Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở tp. cần thơ hiện nay...

Tài liệu Luận văn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở tp. cần thơ hiện nay

.PDF
86
733
74

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI -------- NGUYỄN THÀNH ĐÔ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60 22 03 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI -------- NGUYỄN THÀNH ĐÔ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60 22 03 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ NGỌC TRIẾT HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi! Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng; những kết luận mới trong khoa học trong luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình nào, nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Cần Thơ, tháng 5 năm 2017 Tác giả luận văn Nguyễn Thành Đô LỜI CẢM ƠN Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới Tiến sĩ Lê Ngọc Triết, người đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn em trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình. Em cũng xin gửi lời chân thành đến Quý thầy cô Phòng Sau Đại học, Khoa Triết học - Trường Đại học sư phạm Hà Nội và các Quý thầy cô thỉnh giảng đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, thực hiện đề tài. Cũng xin gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình, tất cả bạn bè, đồng nghiệp, đã luôn quan tâm, khích lệ và chia sẻ với em trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu. Cần Thơ, tháng 5 năm 2017 Tác giả luận văn Nguyễn Thành Đô MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1 Một số khái niệm cơ bản 7 7 7 1.1.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao 14 1.2. Tính tất yếu của việc phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay 23 1.2.1. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để hội nhập quốc tế 23 1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực phát triển kinh tế - xã hội 24 1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay Kết luận chƣơng 1 26 34 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY 35 2.1. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay 35 2.1.1. Thành tựu và nguyên nhân của những thành tựu trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay 35 2.1.2. Một số hạn chế và nguyên nhân trong công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của Thành phố Cần Thơ 52 2.2. Quan điểm chỉ đạo và những giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao ở Thành phố Cần Thơ hiện nay 56 2.2.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Cần Thơ về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao 56 2.2.2. Những giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ 59 Kết luận chƣơng 2 69 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong lịch sử của sự phát triển văn minh văn hóa nhân loại, vấn đề con người và tương lai của con người luôn giữ vị trí trung tâm và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau, đặc biệt là khoa học xã hội nhân văn, nhưng chỉ có triết học mới nhận thức con người một cách toàn diện trong tính chỉnh thể của nó. Tư tưởng về con người của triết học Mác - Lênin được hình thành trên cơ sở kế thừa biện chứng những tư tưởng tiến bộ của nhân loại. Từ đó, triết học Mác - Lênin đã khẳng định vai trò cải tạo thế giới, làm nên lịch sử của con người. Trong tư tưởng khoa học và cách mạng ấy, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển của lịch sử. Bản chất nhân đạo, mục tiêu cao cả, thước đo nhân văn của sự phát triển xã hội là phát triển con người. Trên bình diện thực tiễn, lợi thế so sánh sự phát triển của một quốc gia đang chuyển nhanh dần từ yếu tố giàu tài nguyên, tiền vốn, giá nhân công rẻ sang lợi thế về trình độ trí tuệ, chuyên môn cao của người lao động. Nguồn nhân lực trở thành tài sản quý giá và là yếu tố có vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mọi quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này được minh chứng qua sự thành công của mô hình tăng trưởng kinh tế của Nhật, Singapore và một số nước khác. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến sự phát triển và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực ở tất cả các cấp, các ngành và vùng miền của đất nước để phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước trong thời gian tới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và tại các Hội nghị Trung ương của mình, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững… Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện 2 đời sống nhân dân; phát triển văn hóa, giáo dục. Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và đồng bộ; kết hợp đào tạo kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp với bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức nhằm hình thành một đội ngũ lao động giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; có tác phong công nghiệp, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cáo; có ý thức phấn đấu vì sự phồn vinh của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Chỉ những con người như vậy mới đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong xu thế đổi mới đất nước, thành phố Cần Thơ tuy có điều kiện tự nhiên và con người có nhiều tiềm năng thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, song cũng có không ít những khó khăn trên bước đường phát triển. Vấn đề đặt ra là thành phố phải có chủ trương chính sách phù hợp, nhằm phát huy cao độ nguồn lực con người để thực hiện thắng lợi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Cần Thơ phấn đấu trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020. Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của nhân tố con người trong quá trình phát triển đất nước nói chung cũng như ở thành phố Cần Thơ nói riêng, trên cơ sở nhận thức sâu sắc lý luận của chủ nghĩa Mác - LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay” để làm luận văn tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu - Nhóm đề tài nghiên cứu về con người Con người là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội và là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Vấn đề con người được nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như: N.M.Beredơnôi, “Vấn đề con người trong các tác phẩm của C.Mác”. D.M.Kakabátde, “Con người với tư cách một vấn đề triết học”. 3 Viện Triết học Việt Nam, (1978), “Về vấn đề con người và xây dựng con người mới”, Giáo sư Phạm Như Cương chủ biên. Công trình khoa học cấp nhà nước KX-07, (1991 - 1995), “Con người Việt Nam- mục tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội”, GS-TS. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm. Phạm Minh Hạc, (2001), "Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vũ Trọng Dung (2011), "Khái niệm nguồn lực con người”, Tạp chí giáo dục lý luận, số 1. Những công trình nghiên cứu trên tập trung khai thác vấn đề con người theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin và con người Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội một cách tổng thể ở nhiều góc độ, nhưng chưa làm rõ vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao và do nguyên nhân khách quan nên không thể cập nhật những thông tin về nguồn nhân lực hiện nay.  Nhóm đề tài nghiên cứu về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao Nguồn nhân lực là một yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng l;à nguồn lực quan trọng nhất và quyết định cho sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghiên cứu sâu về vấn đề này, đã có nhiều công trình của nhiều tác giả như: Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đoàn Văn Khái (1995), Nguồn lực con người, yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Nxb. Giáo dục. Các tác phẩm của tác giả Phạm Minh Hạc như “Văn hóa và giáo dục Giáo dục và văn hóa”, Nxb Giáo dục, (năm 2001), “Nghiên cứu con người và 4 nguồn nhân lực”, Nxb Chính trị quốc gia (2004), “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực”, Nxb Khoa học xã hội, (2004). Đường Vinh Sường, (12/4/2012), “Giáo dục đào tạo với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản. Những đề tài nghiên cứu trên đã đưa ra những phân tích, luận giải về vấn đề nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời cũng đưa ra một số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của các công trình trên là trên phạm vi toàn quốc, mang tính khái quát chung của các tỉnh, thành trên cả nước.  Nhóm đề tài nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Cần Thơ hiện nay Nghiên cứu về vấn đề nhân lực ở thành phố Cần Thơ, hai đề tài của tác giả Nguyễn Tấn Quyên là “Thành phố Cần Thơ trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa” và “Xây dựng thành phố Cần Thơ thành thành phố cấp quốc gia văn minh, hiện đại” đã nêu lên những nguồn lực trong quá trình phát triển thành phố Cần Thơ trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó chú trọng vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước nói chung và của thành phố Cần Thơ nói riêng. Bên cạnh đó, các báo cáo tổng kết về tình hình lao động việc làm, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động,… của các ban ngành địa phương cũng cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề nguồn nhân lực ở thành phố Cần Thơ hiện nay. Thông qua việc chọn lọc và kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, luận văn của tôi nghiên cứu, làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay và phân tích những phương hướng đã được đề ra, từ đó đề xuất một số giải pháp cho vấn đề trên. 5 3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay. - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay. 4. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay. 5. Giả thuyết khoa học Đề tài nghiên cứu này nhằm chứng minh những giả thuyết khoa học sau: - Nguồn nhân lực với 3 yếu tố quan trọng nhất là trí lực, thể lực và nhân cách giữ vai trò quyết định sự vận động và phát triển của xã hội. - Các yếu tố tác động đến sự phát triển nguồn nhân lực như: trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, trình độ phát triển khoa học, công nghệ, kế hoạch phát triển dân số, trình độ phát triển y tế và dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chính sách vĩ mô của nhà nước,… có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, tạo thành động lực và thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Phân tích lý luận về nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay. - Khảo sát thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay. - Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay. 6 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chủ yếu là ở thành phố Cần Thơ. Trong đó, việc khảo sát thực trạng để nhận thức những thành tựu, những hạn chế việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ được tập trung giai đoạn 2010 - 2016. 8. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú ý các phương pháp: Phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, gắn với lý luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra. 9. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2 chương, 4 tiết. 10. Các luận điểm cơ bản và đóng góp mới 10.1. Các luận điểm cơ bản - Cần Thơ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng thực tiễn cho thấy lực lượng này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố hiện nay. - Thành phố Cần Thơ cần kết hợp và vận dụng linh hoạt những giải pháp phù hợp như: Đẩy mạnh phát triển kinh tế; Đổi mới giáo dục; Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực; Nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng nguồn nhân lực thì sẽ đạt được hiệu quả cao trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay. 10.2. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài - Về lý luận: Làm sâu sắc thêm lý luận về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao. - Về thực tiễn: Làm tài liệu tham khảo, nâng cao hiểu biết về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là ở thành phố Cần Thơ hiện nay. 7 Chƣơng 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản Khái niệm nguồn nhân lực Nguồn lực con người hay nguồn nhân lực là một khái niệm được hình thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét nhân tố con người với tư cách là nguồn lực cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia vào quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội, nhưng mức độ tác động và vai trò của chúng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội không giống nhau. Trong tất cả các nguồn lực thì nguồn lực con người là quan trọng nhất vì nó tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Bởi vì phải thông qua hoạt động của con người thì các nguồn lực khác mới có thể phát huy được tác dụng, mới có thể biến tiềm năng thành hiện thực. Chính con người đã phát hiện và sáng tạo ra những nguồn lực mới, phát triển và phát huy ra nguồn lực tinh thần và sử dụng nó để phục vụ con người. Hiện nay, khi nói về khái niệm nguồn nhân lực (nguồn lực con người) thì có nhiều quan niệm khác nhau: Theo lý luận Mác- Lênin về con người, thì nguồn nhân lực được xem xét như một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, là phương tiện để phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được coi như nhu cầu tất yếu cùng với các nguồn lực khác cho sự phát triển đất nước. Đầu tư cho con người càng nhiều, càng có hiệu quả và thu hồi vốn khá cao so với đầu tư vào các lĩnh vực khác, cho nên hầu hết các nước trên thế giới đều chú trọng áp dụng phương pháp này để phát triển kinh tế - xã hội. 8 Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu khái niệm nguồn lực con người hay nguồn nhân lực như sau: “Nguồn lực con người là người lao động có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến, gắn liền với nền khoa học, công nghệ hiện đại” [34, tr.09]. Theo tổ chức Ngân hàng thế giới (World Bank) cho rằng: “Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ tiềm năng về vốn người bao gồm: thể lực, trí lực, tâm lực mà mỗi cá nhân sở hữu” [47, tr.231]. Tổ chức Liên hiệp quốc (UNESCO) thì cho rằng: “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và đất nước” [47, tr.08]. Ở nước ta khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng tương đối rộng rãi. Tuy nhiên, trong Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng như các Từ điển Tiếng Việt chưa thấy đưa ra định nghĩa “Nguồn lực con người”. Dù vậy, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau khi bàn về nguồn nhân lực , về nguồn nhân lực. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội quan niệm: Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kì xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế- xã hội. Theo quan điểm này, nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế - xã hội. Trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học - công nghệ các tỉnh, thành phố phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định: “Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta” [41, tr.37]. 9 Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn lực con người được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [42, tr.328]. Giáo sư Tiến sĩ Lê Du Phong cho rằng: “Nguồn lực con người được hiểu là tổng hòa trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người” [28, tr.14]. Phó Giáo sư Tiến sĩ Đoàn Văn Khái cho rằng: “Nguồn nhân lực là khái niệm dùng chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả các đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội” [40, tr.62]. Như vậy ta thấy, do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên đã có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Tuy nhiên, cho dù có quan niệm khác nhau, song giữa các quan niệm này cũng có điểm chung thống nhất đó là: hầu hết các tác giả đều xem Nguồn nhân lực là tổng thể những tiềm năng và năng lực của con người được huy động vào trong quá trình lao động sản xuất và phát triển của một quốc gia hay một địa phương. Khi xem xét cấu trúc nguồn nhân lực trước hết phải tính đến phương diện cá thể của nó gồm 3 yếu tố: thể lực, trí tuệ và nhân cách. Ba yếu tố này cấu thành chất lượng cá thể của nguồn nhân lực và nó ảnh hưởng đến chất lượng phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, trí lực thể hiện ở trình độ dân trí, trình độ chuyên môn là yếu tố trí tuệ, tinh thần là cái nói lên tiềm lực sáng tạo ra các giá trị vật chất, văn hóa tinh thần của con người, vì thế, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực. Sau trí lực là thể lực hay thể chất, bao gồm không chỉ có sức mạnh cơ bắp, mà còn là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, bắp thịt là sức mạnh niềm tin và ý chí là khả năng vận động của trí lực. Thể lực là điều kiện tiên quyết 10 để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để truyền tải tri thức vào hoạt động thực tiễn để biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Do đó, sức mạnh trí tuệ chỉ có thể được phát huy được lợi thế khi thể lực con người được phát triển. Nói cách khác, trí tuệ là tài sản quý nhất trong mọi tài sản nhưng chính sức khỏe là một tiền đề để làm ra tài sản đó. Ngoài ra, nói đến nguồn nhân lực không thể không nói đến nhân cách, thẩm mỹ, quan điểm sống. Đó là sự thể hiện nét văn hóa của người lao động, được kết tinh từ một loạt các giá trị đạo đức, tác phong, tính tự chủ và năng động, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong công việc, khả năng hội nhập với môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc và các tri thức khác về giá trị của cuộc sống. Trong mối quan hệ với các yếu tố khác cấu thành nguồn nhân lực, trình độ phát triển nguồn nhân lực, đạo đức đóng vai trò quan trọng vì nó đem lại cho con người khả năng thực hiện tốt hơn các chức năng xã hội và nâng cao năng lực sang tạo của họ trong hoạt động thực tiễn. Và như Hồ Chí Minh đã nói: Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, nhưng có tài mà không có đức là người vô dụng. Bởi vì sẽ không đầy đủ khi nói đến nguồn nhân lực mà không đề cập đến sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố: trí lực, thể lực và nhân cách thẩm mỹ. Vì nó là điều kiện tạo nên sức mạnh trong mỗi con người, cộng đồng và cũng là hướng để người lao động đến sự phát triển toàn diện. Đây là nguồn nội lực cực kì quan trọng của mỗi quốc gia để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước; cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội là đội ngũ những người lao động biết làm chủ và sáng tạo khoa học - công nghệ. Do đó, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là tăng cường các yếu tố cấu thành và khả năng của năng lực thể chất và tinh thần đó trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội, đặc biệt là năng lực tinh thần, trí tuệ của nguồn nhân lực. Dựa theo những quan niệm nêu trên và gắn với góc độ nghiên cứu của đề tài, có thể hiểu: Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động xã hội của 11 một quốc gia, một địa phương với những năng lực thể chất, tinh thần, trình độ tri thức, năng lực thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác phong lao động... đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia. Trong thời đại tiến bộ kỹ thuật, một nước cần và có thể đưa chất lượng nguồn nhân lực vượt trước trình độ phát triển của cơ sở vật chất trong nước để sẵn sàng đón nhận tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, hòa nhập với trình độ phát triển của nhân loại. - Quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao C.Mác và V.I.Lênin mặc dù không đưa ra định nghĩa về nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng đã nêu ra những quan niệm có liên quan đến nguồn nhân lực chất lượng cao. Để nhấn mạnh đến tính hiệu quả và năng lực ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, C.Mác đề cập đến "những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn” [15, tr.474], hay đưa ra quan niệm nhân tài để chỉ nguồn nhân lực chất lượng cao “nhân tài tuyệt nhiên không phải chỉ là một số ít, những nhân vật nhân tài, nhân vật vĩ đại mà các nhân tài chuyên môn và công nhân, nông dân tiên tiến đều là nhân tài” [15, tr.28]. V.I.Lênin quan niệm rằng: Lực lượng nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao là giai cấp công nhân, đó là “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại” [17, tr.430]. Họ là những người có trình độ lao động cao, có tính kỷ luật, tinh thần tự giác và mang lại năng suất lao động cao. Trong Từ điển Tiếng Việt cũng như từ điển Bách khoa Việt Nam hay các từ điển khác, cho đến nay vẫn chưa thấy đề cập đến thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao, mặc dù trong thực tế thuật ngữ này đã được sử dụng khá phổ biến, rộng rãi. Ở Việt Nam, thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao chính thức được nêu ra trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X: “Thông qua việc đổi mới toàn 12 diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” [37, tr.34], có thể nói đây là lần đầu tiên thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao đã xuất hiện trong Văn kiện của Đảng. Điều này thể hiện sự phát triển trong nhận thức của Đảng mới về chiến lược phát triển con người, đồng thời cũng là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một khái niệm thống nhất và những tiêu chí cơ bản để xác định thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong những giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội thì có những quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực chất lượng cao. Đề cập đến nguồn nhân lực chất lượng cao, C.Mác nêu quan niệm nhân tài. Theo C. Mác: nhân tài tuyệt nhiên không phải chỉ là một số ít, những nhân vật nhân tài, nhân vật vĩ đại mà các nhân tài chuyên môn và công nhân, nông dân tiên tiến đều là nhân tài [16, tr.28]. Còn V.I.Lênin cho rằng: Chính giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao. Bởi, công nhân là yếu tố hàng đầu của lực lượng sản xuất [16, tr.43]. Thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao tuy mới được Đảng ta sử dụng trong Văn kiện từ năm 2006, nhưng các nhà khoa học của Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực chất lượng cao và đã đưa ra định nghĩa về nguồn nhân lực chất lượng cao ở nhiều góc độ khác nhau. Khi nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Thị Ngọc Lan đã có khẳng định: “Nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận tinh túy nhất của nguồn nhân lực. Lực lượng này có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao; có kỹ năng lao động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những biến đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất; có phẩm chất tốt và có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao” [45, tr.12]. 13 Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn nhân lực chất lượng cao là đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, sử dụng có hiệu quả việc ứng dụng vào điều kiện nước ta, là hạt nhân đưa lĩnh vực của mình đi vào công nghiệp hóa hiện đại hóa được mở rộng theo kiểu vết dầu loang bằng cách dẫn dắt những bộ phận có trình độ và năng lực thấp hơn, đi lên với tốc độ nhanh” [42, tr.147-148]. Bên cạnh những quan niệm nêu trên, còn có những thuật ngữ khác nói về nguồn nhân lực chất lượng cao mang nghĩa gần gũi thường hay được sử dụng như khi nói về người lao động có đào tạo, có trình độ, có chất lượng, trong lĩnh vực sản xuất có hiệu quả cao. Những thuật ngữ thường gặp như: thuật ngữ chuyên gia, nghệ nhân, công nhân lành nghề; nhà chuyên môn, bác học, nhà khoa học, chuyên gia. Từ những cách tiếp cận trên cho thấy, khi đề cập đến thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao có thể hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận ưu việt của nguồn nhân lực. Đó là nguồn lực lao động có khả năng đáp ứng nhu cầu cao và có phương pháp tối ưu trong việc giải quyết vấn đề của thực tiễn. Lực lượng này có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao, có khả năng nhận thức, tiếp thu nhanh kiến thức mới; biết vận dụng sáng tạo tri thức, kỹ năng được đào tạo và những thành tựu khoa học - công nghệ vào lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Mặt khác, đây còn là lực lượng lao động có tác phong nghề nghiệp, tính kỷ luật cao, có tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, có ý chí tự lập, tự cường và có phẩm chất đạo đức tốt. Tóm lại, Nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề, đội ngũ trí thức, các nhà khoa học kỹ thuật với trình độ chuyên môn cao và những nông dân giỏi có khả năng ứng dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào sản xuất để đem lại hiệu 14 quả kinh tế cao. Nhìn chung, họ là những người vừa có trình độ học vấn, vừa có trình độ tay nghề, đặc biệt, lao động có chất lượng và hiệu quả và biết sáng tạo trong lao động sản xuất. - Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao Trong nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật có khẳng định phát triển là phạm trù dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. V.I. lênin cho rằng: để có tri thức đúng về sự vật, bản thân sự vật phải được xem xét trong những quan hệ nó và trong sự phát triển của nó. Trên ý nghĩa đó nguồn nhân lực chất lượng cao cần được xem xét trong sự vận động theo khuynh hướng đi lên. Tức thuật ngữ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được xem xét với sự hoàn thiện, nâng cao chất lượng. Ở Việt Nam hiện nay, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề quan trọng, vừa mang tính cơ bản, vừa có tính cấp bách. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được hiểu là những hoạt động đầu tư nhằm tạo ra nguồn nhân lực xã hội với số lượng và chất lượng đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân sao cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Đề cập đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải nói đến những nội dung quan trọng đó là phát triển số lượng, phát triển về chất lượng cũng như việc nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực tiễn của nguồn nhân lực. Phát triển về số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao là sự gia tăng về số lượng và thay đổi cơ cấu của đội ngũ nhân lực theo hướng phù hợp với môi trường và điều kiện hoạt động mới. Sự thay đổi này diễn ra theo cơ cấu phân bố nhân lực, cơ cấu độ tuổi, và cơ cấu về nam nữ. Phát triển về chất lượng của nguồn nhân lực chất lượng cao là sự nâng cao về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật và sức khỏe của các
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan