Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn nhân vật trữ tình người phụ nữ trong ca dao việt nam...

Tài liệu Luận văn nhân vật trữ tình người phụ nữ trong ca dao việt nam

.PDF
62
123
89

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH NHÂN VẬT TRỮ TÌNH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI - 2018 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH NHÂN VẬT TRỮ TÌNH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ NGỌC LAN HÀ NỘI - 2018 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan - người đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn em trong thời gian thực hiện khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam, các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện tốt nhất để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Em xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Bích Hạnh LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là kết nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của cô Nguyễn Thị Ngọc Lan, không có sự trùng lặp với nghiên cứu nào trước đó. Số liệu khảo sát phục vụ cho việc triển khai khóa luận được lấy từ các nguồn tư liệu chính xác, tin cậy. Bên cạnh đó, khóa luận có kế thừa các số liệu của một số tác giả khác thuộc chuyên ngành. Việc sử dụng, trích dẫn đều ghi nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình. Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Bích Hạnh MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 2 3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4 6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 5 7. Bố cục khóa luận ......................................................................................... 5 NỘI DUNG....................................................................................................... 6 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 6 1.1. Nhân vật trữ tình ........................................................................................ 6 1.2. Nhân vật trữ tình trong ca dao.................................................................... 7 1.2.1. Hệ thống nhân vật ................................................................................. 7 1.2.2. Đặc điểm nhân vật trữ tình .................................................................. 10 1.3. Khảo sát nhân vật trữ tình người phụ nữ trong ca dao............................. 12 Tiểu kết:........................................................................................................... 16 Chương 2: NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO YÊU THƯƠNG TÌNH NGHĨA ........................................................................................................... 18 2.1. Nhân vật trữ tình - người con gái ............................................................. 18 2.1.1. Người con gái trong tình yêu đôi lứa ................................................. 18 2.1.2. Người con gái trong quan hệ gia đình, xã hội.................................... 21 2.2. Nhân vật trữ tình - người mẹ .................................................................... 25 2.3. Nhân vật trữ tình - người vợ .................................................................... 29 Tiểu kết:........................................................................................................... 32 Chương 3: NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CA DAO THAN THÂN ............. 33 3.1. Người con gái ........................................................................................... 33 3.1.1. Người con gái bị đối xử bất công ...................................................... 33 3.1.2. Người con gái bị ép duyên ................................................................. 36 3.1.3. Người con gái lấy chồng xa ............................................................... 38 3.2. Người con dâu .......................................................................................... 40 3.3. Người vợ .................................................................................................. 43 3.3.1. Người vợ trong cảnh chồng phụ bạc .................................................. 43 3.3.2. Người vợ trong cảnh chồng chung.................................................... 45 3.4. Người mẹ .................................................................................................. 47 3.4.1 .Người mẹ với những lo toan thường nhật.......................................... 47 3.4.2. Người mẹ với những bất hạnh trong cuộc sống hôn nhân ................. 49 Tiểu kết:........................................................................................................... 51 KẾT LUẬN .................................................................................................... 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Có thể ai đó không thể kể lại một truyền thuyết, một truyện cổ tích nhưng không thể không nhớ, không ngẫm ngợi hay ví von một lời ca dao. Dân tộc Việt Nam ta có vốn ca dao rất phong phú trong nền văn học dân gian. Ngay từ thuở còn nằm nôi trong tâm hồn của mỗi người đã được nghe những câu ca dao dân ca đầy sâu sắc và ngọt ngào qua những lời ru ầu ơ của những người phụ nữ trong gia đình như người bà, người mẹ đã khắc sâu vào tiềm thức mỗi đứa trẻ để rồi sau này lớn lên vẫn nhớ mãi không quên. Chính cái chất tình ấy của những lời ca dao ngọt ngào đã thể hiện tâm hồn, sự rung động của con người. Trở thành dòng sữa ngọt nuôi lớn tâm hồn mỗi con người Việt Nam qua bao thế hệ, không chỉ xưa mà còn đến mai sau. Phải chăng vì thế mà tâm hồn người Việt luôn biết hướng tới cội nguồn, biết yêu thương gắn bó với nhau như anh em một nhà “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Ca dao là một thể loại tiêu biểu của văn học dân gian, với một số lượng vô cùng phong phú. Nó như một dòng sông dài vô tận chảy qua các vùng miền khác nhau trên đất nước ta. Như đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã tâm sự rằng “thôn ca sơ học tang ma nữ” (ý là: câu hát thôn dã giúp ta biết những tiếng nói trong nghề dâu gai). Hay như “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu thì nói ca dao là “thơ của vạn nhà”. Ca dao có ý nghĩa và giá trị nhân văn sâu sắc. Nó được coi là “khí sắc dân tộc”, trở thành một tấm gương soi của tâm hồn dân tộc. Cái chất tình tứ trong lời ca dao đã thể hiện tâm hồn, tình cảm con người, vì vậy vấn đề nhân vật trữ tình là vấn đề rất đặc trưng và nổi bật của thể loại này. Từ trước tới nay chúng ta khi nghiên cứu đều quan tâm tới thể thơ, phương thức nghệ thuật, các yếu tố biểu tượng hay không gian thời gian hoặc có thể là quan tâm tới “nhân vật trữ tình trong ca dao”. Nhưng vẫn chưa chú ý được tới nhân vật 1 trữ tình là người phụ nữ trong ca dao Việt. Trước đây người ta có nghiên cứu về người phụ nữ thì cũng chỉ nghiên cứu những yếu tố riêng lẻ như “bi kịch người phụ nữ” hay “vẻ đẹp người phụ nữ trong ca dao cổ truyền” mà chưa chú trọng vào nhân vật trữ tình người phụ nữ trong ca dao. Vì vậy, việc chọn đề tài: “Nhân vật trữ tình người phụ nữ trong ca dao Việt Nam” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 2. Lịch sử vấn đề Từ lâu, các phương diện đặc sắc của ca dao đã được các nhà nghiên cứu quan tâm khai thác. Đặc biệt, cùng với các công trình nghiên cứu thi pháp ca dao với nhiều vấn đề về: nhân vật, kết cấu, biểu tượng,… đã được làm sáng tỏ. Về nhân vật người phụ nữ trong ca dao, đã có không ít luận văn, bài báo đề cập. Có thể điểm qua vấn đề này trong các nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Xuân Kính, Chu Xuân Diên, Bùi Mạnh Nhị, Phạm Thu Yến, Trần Thị An,… Năm 1957, khi đề cập tới hình tượng người phụ nữ trong ca dao trong “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” (đến năm 2018 tái bản nhiều lần), Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “trong cuộc đời người phụ nữ phải chịu nhiều nỗi khổ quá và chịu nhiều thiệt thòi quá. Mặc dù công sức đóng góp cho xã hội không thua kém gì đàn ông, nhưng thực tế người phụ nữ không có quyền lực gì” [13, 231]. Lí do đẩy người phụ nữ vào nỗi khổ là vì “chế độ hôn nhân đã xây dựng trên cơ sở kinh tế của xã hội cũ” [13, 231]. Ông còn nêu một số nhận xét về mặt nghệ thuật với các biểu tượng thể hiện người phụ nữ như: “những hình tượng ẩn dụ như hoa quả, con cò,... thường được sử dụng để ví, để làm rõ nỗi khổ và vẻ đẹp của người phụ nữ một cách hết sức tế nhị và kín đáo” [13, 254]. Năm 1973, trong cuốn giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam” Đinh Gia Khánh đã chỉ ra nhân vật chính trong ca dao dân ca trữ tình về sinh hoạt gia 2 đình là người phụ nữ lao động Việt Nam. Ý kiến của nhà nghiên cứu đã khẳng định sự hiện diện của kiểu nhân vật này trong thể loại. Năm 1978, trong cuốn “Nghiên cứu tiến trình lịch sử văn học dân gian Việt Nam”, nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị cho rằng: “hình tượng về phụ nữ trong ca dao thường bắt gặp ở hai dạng là bài ca dao về sinh hoạt gia đình và bài ca trữ tình về tình yêu - hôn nhân (bài ca giao duyên)” [10]. Bên cạnh những công trình tiêu biểu kể trên, đề cập đến hình tượng người phụ nữ trong ca dao, còn phải kể đến một số bài báo, khóa luận tốt nghiệp như: “Người phụ nữ trong sinh hoạt dân ca” của Nguyễn Thị Huế (1986), “Qua một bài ca dao, hiểu thêm về phẩm chất của người phụ nữ xưa” của Nguyễn Luân (1994),... Hay luận văn của Lưu Thị Nụ, khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội viết về đề tài “Người phụ nữ qua những hình ảnh so sánh trong ca dao Việt Nam” (1992) đã phân tích các biểu hiện về ngoại hình, tâm trạng, số phận,... của người phụ nữ được thể hiện qua nghệ thuật so sánh trong ca dao. Năm 1996, Triều Nguyên trong bài “Thử khảo sát một số bài ca dao có mô hình cấu trúc một, hai - mười - thương (yêu-lo...)” khi tìm hiểu về chủ thể trữ tình là nữ giới tác giả đã nhận xét về tình yêu của người phụ nữ với tâm trạng, cảm xúc khác nhau: “tình yêu của người phụ nữ được bộc lộ bằng sự quan tâm, lo lắng cho người bạn tình... Đối với người bạn tình, đàn ông chú ý đến cái đẹp bên ngoài, trong lúc phụ nữ lại quan tâm đến những khía cạnh thuộc về cuộc sống ...” [11, 43-47]. Phạm Thu Yến năm 1998 trong “Những thế giới nghệ thuật trong ca dao” đã đề cập đến số phận người phụ nữ ở hai khía cạnh giữa người phụ nữ qua ca dao truyền thống và người phụ nữ trong thơ hiện đại. Năm 2002, nhân vật trữ tình với những đặc điểm cụ thể đã được tác giả Trần Thanh Vân khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh 3 nhận diện và phân tích trong “Đặc điểm nhân vật trữ tình trong ca dao”. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình, tác giả chưa thực sự chú ý đến kiểu nhân vật trữ tình người phụ nữ. Từ thực tiễn nghiên cứu trên, có thể thấy vấn đề mà chúng tôi đang quan tâm, trước đó chưa được khai thác triệt để. Vì vậy, trên cơ sở gợi ý của những người đi trước, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nhân vật trữ tình người phụ nữ trong ca dao Việt Nam”. 3. Mục đích nghiên cứu - Nhận diện nhân vật trữ tình người phụ nữ trong các mối quan hệ gia đình, từ đó thấy được cảm hứng chủ đạo của nhân vật. - Giúp hiểu sâu sắc hơn một kiểu nhân vật đặc trưng của ca dao trữ tình. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nhân vật trữ tình người phụ nữ trong hệ thống ca dao yêu thương tình nghĩa và ca dao than thân - bộ phận nổi bật trong ca dao Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Tư liệu: Khóa luận được triển khai dựa trên nguồn tư liệu đã được công bố như “Kho tàng ca dao người Việt” (Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật); “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” (Vũ Ngọc Phan); “Ca dao dân ca Việt Nam chọn lọc” (Dương Phong),… - Nội dung: Khóa luận giới hạn nội dung nghiên cứu ở hình tượng nhân vật người phụ nữ trong ca dao yêu thương tình nghĩa và ca dao than thân của ca dao người Việt. 5. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình thực hiện các nội dung của khóa luận: - Phương pháp hệ thống 4 - Phương pháp so sánh - Phương pháp phân tích - tổng hợp 6. Đóng góp của khóa luận - Góp thêm một tiếng nói chứng minh sự đặc sắc của một phương diện thi pháp ca dao – Thi pháp nhân vật - Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu ca dao – một thể loại văn học dân gian giữ vị trí quan trọng trong khoa tàng văn học dân tộc. 7. Bố cục khóa luận Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Người phụ nữ trong ca dao yêu thương tình nghĩa Chương 3: Người phụ nữ trong ca dao than thân 5 NỘI DUNG Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Nhân vật trữ tình Có thể thấy, nhân vật có vai trò quan trọng trong tác phẩm văn học. Thông qua nhân vật giúp khái quát tính cách, hiện thực cuộc sống, thể hiện quan niệm về cuộc đời của nhà văn. Mà trong một tác phẩm trữ tình, toàn bộ chất liệu cuộc sống và thực tại đều thể hiện qua lăng kính cảm xúc và tâm trạng của chủ thể trữ tình. Trong đó nhân vật trữ tình chiếm một vai trò quan trọng trong tác phẩm trữ tình. Bởi khái niệm “thơ ca trữ tình” theo nghĩa mới là chỉ loại thơ ca biểu hiện cảm xúc tâm trạng. Vì vậy tác phẩm trữ tình thường phản ánh cảm xúc, tâm trạng, thế giới nội tâm con người với thực tại cuộc sống. Nên từ đó, nhân vật trữ tình chiếm vị trí không thể thiếu trong tác phẩm trữ tình. Nói đến nhân vật trữ tình đã có nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu. Trong đó nêu đầy đủ đặc điểm mang tính bản chất của nhân vật trữ tình và phổ biến là khái niệm trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” do Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi định nghĩa “là hình tượng nhà thơ trong thơ trữ tình, phương thức bộc lộ ý thức tác giả - Nhà thơ hiện ra từ văn bản của kết cấu trữ tình… như một con người có đường nét hay một vai sống động có số phận cá nhân xác định hay có thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi có cả nét chân dung… Đó là cái tôi được sáng tạo ra” [1,162]. Nhân vật là hình thức cơ bản để văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Nhân vật là yếu tố khái quát hiện thực đồng thời nó như phương tiện để tác giả thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người, phong cách sáng tác dưới một hình thức biểu hiện tương ứng. Trong cuốn “Lí luận văn học” của Phương Lựu nêu khái niệm nhân vật trữ tình như sau: “thông thường nội dung tác phẩm trữ tình được thể hiện gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình. Đó là hình tượng người trực tiếp thổ lộ 6 suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể như nhân vật tự sự và kịch. Nhưng nhân vật trữ tình cụ thể trong giọng điệu, cảm xúc, trong cách cảm cách nghĩ. Qua những trang thơ ta như gặp tâm hồn người, tấm lòng người. Đó chính là nhân vật trữ tình” [9,359]. Xem nhân vật trữ tình là “cái tôi” đã được sáng tạo ra, không nên đồng nhất giản đơn nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình bởi trong thơ trữ tình nhà thơ xuất hiện như “người đại diện cho xã hội, thời đại và nhân loại” (Bê-linxki) nhà thơ tự nâng lên trên đời thường cá biệt. Nhân vật trữ tình chính là nhân vật được tác giả tái hiện qua một số sự kiện nhất định, qua những cảm xúc và suy tưởng của chủ thể sáng tác. Nhân vật trữ tình bộc lộ chủ yếu qua yếu tố tâm trạng, cảm xúc mang đặc điểm của lịch sử và thời đại. Trong đó, ca dao thuộc thể loại trữ tình của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Đây là thể loại thơ ca trữ tình dân gian. Để hiểu rõ một bài ca dao hay tác phẩm thơ trữ tình nào đó thì ta cần phải chú trọng tìm hiểu và phân tích về nhân vật trữ tình. Việc phản ánh hiện thực cuộc sống, thực tại đều qua lăng kính của nhân vật trữ tình thể hiện cảm xúc tâm trạng. Như vậy, nhìn chung nhân vật trữ tình là yếu tố quan trọng trực tiếp bộc lộ tâm trạng, suy nghĩ, cảm xúc trong một tác phẩm văn học. Nhân vật trữ tình có thể không có hình dáng, giọng nói, hành động cụ thể nhưng qua giọng điệu, cảm xúc, ý nghĩ ta có thể nhận ra được hình tượng nhân vật, đồng thời qua đó phản ánh được hiện thực cuộc sống, ý nghĩa xuyên suốt trong tác phẩm. 1.2. Nhân vật trữ tình trong ca dao 1.2.1. Hệ thống nhân vật Theo giáo trình của Đỗ Bình Trị “Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian” đã nêu: “Trong ca dao truyền thống, chủ thể trữ tình (tức tác giả) luôn luôn đồng nhất với nhân vật trữ tình (tức là nhân vật mà 7 cảm nghĩ của nó được diễn tả trong bài ca dao) và nhân vật ấy chỉ có một số kiểu nhất định, tương tự như trong truyện cổ tích hoặc trên sân khấu trèo cổ. So với hàng chục ngàn câu (bài) ca dao còn được truyền lại thì số lượng nhân vật trữ tình trong ca dao quả là ít ỏi” [17,196-197]. Nhân vật trữ tình trong ca dao có một số kiểu nhất định như sau: a) Cô gái và chàng trai trong quan hệ bạn bè, lứa đôi. Đó là một cô gái với thứ tình yêu trong trắng mới chớm nở ở cõi lòng đôi lứa thanh niên, ca dao có câu: “Đôi ta như lửa mới nhen, Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.” [5,47] b) Người vợ, người chồng, người mẹ, người con,... trong đời sống gia đình. Người con gái, con dâu, người vợ trong gia đình gia trưởng. Dưới đây là lời hát ru của người bà đối với cháu làm toát lên nỗi vất vả của người mẹ trẻ với sự gian truân vì công việc: “Cái ngủ mày ngủ cho lâu Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về. Cái ngủ mày ngủ cho say Mẹ mày vất vả chân tay tối ngày.” [6, 157] Như trong hai câu thơ dưới đây nằm trong hệ thống những câu ca dao có cùng cấu trúc – chủ đề ca ngợi công ơn cha mẹ. Công lao của cha mẹ thường được ví von với những biểu tượng tự nhiên lớn lao kì vĩ. Sự so sánh ấy làm nổi bật công lao trời biển của cha mẹ. “Công cha như núi thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra...” [2,43] Hay tình cảm sung sướng giản dị nhưng lại rất yêu thương nhau của đôi vợ chồng trẻ nơi nông thôn. Dù không sống trong cảnh giàu có lụa là, gấm vóc nhưng tình cảm hai người vẫn bình dị, hạnh phúc: 8 “Đôi ta lấm tấm hoa nhài, Chồng đây, vợ đấy kém ai trên đời. Muốn cho gần chợ ta chơi, Gần sông tắm mát, gần nơi đi về.” [4,48] c) Người lính và người vợ lính trong cảnh ngộ li biệt và xa cách hay lời than thở của người vợ có chồng đi lính được viết trong các bài ca dao trữ tình thời phong kiến của người Việt. Dưới đây là lời than thở cả người vợ và người lính, dù đây không phải là người lính chống giặc ngoại xâm thời Trần, Lê hay Quang Trung mà chủ yếu là những “lính thứ” trong thời phong kiến suy tàn thời Lê Mạt, Nguyên Sơ: “Kìa ai tiếng khóc nỉ non Ấy vợ anh lính trèo hòn đèo Ngang Chém cha lũ giặc chết hoang Để cho thiếp phải gánh lương theo chồng Gánh qua xứ Bắc xứ Đông Hết gánh cho chồng, lại gánh cho con.” [6,170-171] d) Cùng với đó là hình tượng người lao động như: người làm ruộng, người trồng dâu, người dân chài cá, ngời thợ rèn,... trong tất cả các mối quan hệ lao động, sinh hoạt và quan hệ với xóm làng, quê hương, đất nước,... “Ùm ùm tát nước gầu giai, Ruộng cao ta lại tát hai gầu sòng. Bà con trong xóm đổi công. Đêm đêm tát nước ngoài đồng vui ghê. Hôm qua cây lúa còn se. Ngày mai, nước chảy tràn về, lúa tươi. Cho hay muôn sự tại người, Người mà quyết chí thì trời cũng thua.” [12, 348] 9 Cảm xúc, tâm tình của nhân vật trữ tình, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh diễn xướng được bộc lộ bằng nhiều giọng điệu giận hờn, trách móc, u sầu, thương nhớ, vui tươi. 1.2.2. Đặc điểm nhân vật trữ tình Trong ca dao “nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình đồng nhất và thường là phi cá thể hóa. Sự các thể hóa không phát triển trong văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng. Diện mạo của các nhân vật trữ tình trong ca dao là cái chung. Do đặc điểm này, đồng thời do những đặc điểm Folklore về nguyên tắc điển hình hóa, tất cả các nhân vật trong văn học dân gian nói chung, ca dao nói riêng đều có tính tổng quát, khái quát rộng rãi” [10]. Như ở lời ca diễn tả tâm trạng của những người phụ nữ lấy chồng xa quê, chúng ta thường bắt gặp một chân dung tinh thần gắn tâm trạng của mình với “chiều chiều”, “ngõ sau”, “heo hút” hay “bến sông”, “cái cầu” với nỗi đau “chín chiều”, “bâng khuâng”... Tất cả các chi tiết ấy đều tiêu biểu cho những người có chung cảnh ngộ tâm trạng xa quê, nhớ nhà, nhớ cha mẹ. Dưới đây là câu thơ tiêu biểu cho nỗi nhớ này mà ai khi rơi vào cảnh ngộ này đều thấy cảm xúc mình trong đó: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.” [14,45] Như ta thấy thông qua nhân vật trữ tình trong ca dao, nhân dân muốn diễn tả hay phản ánh những nét đặc trưng gắn với con người trong thời đại ấy một cách rõ nét. Những nét đặc trưng này thể hiện một cách tập trung ở cảm hứng trữ tình chủ đạo trong ca dao. Dù người đó là nam hay nữ, vợ hay chồng, người làm ruộng hay đánh chài cá khi có tâm trạng buồn, cô đơn, thấy sự bất hạnh của kiếp người thì đều có thể cất lên được bài ca than thân. Còn nêu cảm nghĩ về những người mình yêu mến, nhớ về những nơi thân thuộc yêu thương thì sẽ cất lên thành các bài ca yêu thương tình nghĩa về tình bạn 10 bè, tình yêu quê hương đất nước... Khi nói đến ca dao là nói đến các bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt nhân vật trữ tình với nhân vật trong ca dao trữ tình. Nhân vật trong ca dao trữ tình là đối tượng để tác giả dân gian (cũng tức là nhân vật trữ tình, như xác định ở phần trên) gửi gắm tình cảm, là nguyên nhân trực tiếp khơi dậy tình cảm, tự sự của tác giả. Có trường hợp nhân vật trữ tình và nhân vật trong ca dao là một. Ví dụ: “Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.” [14, 203] “Thân em như ớt chín cây Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng.” [14, 203] Trong hai bài ca trên là bài ca dao chỉ có nhân vật trữ tình. Nhưng nhân vật trong ca dao trữ tình không phải lúc nào cũng đồng nhất với nhân vật trữ tình: “Con cò lặn lội bờ ao Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng? Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa. Ngày thì ước những ngày mưa, Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.” [11] Trong bài ca dao trên có hai nhân vật là “cô yếm đào” và “chú tôi”. Trong đó “cô yếm đào” chỉ cô gái đẹp người, đẹp nết sẽ xứng đáng với người chồng tốt, còn nhân vật “chú tôi” thì đủ tật xấu “hay tửu, hay tăm” là người lười biếng. Bên cạnh hai nhân vật này cò nhân vật nữa đó là nhân vật “tôi”, đây mới chính là nhân vật trữ tình trong bài ca. Nhân vật này kể về “chú tôi” để phê phán những người giống như vậy, còn nhân vật trữ tình là hiện thân của tác giả (chỉ tác giả dân gian). 11 Người ta nói rằng ca dao là tấm gương trung thực và nó phản ánh rõ nhất về cuộc sống muôn màu của nhân dân lao động. Trong đó ca dao trữ tình được coi là một thiên tình ca muôn điệu và tiêu biểu trong đó là hệ thống nhân vật trữ tình. Vì lẽ đó mà khi những câu ca dao được ra đời và truyền đi trong cộng đồng, sáng tác của cá nhân thành sáng tác chung của cả cộng đồng của tất cả những người có chung ước mơ, tình cảm. Qua ca dao ta cảm nhận được sâu sắc nhịp trái tim yêu thương cả người bình dân với tất cả sự ấm áp, ngọt ngào cùng tình yêu thương, lòng lạc quan, nghị lực ý chí phi thường vượt lên mọi khổ cực của cộc sống. 1.3. Khảo sát nhân vật trữ tình người phụ nữ trong ca dao Trong “Kho tàng ca dao người Việt” của Nguyễn Xuân Kính gồm 4 quyển có tổng 11.001 lời ca dao, trong đó số lượng hệ thống người phụ nữ trong ca dao chiếm số lượng lớn. Dưới đây là kết quả khảo sát số lượng nhân vật nữ trong ca dao theo các chủ đề lấy tư liệu trong “Kho tàng ca dao người Việt”. Bảng 1.1 Thống kê số lượng nhân vật nữ trong ca dao Việt STT Chủ đề 1 Đất nước và lịch sử 2 Số lượng Phần trăm 38/11.001 lời ca 0,3% Quan hệ gia đình, xã hội 2057/11.001 lời ca 18,7% 3 Tình yêu đôi lứa 666/11.001 lời ca 6,05% 4 Tín ngưỡng tôn giáo 6/11.001 lời ca 0,05% 5 Sinh hoạt, văn hóa văn nghệ 24/11.001 lời ca 0,2% 6 Những câu bông đùa giải trí 29/11.001 lời ca 0,26% 7 Những nỗi khổ, sống lầm than 108/11.001 lời ca 1% 8 Thói hư tật xấu,tệ nạn xã hội 111/11.001 lời ca 1,01% 9 Kinh nghiệm sống và hành động 1/11.001 lời ca 0,01% 12 Như vậy, theo bảng thống kê trên ta thấy số lượng người phụ nữ trong ca dao chiếm số lượng lớn và hầu hết có mặt ở mọi chủ đề. Trong đó số lượng người phụ nữ trong quan hệ gia đình, xã hội chiếm số lượng lớn nhất: 18,7%. Nhân vật trữ tình người phụ nữ trong ca dao được chú trọng miêu tả ở cả hai phương diện hình thức và nội dung. Rất nhiều lời ca dao đã miêu tả sinh động vẻ đẹp thể chất, ngoại hình của người phụ nữ như: hàm răng, mái tóc, làn da, đôi mắt,… Người con trai đã không ngại ngần khi cất lời ca ngợi vẻ đẹp của người con gái: “Cổ tay em trắng như ngà, Con mắt em liếc như là dao cau. Miệng cười như thể hoa ngâu, Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.” [6,109] Vẻ đẹp ấy hiện lên thật đáng yêu qua lời miêu tả giản dị, mộc mạc mà không kém phần tinh tế. Đặc biệt là nụ cười duyên với hàm răng đen nhuộm trầu được xem là nét duyên dáng đặc trưng của các cô gái nông thôn xưa. Hình ảnh hàm răng xuất hiện nhiều trong ca dao gắn với nụ cười nhiều như: răng đen, răng hạt na, răng đen nhưng nhức, răng đen nhấp nhánh, răng lổ đổ hạt cườm,… thể hiện cho vẻ đẹp của người phụ nữ khỏe mạnh, duyên dáng. “Năm quan mua lấy miệng cười, Mười quan chẳng tiếc tiếc người răng đen. Răng đen ai nhuộm cho mình, Cho răng mình đẹp cho tình anh say.” [19,236] “Người bao nhiêu tuổi hỡi người Người bao nhiêu tuổi miệng cười nở hoa.” [8,2109] 13 Nụ cười duyên dáng luôn là thiện cảm đối với mọi người, bởi vậy miệng cười như búp bông sen hồng và như mặt trời mới lên đầy rạng rỡ và tinh khiết nhất, trong sạch nhất. Không chỉ đề cao vẻ đẹp về thể chất, ngoại hình mà nét đẹp về phẩm chất cũng vô cùng quan trọng. Tục ngữ có câu “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” cho thấy người Việt rất coi trọng tính cách, phẩm chất. Trong ca dao, vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ cũng được đề cập ở nhiều khía cạnh. Người con gái Việt vốn có tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ. Vì vậy người con gái luôn làm theo lời dạy của cha mẹ: “Nửa đêm ra đứng giữa trời Cầm tờ giấy bạch chờ lời mẹ răn.” [7,688] Người con gái biết được công lao nuôi dưỡng, dạy bảo của cha mẹ như trời biển vì vậy người con gái có hiếu sẽ luôn lo lắng, yêu thương cha mẹ, biết giữ đạo làm con với mong muốn được đền đáp công ơn cha mẹ: “Ơn cha nặng lắm ai ơi Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.” [16,2051] “Mẹ cha là biển là trời Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha.” [7,587] Người phụ nữ luôn hết lòng phụng dưỡng cha mẹ khi còn sống ở bên cha mẹ: “Cau non khéo bổ cũng đầy Trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm.” [15,487] Khi đã lấy chồng lập gia đình thì người phụ nữ có phẩm chất chung thủy, đảm đang hết lòng vì chồng: “Đò này thiếp chẳng dám sang Đầy vơi thiếp cũng chờ chàng chàng ơi.” 14 [18,610]
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan