nho quyền mƣu thì có nhiều lý do để nghi ngờ rằng nhân vật quan trọng thứ hai trong vụ chính biến này, Đào Cam Mộc, cũng có liên quan đến Nho giáo. Ông ta khuyên Lý Công Uẩn theo kiểu nhà nho: “Ông là người công minh dung thứ, khoan hồng, nhân từ, lòng người phụ thuộc, Hiện nay trăm họ khốn khổ, dân không chịu nổi, ông nhân thế lấy ân đức mà vỗ về, thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, ai có thể ngăn lại được?” [11, 187]. Rõ ràng, trong hoàn cảnh Phật giáo đang thịnh hành nhƣ thế, sự xuất hiện của Nho giáo chứng tỏ đây là một nhu cầu không thể thiếu đối với sự phát triển của đất nƣớc. Sau này, trong việc cai trị, nhà Lý đã buộc phải sử dụng Nho giáo nhƣ một công cụ hữu ích không thể thiếu. Có thể thấy rằng, từ lực lƣợng cai trị là những võ tƣớng với võ công hiển hách, thanh gƣơm yên ngựa đánh quân xâm lƣợc hay dẹp loạn đến khi là tầng lớp trí thức có sự bảo trợ của Phật giáo và Nho giáo là cả một đoạn đƣờng mà lịch sử đã phải đi qua. Đến đây, có thể nói rằng, đã có “sự thắng thế của một lực lượng văn hoá cao hơn”, “của một cung cách cai trị kiểu phong kiến”[70, 347]. 1.1.2. Tình thế “Tam giáo tịnh hành” trong thời Lý- Trần: Hai triều đại Lý- Trần kéo dài tổng cộng gần 400 năm, vẫn đƣợc coi là thời kỳ hoàng kim của nƣớc Đại Việt. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ về mọi mặt kinh tế- xã hội của đất nƣớc, cũng là thời kỳ đặc biệt thịnh đạt của Phật - 19 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan