ĐẶNG THANH VŨ
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG THANH VŨ
NGÀNH TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
KHÓA II/2017
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG THANH VŨ
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Nguyễn Thanh Dương
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu thống kê, kết quả đề cập trong Luận văn này là trung thực, chính xác và có nguồn
gốc trích dẫn rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
ĐẶNG THANH VŨ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI ........................... 6
1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân
người phạm tội ...................................................................................................... 6
1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội ..................................................... 11
1.3. Các yếu tố tác động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người
phạm tội .............................................................................................................. 19
Chương 2. THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................. 27
2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ
Chi, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn năm 2014 - năm 2018 ........................ 27
2.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ
Chí Minh giai đoạn năm 2014-2018 .................................................................. 32
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở
người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh .............. 44
Chương 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH TỪ GÓC ĐỘ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI.................................. 63
3.1. Dự báo về tình hình tội phạm, đặc điểm nhân thân người phạm tội và một số yếu
tố ảnh hưởng đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người
phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh ......................... 63
3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm từ góc độ nhân thân
người phạm tội ................................................................................................... 69
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 81
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. NPT
: Người phạm tội
2. TAND
: Tòa án nhân dân
3. THTP
: Tình hình tội phạm
4. TP.HCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
5. VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Diễn biến tình hình tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM (Giai
đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.2 Cơ số tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi (Giai đoạn từ năm 2014 đến
năm 2018);
Bảng 2.3. Thống kê tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi đã bị xét xử (Giai đoạn từ
năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.4. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi xét theo tiêu chí loại
tội phạm (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.5. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi xét theo tiêu chí địa
bàn nơi xảy ra tội phạm (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);
Biểu 2.1. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi xét theo tiêu chí giới
tính của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);
Biểu 2.2. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi xét theo tiêu chí độ
tuổi của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);
Biểu 2.3. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi theo tiêu chí giới tính
của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);
Biểu 2.4. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi theo tiêu chí nghề
nghiệp của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018);
Biểu 2.5. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi theo tiêu chí đặc điểm
tiền án, tiền sự của người phạm tội (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)
Bảng 2.6. Thống kê về đặc điểm giới tính của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ
Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.7. Thống kê về độ tuổi của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi (Từ
năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.8. Thống kê về trình độ học vấn của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ
Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.9. Thống kê về đặc điểm nghề nghiệp của người phạm tội trên địa bàn huyện
Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.10. Thống kê về đặc điểm hoàn cảnh gia đình của người phạm tội trên địa bàn
huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.11. Thống kê về đặc điểm nơi cư trú của người phạm tội trên địa bàn huyện
Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.12. Thống kê về đặc điểm về sở thích, thói quen của người phạm tội trên địa
bàn huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.13. Thống kê về đặc điểm động cơ của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ
Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018);
Bảng 2.14. Thống kê về đặc điểm tiền án, tiền sự của người phạm tội trên địa bàn
huyện Củ Chi (Từ năm 2014 đến năm 2018).
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nhân thân NPT là một nội dung nghiên cứu quan trọng của khoa học Tội phạm
học. Theo đó, nhân thân NPT là yếu tố quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội và
có liên quan trực tiếp đến nguyên nhân, điều kiện của THTP, bởi “… không thể nhận
thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân
thân người phạm tội” [44, tr. 127]. Chính vì thế, trong quá trình tiến hành các hoạt
động phòng ngừa THTP ở một địa bàn cụ thể thì không thể không nghiên cứu đến
nhân thân NPT.
Nằm ở phía Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, Củ Chi là huyện ngoại
thành có diện tích khoảng 435 km2, dân số trên 403.000 người, với 20 đơn vị hành
chính cấp xã và 01 thị trấn, vị trí tiếp giáp với huyện Hóc Môn (TP.HCM) và nhiều
tỉnh khác như Tây Ninh, Bình Dương, Long An. Trong những năm qua, cùng với việc
đầu tư cơ sở hạ tầng và thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế với nhiều khu công nghiệp
lớn đã mọc lên trên địa bàn, Củ Chi đã vươn lên từ một huyện nghèo trở thành địa
phương có mức tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng, trên 14%/năm; đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân trên địa bàn ngày càng được nâng cao [16]. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội của địa phương cũng cho thấy những
tác động tiêu cực do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nhanh chóng mang lại mà
rõ nét nhất là diễn biến phức tạp của THTP trên địa bàn với tổng số 1095 vụ và 1682
NPT bị đưa đưa ra xét xử [Xem bảng phụ lục 2.1], nghĩa là trung bình hàng năm có
hơn 336 người thực hiện tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi với những đặc điểm
khác nhau về xã hội - nhân khẩu, đạo đức – tâm lý và pháp lý hình sự khác nhau, dẫn
đến việc thực hiện hành vi phạm tội. Việc nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn về
nhân thân của NPT trên địa bàn huyện Củ Chi là đòi hỏi tất yếu nhằm hoạch định kế
hoạch và triển khai các biện pháp phòng ngừa THTP một cách hiệu quả hơn.
Từ những lẽ trên, học viên cho rằng việc nghiên cứu đề tài “Nhân thân người
phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh” là rất cần thiết cả về
1
mặt lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa THTP trên địa bàn
huyện Củ Chi trong thời gian tới, đáp ứng được những đòi hỏi của cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm ở địa phương này và trên toàn quốc.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhân thân NPT là vấn đề được quan tâm nghiên cứu ở các khía cạnh, góc độ
khác nhau trong nhiều công trình khoa học, điển hình như:
- “Tội phạm học, Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” Nxb. Chính
trị quốc gia, 1994;
- “Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Nhà
nước và Pháp luật, Nxb. CAND, năm 2000;
- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của TS. Phạm Văn
Tỉnh, Nxb.CAND, 2007;
- Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam (2013), Học viện Cảnh sát nhân dân;
- “Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
cho người khác trên địa bàn Thành phố. Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn
Xuân Bá, Học viện khoa học xã hội (2017).
- “Nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Thắm, Học viện khoa học xã hội
(2016).
Ngoài những công trình kể trên, còn có khá nhiều bài viết về nhân thân NPT
được đăng tải, công bố trên các tạp chí khoa học, hội thảo khoa học về Luật học, Tội
phạm học. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về nhân thân NPT trên
địa bàn huyện Củ Chi. Chính vì thế, việc nghiên cứu đề tài này không bị trùng lắp
với bất kỳ công trình khoa học nào đã được công bố trước đây..
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về nhân thân NPT và thực trạng nhân thân NPT trên địa bàn huyện Củ Chi,
TP.HCM để tìm ra được những giải pháp, kiến nghị hiệu quả góp phần nâng cao hiệu
quả phòng ngừa THTP trên địa bàn này từ góc độ nhân thân NPT.
2
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được các mục đích trên, Luận văn giải quyết
các nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, nhiệm vụ nghiên cứu về lý luận, bao gồm những hoạt động cụ thể như:
Tìm, thu thập và nghiên cứu tài liệu về tội phạm học và những tài liệu khác liên quan
đến đề tài làm để thống nhất nhận thức, làm cơ sở cho việc nghiên cứu về thực trạng.
Hai là, nhiệm vụ nghiên cứu về thực tiễn, bao gồm những hoạt động cụ thể
như: Tìm kiếm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh số liệu thống kê hình sự, các tài
liệu, bản án, thông tin về các vụ án hình sự trong phạm vi nghiên cứu; Xử lý, phân
tích, so sánh các số liệu, thông tin theo các tiêu thức tội phạm học để làm rõ các đặc
điểm nhân thân NPT trên phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu.
Ba là, dự báo xu hướng của THTP trên địa bàn nghiên cứu, tập trung vào xu
hướng của những yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực
của con người.
Bốn là, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả phòng
ngừa THTP trên địa bàn nghiên cứu từ góc độ nhân thân NPT.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là nhân thân
NPT trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt nội dung, đề tài nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học, thuộc chuyên
ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm;
+ Về thời gian, đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng 05 năm, từ năm
2014 đến năm 2018;
+ Về không gian, đề tài luận văn được thực hiện trong phạm vi huyện Củ Chi,
TP. HCM.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là
quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mác – Lê nin; quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm; các tri thức khoa học của Tội phạm
3
học và Tâm lý học.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau đây:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ luận văn nhằm
làm rõ về nhân thân NPT;
+ Phương pháp thống kê được sử dụng trong thống kê số liệu của Luận văn
nhằm khái quát THTP và nhân thân NPT trong phạm vi nghiên cứu;
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp được sử dụng trong Chương 2
của Luận văn để phân tích, so sánh, tổng hợp tìm các quy luật, các hạn chế, khó
khăn... đưa ra các dự báo để làm cơ sở đề xuất các giải pháp phòng ngừa THTP trên
địa bàn huyện Củ Chi từ khía cạnh nhân thân NPT.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng trong Chương 2 của Luận
văn trong việc phân tích một số vụ án xảy ra trên địa bàn nghiên cứu từ đó đưa ra
những đánh giá chính xác và đề ra các giải pháp phòng ngừa THTP phù hợp từ khía
cạnh nhân thân NPT.
- Phương pháp chuyên gia được sử dụng trong Chương 2, chương 3 của Luận
văn để để lấy ý kiến, nhận xét và dự báo về THTP cũng như các yếu tố tác động đến
hình thành nhân thân tiêu cực của NPT trên địa bàn nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm được sử dụng trong chương 2,3 của Luân
văn để nghiên cứu tổng kết, đánh giá những kết quả, tài liệu thu thập được từ thực
tiễn và đề xuất giải pháp phòng ngừa THTP trên địa bàn nghiên cứu từ khía cạnh
nhân thân NPT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu một cách hệ thống
về nhân thân NPT trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2014 đến năm 2018. Kết quả
nghiên cứu Luận văn còn góp phần bổ sung, hoàn thiện hơn nữa lý luận của tội phạm
học về nhân thân NPT.
- Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận
dụng vào thực tiễn công tác phòng, chống tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi,
4
TP.HCM trong thời gian tới từ góc độ nhân thân của NPT và có thể sử dụng là tài
liệu tham khảo cho các hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn có kết cấu nội
dung gồm ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội.
Chương 2: Thực trạng nhân thân người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi,
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018.
Chương 3: Dự báo và một số giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội
phạm trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân người
phạm tội.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội và ý nghĩa của việc nghiên cứu
nhân thân người phạm tội
1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội
Trong lý luận về tội phạm học, khi phân tích về THTP, những nguyên nhân,
điều kiện của THTP và đề ra các biện pháp phòng ngừa thì không thể không nghiên
cứu về chính những chủ thể đã thực hiện tội phạm ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao
gồm nhân thân của họ. Tội phạm học gọi những chủ thể đó là NPT.
Người phạm tội trước hết là con người cụ thể trong xã hội. Về luận điểm này,
C. Mác đã cho rằng: “Nhà nước cần phải thấy rằng kẻ vi phạm đó là một con người,
một tế bào sống của xã hội, ở con người đó cũng có quả tim đang đập và dòng máu
đang chảy… một thành viên của tập thể thực hiện các chức năng của xã hội, một
người chủ gia đình mà sự tồn tại của họ là sự thiêng liêng và cuối cùng điều quan
trọng nhất họ là công dân của nhà nước đó” [12, tr.93].
Là sản phẩm của tự nhiên nên trước hết, con người nói chung và NPT nói riêng
mang các đặc tính tự nhiên, đặc tính sinh học. Vì là một thực thể sinh học nên con
người mang các đặc tính của sinh vật. Những đặc tính sinh vật đó quyết định sự hình
thành những hiện tượng, quá trình tâm lý của con người. Mặt khác, để tồn tại được
đòi hỏi con người phải có quá trình lao động sản xuất của cải vật chât để phục vụ nhu
cầu sinh học của mình như ăn, uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt. Đồng thời, trong bất kỳ xã
hội nào, con người không bao giờ tách rời riêng lẻ mà luôn luôn có quan hệ với nhau.
Mối quan hệ này không đơn thuần là mối quan hệ giữa ca nhân với cá nhân mà còn
là quan hệ giữa cá nhân với tập thể, với cộng đồng, giữa các thế hệ nối tiếp nhau trong
tiến trình lịch sử xã hội. Chính những mối quan hệ xã hội đa dạng đó mà toàn bộ đời
sống sinh hoạt cá nhân, kinh nghiệm sống và cách thức đối nhân xử thế của mỗi người
được định hình. Tất cả những đặc điểm tâm, sinh lý cùng với những biểu hiện các
quan hệ liên quan đến một con người, thể hiện bản chất riêng của họ, hợp thành nhân
6
thân của người đó.
Về nhân thân NPT, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau của các nhà khoa học,
điển hình như:
- Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Nhân thân người phạm tội là tổng thể tất
cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với điều kiện và
hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó”[43, tr.131].
- Theo GS.TS Đỗ Ngọc Quang thì:“Nhân thân người phạm tội là tổng hợp
những đặc điểm, những dấu hiệu, mối quan hệ xã hội về một con người chứa đựng
phẩm chất cá nhân tiêu cực trong nhân cách dẫn đến hành vi phạm tội”.
- Theo PGS.TS Kiều Đình Thụ thì:“Nhân thân người phạm tội là tổng hợp tất
cả những khía cạnh xã hội đặc trưng của người phạm tội tạo thành cá nhân, có ý
nghĩa giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự”.
- Theo PGS. TS Phạm Văn Tỉnh thì:“Nhân thân người phạm tội là tổng hòa
các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt của người phạm tội ở một địa bàn hành chính –
lãnh thổ nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm-sinh lý-xã
hội, nhân khẩu-nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, có giá
trị thiết thực cho việc xác định nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để có giải pháp
phòng ngừa tội phạm phù hợp” [27, Tr 212- 222].
Mặc dù còn có những cách hiểu khác nhau về nhân thân NPT nhưng qua
nghiên cứu, học viên nhận thấy rằng: Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đã thống nhất
chỉ ra những vấn đề cốt lõi của khái niệm nhân thân NPT đó là:
- Nhân thân NPTlà tổng hợp tất cả các yếu tố, đặc điểm đặc trưng của người
phạm tội. Đó là những yếu tố, đặc điểm về mặt tâm-sinh lý-xã hội, nhân khẩu-nhân
chủng học, dân tộc học và pháp lý...
- Những đặc điểm đó trong sự kết hợp với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài
dẫn đến hành vi phạm tội của người đó. Do đó, khi tác động vào các đặc điểm đó
trong mối quan hệ với sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài sẽ ngăn
chặn hành vi phạm tội, qua đó góp phần kéo giảm THTP trên thực tế.
Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra khái niệm nhân thân người phạm
7
tội như sau:
Nhân thân người phạm tội là tổng hòa tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa
về mặt xã hội, trong sự kết hợp với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến
hành vi phạm tội của người đó, có giá trị cho việc xác định nguyên nhân, điều kiện
của tội phạm để có giải pháp phòng ngừa tội phạm phù hợp.
Như vậy, có thể thấy rằng, khi đề cập đến nhân thân của NPTlà nói đến tổng
hòa các dấu hiệu, đặc điểm của cá nhân của con người thực hiện tội phạm. Đó là
những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người nói chung tham gia các
mối quan hệ xã hội, đồng thời còn chứa đựng những phẩm chất tiêu cực. Những phẩm
chất tiêu cực này được thể hiện trong một hệ thống những đặc điểm và dấu hiệu: đạo
đức, tâm lý, quan điểm, sự kích động, mục đích, động cơ, niềm tin, hy vọng, lý trí,
xúc cảm… Chính những phẩm chất tiêu cực này là tiền đề cho việc thực hiện tội phạm
của người phạm tội.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người phạm tội
Nhân thân NPT là vấn đề quan trọng được nhiều ngành khoa học xã hội như
khoa học về luật hình sự, luật tố tụng hình sự, khoa học về điều tra tội phạm, tâm lý
học tư pháp, tội phạm học... Mỗi ngành khoa học đều có mục đích, nhiệm vụ và phạm
vi nghiên cứu khác nhau, cho nên khi nghiên cứu về nhân thân NPTthì mỗi ngành
khoa học có mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu, hướng tiếp và ý nghĩa khác
nhau. Trong phạm vi Luận văn này, học viên xin đề cập đến các ý nghĩa sau:
- Nghiên cứu nhân thân NPT là nền tảng xác định nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm
GS.TS. Võ Khánh Vinh khẳng định “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cưc trong hình thái kinh tế
- xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của
minh” và “Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành một hệ
thống gồm nhiều bộ phận cấu thành nó” [43]. Theo đó, “không thể nhận thức, hiểu
biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân thân người
phạm tội” [44, tr. 127].
8
Khoa học Tội phạm học đã chỉ ra rằng: Nguyên nhân và điều kiện của THTP
có mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố chủ quan của NPT như: Các đặc điểm về
tâm, sinh lý, thói quen, sở thích... với các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài làm phát
sinh tội phạm. Trong đó, những yếu tố thuộc về mặt chủ quan bao gồm những lệch
lạc về nhu cầu và cách thức để thỏa mãn nhu cầu sẽ là động cơ thúc đẩy việc thực
hiện tội phạm. Yếu tố chủ quan khác đó là ý thức pháp luật kém, không tôn trọng
pháp luật, không thừa nhận giá trị xã hội đích thực của pháp luật, từ đó dẫn đến việc
thực hiện tội phạm. Mặt khách quan bên ngoài được hiểu là những hoàn cảnh, tình
huống thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm, có thể là hoàn cảnh kéo dài (hoàn cảnh
khó khăn của gia đình), hay một sự kiện có tính chất tạm thời, hay cử chỉ, hành vi của
chính nạn nhân gây ra. Các nguyên nhân và điều kiện đó trong sự tương tác qua lại
lẫn nhau đã tham gia vào quá trình hình thành các đặc điểm tâm lý, đạo đức của cá
nhân, quyết định động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm. Chính vì vậy nghiên
cứu nhân thân NPT sẽ cho thấy những điều kiện, hoàn cảnh tiêu cực từ môi trường
tác động như thế nào đến sự hình thành nhân cách, đạo đức, đến quá trình động cơ
hóa hành vi phạm tội đó chính là nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm.
- Nghiên cứu nhân thân NPT đảm bảo tính chính xác của hoạt động định tội,
định khung và quyết định hình phạt
Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh, nhân thân NPT được hiểu là “tổng thể tất cả
các đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội của người thực hiện tội phạm được cân nhắc
để giải quyết các vấn đề của trách nhiệm hình sự (cá thể hóa hình phạt, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn và giảm hình phạt” [44, Tr.194]. Những đặc điểm đó có thể là
tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thái độ làm việc, thái độ trong mối quan hệ với người
khác, trình hộ học vấn, hoàn cảnh gia đình, đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức
pháp luật, tôn giáo, tiền án, tiền sự...
Nhân thân của NPT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định trách
nhiệm hình sự của người phạm tội. Nhiều đặc điểm nhân thân NPT như phạm tội lần
đầu, có tiền án, tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp, phạm tội có tính côn đồ, hung hãn, là người chưa thành niên... có ảnh hưởng
9
đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật
hình sự. Trên cơ sở phân tích, làm rõ các đặc điểm nhân thân này, cho phép xác định
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để có thể quyết định được loại
hình phạt và mức hình phạt tương xứng. Đặc biệt khi áp dụng các chế định giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự như áp dụng hình phạt nhẹ hơn khung thấp nhất điều luật quy
định, quyết định cho hưởng án treo, miễn chấp hành hình phạt thì ngoài việc phân
tích các đặc điểm nhân thân được quy định trong bộ luật hình sự, để đảm bảo phát
huy tính hiệu quả cao của chế định này, đòi hỏi cần phải phân tích làm rõ nhiều đặc
điểm nhân thân khác của NPT như thói quen, khí chất, quan điểm sống, quan điểm
về đạo đức, những bệnh thần kinh, bệnh tâm thần, sự bất ổn về tâm lý, về tính cách,
phẩm chất... Tất cả những đặc điểm này cho phép suy đoán về khả năng tự cải tạo
của những người này để có thể áp dụng chế định vừa đảm bảo vừa phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vừa đảm bảo ngăn ngừa tái phạm cũng
như phù hợp với đặc điểm nhân thân của người phạm tội, với chính sách nhân đạo
của nhà nước.
- Nghiên cứu nhân thân NPT tạo cơ sở cho việc xây dựng, triển khai các biện
pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội
Quá trình giáo dục, cải tạo NPT là quá trình áp dụng các biện pháp cụ thể,
thông qua đó giúp những người đã thực hiện các hành vi phạm tội có thể loại bỏ được
những đặc điểm nhân thân xấu, những đặc điểm nhân thân có vai trò tác động thức
đẩy việc phát sinh ý định phạm tội, thúc đẩy việc thực hiện tội phạm. Đây là một quá
trình khó khăn, phức tạp, bởi nhiều đặc điểm nhân thân của con người được hình
thành trong quá trình lâu dài, trong những điều kiện, hoàn cảnh đặc thù và rất khó
thay đổi như: lòng thù hận, sự chống đối, sự bất cần, sự vô kỷ luật, tính ích kỷ, tính
côn đồ, sự hung hãn… Để làm thay đổi những đặc điểm nhân thân này đòi hỏi cần
phản phân tích kỹ các đặc điểm nhân thân của từ NPT, phải hiểu rõ quá trình hình
thành các đặc điểm nhân thân đó thì mới có thể đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm
tác động hiệu quả đến từng cá nhân để dần làm thay đổi các đặc điểm nhân thân của
họ. Nghiên cứu các đặc điểm nhân thân NPT sẽ góp phần quan trọng trong việc lựa
10
chọn các biện pháp giáo dục, cải tạo NPT một cách hiệu quả.
- Nghiên cứu nhân thân NPT có ý nghĩa quan trọng trong dự báo về tội phạm
và phòng ngừa tội phạm
Nghiên cứu nhân thân của NPT giúp hiểu rõ mức độ phổ biến, tính đa dạng
của các loại nhân thân NPT khác nhau, các đặc điểm nhân thân của nhiều tầng lớp
dân cư, khu vực lãnh thổ khác nhau trong mối liên hệ tác động qua lại giữa các thiết
chế trong hệ thống các quan hệ xã hội phức tạp, từ đó có thể phân loại tội phạm,
NPTtheo từng nhóm, từng loại có những đặc điểm nhân thân giống nhau và xác định
nguyên nhân, điều kiện của từng nhóm, loại tội phạm, của từng người phạm tội, để
phục vụ cho công tác phòng ngừa theo từng nhóm, loại tội phạm và NPT nhằm làm
kéo giảm tình trạng tội phạm trong xã hội.
Nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các đặc điểm nhân
thân xấu, tiêu cực, sai lệch của NPT sẽ giúp cho việc đề ra các giải pháp, biện pháp
phù hợp nhằm tác động loại bỏ dần dần các đặc điểm nhân thân xấu, tiêu cực, góp
phần hình thành các đặc điểm nhân thân tích cực, nhân thân tốt và qua đó làm chuyển
biến NPTtrở thành người có ích cho xã hội.
Từ những phân tích nêu trên, có thể kết luận rằng: Nghiên cứu nhân thân NPT
thực chất là nghiên cứu những nguyên nhân và điều kiện trong quá trình hình thành
các đặc điểm nhân thân tiêu cực, nhân thân xấu của NPT, từ đó đưa ra các giải pháp,
kiến nghị nhằm hạn chế và tiến tới đẩy lùi tội phạm, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội và phồn
vinh đất nước.
1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội
Trong Tội phạm học, các đặc điểm nhân thân NPT thường được chia thành:
đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu; đặc điểm về đạo đức - tâm lý và đặc điểm pháp
lý hình sự. Các nhóm đặc điểm này có mối quan hệ biện chứng với nhau, có sự tác
động qua lại, ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân thân của NPT, cụ thể như sau:
1.2.1. Nhóm đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu
Các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu của nhân thân NPT bao gồm: giới
11
tính, độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi cư trú… của
người phạm tội. Việc làm sáng tỏ những đặc điểm đó cho phép chúng ta biết được
một số mối liên hệ và sự phụ thuộc của chúng có ý nghĩa đối với việc phòng ngừa,
biết được tình huống và hoàn cảnh ảnh hưởng đến sự hình thành định hướng giá trị
không đúng đắn của NPT.
- Đặc điểm về giới tính: Khi nghiên cứu giới tính người phạm tội, tội phạm
học tập trung làm rõ tỷ trọng và mối tương quan giữa những NPTthuộc giới tính khác
nhau trong tổng số chung. Qua đó sẽ thấy được yếu tố giới tính có ảnh hưởng như thế
nào đến việc thực hiện tội phạm cũng như việc áp dụng các biện pháp giáo dục, cải
tạo và phòng ngừa tội phạm. Những kết quả nghiên cứu của các nhà Tội phạm học
cho thấy nam giới một số loại tội phạm chủ yếu chỉ do nam giới thực hiện, hoặc chỉ
do nữ giới thực hiện; nữ giới lại có nhiều thuận lợi khi thực hiện và che dấu tội phạm
hơn nam giới. Ngoài ra, trong thời gian gần đây với sự cởi mở của xã hội làm cho
LGBT1 xuất hiện càng nhiều và thực tế đã có một số trường hợp người LGBT thực
hiện tội phạm có hành vi và thủ đoạn phạm tội mang tính đặc thù như cố ý gây thương
tích, giết người do ghen tuông tình ái, xâm hại tình dục đối với trẻ em... Đây là những
vấn đề cần được chú ý trong thời gian tới để có biện pháp phòng ngừa phù hợp.
- Đặc điểm về độ tuổi: Trình độ học vấn là một trong những đặc điểm về mặt
xã hội – nhân khẩu của NPT có ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, đến hành vi ứng
xử của con người trong các mối quan hệ xã hội và trong quá trình thực hiện tội phạm.
Độ tuổi của NPT thường được chia làm nhiều nhóm với những đặc trưng riêng gắn
với tâm lý lứa tuổi. Đa số các quan điểm hiện nay chia người phạm tội theo lứa tuổi
ra làm bốn nhóm lứa tuổi sau: Nhóm từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi; nhóm từ đủ 18 đến
dưới 30 tuổi; nhóm từ đủ 30 đến dưới 45 tuổi; nhóm trên 45 tuổi với các đặc điểm
riêng như sau: Những người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi có đặc điểm tâm lý và nhận
thức chưa đầy đủ, còn thiếu kinh nghiệm trong xử lý tình huống trong cuộc sống, họ
là những người rất dễ bị dụ dỗ, lôi kéo và chịu ảnh hưởng nặng nhất của những yếu
LGBT hoặc là GLBT là tên viết tắt của Cộng đồng những người đồng tính luyến ái
nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến ái (Bisexual) và Hoán tính hay còn gọi
là Người chuyển giới (Transgender);
1
12
tố tiêu cực của môi trường sống bên ngoài. Những người trong độ tuổi từ 18 đến dưới
30 tuổi là những người đã hoàn thiện về mặt tâm sinh lý, tuy nhiên lứa tuổi này đang
trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp, tạo lập cuộc sống riêng nên sự diễn biến
tâm lý vô cùng phức tạp và cũng dễ bị ảnh hưởng của những yếu tố, hiện tượng tiêu
cực bên ngoài môi trường sống. Những người nằm trong nhóm tuổi từ đủ 30 đến dưới
45 tuổi là lứa tuổi đã hoàn toàn chín chắn về mặt suy nghĩ cũng như tâm sinh lý, cuộc
sống đã đi vào ổn định và đa số đã lập gia đình, làm cha, làm mẹ, nghề nghiệp của họ
đã được ổn định nên cũng ít chịu ảnh hưởng của những nhân tố tiêu cực từ cuộc sống
bên ngoài so với hai nhóm tuổi trước. Lứa tuổi trên 45 là độ tuổi đã có sức ỳ trong
suy nghĩ và hành động. Những người trong độ tuổi này thường an phận, chấp nhận
cuộc sống hiện tại, ngại thay đổi nhưng vô cùng tham vọng, nhưng diễn biến tâm lý
lại biến đổi theo chiều hướng tiêu cực như bảo thủ, chậm tiến ...
Với các đặc điểm riêng của từng lứa tuổi đó, Tội phạm học nghiên cứu tác
động của từng lứa tuổi trong việc hình thành các đặc điểm nhân thân xấu, có vai trò
quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội; làm rõ vai trò của độ tuổi trong việc lựa
chọn phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, khoa học Tội phạm
học cũng tiến hành nghiên cứu để xác định được hai vấn đề quan trọng đó là lứa tuổi
nào phạm tội nhiều nhất, lứa tuổi nào phạm một số tội chủ yếu, trong cơ chế hình
thành hành vi phạm tội giữa các lứa tuổi có gì khác nhau, vai trò của từng lứa tuổi ra
làm sao. Đây là cơ sở quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa
THTP cho toàn xã hội
- Đặc điểm về trình độ học vấn
Trình độ học vấn ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, đến hành vi ứng xử của
con người trong các mối quan hệ xã hội nói chung và hành vi phạm tội nói riêng. Tội
phạm học nghiên cứu làm rõ tỷ trọng, mối tương quan giữa những NPT có trình độ
học vấn khác nhau trong tổng số NPT, qua đó làm rõ ảnh hưởng của học vấn đến việc
thực hiện tội phạm, vai trò của nó trong giáo dục, cải tạo NPT. Căn cứ vào trình độ
học vấn, NPT có thể được chia thành 05 nhóm: Người không biết chữ; Người có trình
độ tiểu học; Người có trình độ trung học cơ sở; người có trình độ trung học phổ thông;
13
- Xem thêm -