Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tòa án nhân dân quận liên ...

Tài liệu Luận văn phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tòa án nhân dân quận liên chiểu, thành phố đà nẵng

.PDF
84
102
133

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THANH THỦY PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THANH THỦY PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn “Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn N Nguyễn Thị Thanh Thủy MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................ 7 1.1. Những vấn đề lý luận về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ........................ 7 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ....... 15 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................................. 34 2.1. Tổng quan kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng ...................................................... 34 2.2. Kết quả đạt được trong thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng ...................................................................... 35 2.3. Những vi phạm, sai lầm và nguyên nhân trong thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự tại Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.......................................................................................... 44 CHƯƠNG 3. CÁC YÊN CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ....................................... 53 3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự .................................................... 53 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tố tụng hình sự về phiên tòa sơ thẩm hình sự...................................................... 59 KẾT LUẬN .................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt STT Nghĩa đầy đủ 1 ADPL Áp dụng pháp luật 2 BLDS Bộ luật Dân sự 3 BLHS Bộ luật Hình sự 4 BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự 5 BPTP Biện pháp tư pháp 6 BTTH Bồi thường thiệt hại 7 CQĐT Cơ quan điều tra 8 CTTP Cấu thành tội phạm 9 ĐCS Đảng cộng sản 10 HĐXX Hội đồng xét xử 11 HTND Hội thẩm nhân dân 12 KSV Kiểm sát viên 13 LTTHS Luật tố tụng hình sự 14 NBC Người bào chữa 15 NCTN Người chưa thành niên 16 NN Nhà nước 17 PL Pháp luật 18 PLHS Pháp luật hình sự 19 PTSTVAHS Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự 20 TAND Toà án nhân dân 21 TĐC Tạm đình chỉ 22 THSĐTBS Trả hồ sơ điều tra bổ sung 23 TKTA Thư ký tòa án Từ viết tắt STT Nghĩa đầy đủ 24 TNHS Trách nhiệm hình sự 25 TP Thẩm phán 26 VAHS Vụ án hình sự 27 VKSND Viện kiểm sát nhân dân 28 XHCN Xã hội chủ nghĩa 29 XXST Xét xử sơ thẩm DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng bảng 2.1. Thống kê số liệu cán bộ, công chức TAND quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng tính đến ngày 30/11/2019 Trang 34 Thống kê số vụ án, bị cáo đã thụ lý và xét xử sơ thẩm của 2.2. Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng (Từ 36 năm 2015 đến năm 2019) Thống kê số bản án sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân 2.3. quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo, kháng nghị 44 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền tư pháp là một bộ phận của quyền lực nhà nước có quan hệ, gắn bó chặt chẽ với các quyền lập pháp và quyền hành pháp trong tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất. Quyền tư pháp có một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và coi đó là chiến lược cải cách tư pháp với mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [6, tr.2]. Ở Việt Nam, Tòa án được xác định là trụ cột, có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Cải cách, nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án, trong đó trọng tâm là hoạt động xét xử, là khâu đột phá của quá trình cải cách tư pháp, có tính cấp bách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động xét xử nói chung và hoạt động xét xử các VAHS sơ thẩm nói riêng của Tòa án thực chất là hoạt động ADPL tố tụng hình sự. Đây là một hoạt động đặc biệt và rất quan trọng, bởi vì hoạt động này nhân danh quyền lực Nhà nước của cơ quan Tòa án, thông qua HĐXX là những người được Nhà nước trao quyền tuân thủ chặt chẽ và đầy đủ những quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục để xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Từ đó áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự và luật hình sự để ra bản án, quyết định tuyên bố bị cáo phạm tội hoặc không phạm tội. Công tác xét xử tại phiên tòa nói chung và tại PTSTVAHS của TAND nói riêng, đóng vai trò rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật ở Việt Nam; PSSTVAHS là hoạt động thể hiện sự trừng trị nghiêm khắc những người có hành vi vi phạm pháp luật; Bảo vệ và khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NN và công dân, bảo vệ danh dự, nhân phẩm, tính mạng của con người theo quy định của PL, giữ gìn trật tự 1 trị an và an toàn xã hội, giữ gìn kỷ cương phép nước trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, PTSTVAHS có vai trò trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng; Ngoài ra, PTSTVAHS còn thể hiện vai trò trong việc phổ biến và tuyên truyền giáo dục PL cho nhân dân. Việc tổ chức PTSTVAHS của Tòa án hai cấp thành phố Đà Nẵng nói chung và PTSTVAHS tại TAND quận Liên Chiểu nói riêng, trong những năm vừa qua (2015-2019) đã có nhiều tiến bộ và đạt được kết quả khả quan, qua đó góp phần quan trọng bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn. Tuyên truyền, giáo dục người dân nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật và phòng chống vi phạm, tội phạm. Tuy nhiên, hoạt động ADPL hình sự và tố tụng hình sự tại PTSTVAHS của TAND quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót trong quá trình giải quyết dẫn đến một số VAHS sơ thẩm bị Tòa án cấp trên sửa một phần bản án hoặc hủy toàn bộ để điều tra, truy tố, xét xử lại. Nguyên nhân khách quan của những hạn chế, thiếu sót đó là do hệ thống pháp luật của nước ta còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, các văn bản PL liên quan có nhiều thay đổi, bổ sung mà việc ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của các cấp có thẩm quyền còn chậm. Ngoài ra, còn có nguyên nhân chủ quan từ TP, HTND như năng lực chuyên môn còn hạn chế, khả năng đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ nên đã có những phán quyết không chính xác. Trước tình hình đó, đặt ra yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động xét xử tại Phiên tòa sơ thẩm hình sự của hệ thống Tòa án nói chung và của TAND quận Liên Chiểu nói riêng. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng" làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hoạt động xét xử của hệ thống TAND nói chung và PTSTVAHS của TAND nói riêng về mặt lý luận và thực tiễn luôn là đề tài nóng hổi, thu hút được sự quan 2 tâm của nhiều nhà khoa học. Vì vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có giá trị lý luận và thực tiễn cao đã được công bố trong thời gian vừa qua. Dưới đây là một số công trình đã được công bố: - Luận án của Tiến sỹ Lê Tiến Châu “Chức năng xét xử trong TTHS”. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2008 [10]; - Luật văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Hữu Tuấn: “Hoàn thiện thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trong quá cải cách tư pháp hiện nay”. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật - 2009 [44]; - Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Bùi Thị Đoan Trang: “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc”. Trường Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - 2011 [41]; - Luận văn của Thạc sỹ Nguyễn Thị Bạch Tuyết: “Thẩm quyền xét xử của TAND theo LTTHS Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định”, trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật 2014 [47]. - Luật văn Thạc sĩ luật học của tác giả Quản Thị Ngọc Thảo: “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật”. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật - 2016 [30]; - Luật văn của Thạc sĩ Võ Thị Phước Hòa: “Tranh tụng tại PTSTVAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam, từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [14]; - Luật văn của Thạc sĩ Hồ Xuân Hợp: “Tranh tụng tại PTSTVAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Nghệ An”. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [15]; - Luật văn của Thạc sĩ Phan Hùng: “Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại PTSTVAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận”. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [16]; - Luật văn Thạc sĩ luật học của tác giả Phan Thị Ánh Tuyết: “Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh”. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học 3 viện khoa học xã hội - 2018 [46]; - Luật văn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thùy Trang: “Chức năng XXST VAHS Tòa án theo pháp luật TTHS Việt Nam, từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng”. Viện hàn lâm khoa học xã hội VN, Học viện khoa học xã hội, 2018 [42]; - Luật văn Thạc sĩ luật học của tác giả Vũ Minh Nguyệt: “Thủ tục xét xử vụ án hình sự từ thực tiễn quận 10, thành phố Hồ Chi Minh”. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội - 2019 [18]; - “Hoàn thiện pháp luật về chức năng tố tụng hình sự của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Thị Tuyết, tạp chí Tòa án nhân dân số 03/2011 [45]. Qua nghiên cứu những công trình và bài viết nêu trên, tuy các công trình và bài viết đã nghiên cứu việc áp dụng pháp luật pháp luật hình sự và tố tụng hình sự trong xét xử nói chung và trong phiên tòa xét xử án hình sự nói riêng ở một số địa phương, nhưng mỗi địa phương đều có đặc thù riêng, khác nhau về văn hóa vùng miền. Vì vậy, tác giả chọn đề tài "Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng" vẫn đảm bảo không trùng lắp, có được nét riêng và tính sáng tạo mà luận văn mang lại. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích lý luận áp dụng quy định của pháp luật tố tụng và đánh giá thực tiễn PTSTVAHS tại TAND quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, luận văn nêu lên quan điểm và các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng pháp luật về trình tự và thủ tục tố tụng trong hoạt động xét xử tại PTSTVAHS của hệ thống Tòa án nói chung và Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích khái niệm, đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện; - Phân tích thực trạng PTSTVAHS của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng trong thời gian vừa qua (Từ năm 2015 đến năm 2019). Đánh giá 4 những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế khi áp dụng pháp luật về trình tự và thủ tục trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng; - Nêu lên các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu quy định của pháp luật và việc ADPL quy định về trình tự và thủ tục tố tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự nói và phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng nói riêng từ năm 2015 đến năm 2019. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật quy định về trình tự và thủ tục tố tụng trong xét xử tại PTSTVAHS của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. - Về thời gian: Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của ĐCS Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; các quan điểm của Đảng chỉ đạo về cải cách tư pháp, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị; Hội nghị, hội thảo về “Chiến lược cải cách tư pháp trong ngành Tòa án nhân dân định hướng đến năm 2030” do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức ngày 20/6/2019 tại Hà Nội. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin với những phương pháp như: Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học về luật hình sự, TTHS và luận chứng các vấn đề tương ứng để nghiên cứu. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài góp phần trong việc làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự trong hoạt động xét xử các VAHS nói chung và tại PTSTVAHS của TAND cấp quận, huyện hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ lý luận, hiểu biết, vận dụng pháp luật hình sự và TTHS của cán bộ tư pháp nói chung và của TP nói riêng trong thực tiễn xét xử phiên tòa sơ thẩm hình sự tại Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu. Ngoài ra luận văn cũng được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu nói chung và giảng dạy nói riêng. Ngành Tòa án và đặc biệt TAND cấp quận, huyện có thể khai thác kết quả nghiên cứu để áp dụng pháp luật quy định về trình tự và thủ tục tố tụng trong hoạt động XXVAHS. 7. Cơ cấu của luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2: Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự. 6 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Những vấn đề lý luận về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1.1. Khái niệm phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự Như đã biết xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực của nhà nước do TAND hực hiện, nhằm để giải quyết các VAHS, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động…; Còn xét xử VAHS là một hoạt động tố tụng hình sự được phát sinh khi có cáo buộc từ cáo trạng của VKSND, nó được thực hiện rõ bởi chức năng của TAND trên cơ sở tranh tụng một cách bình đẳng, dân chủ nhằm xem xét và giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra bản án, quyết định bị cáo có tội hay vô tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp theo quy định của pháp luật. Chỉ có TAND mới là cơ quan nhà nước duy nhất được NN trao cho quyền được xét xử. Do đó bản án, quyết định của TAND được thực hiện bởi sức mạnh của NN. Và để bảo đảm sức mạnh của nhà nước thì phải thực hiện bằng PL. Do vậy mà PL TTHS đã ra đời với những nội dung quy định về trình tự thủ tục của hoạt động xét xử, trong đó việc xét xử phải diễn ra công khai và trong một trình tự về không gian, thời gian nhất định, đó gọi là “Phiên tòa”. Trong khi xét xử thì TP và HTND sẽ là người sẽ đưa ra quyết định bị cáo có tội hay vô tội, tội phạm gì, mức lượng hình và hình phạt nào. Như vậy xét trong mối quan hệ với chức năng buộc tội và chức năng bào chữa chức năng thì chức năng xét xử được coi là chức năng trung tâm của pháp luật hình sự và có ý nghĩa quyết, PTSTVAHS là phiên xét xử lần đầu một VAHS theo thẩm quyền của từng cấp tòa án. Sau khi có bản án, quyết định sơ thẩm của TAND thì các chủ thể mới được thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị. Khi đó, vụ án sẽ được xét xử phúc thẩm. Như vậy khi PTSTVAHS kết thúc, cũng có nghĩa là kết thúc một VAHS, điều đó được thể hiện thông qua việc mọi chứng cứ của VAHS do CQĐT thu thập đều được xem xét 7 công khai tại phiên tòa, người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận những điều mà tại CQĐT chưa thực hiện được. Có thể nói, phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHS được xem là trung tâm của quyền tư pháp và PTSTVAHS là công việc yêu cầu Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên … cần tập trung trí tuệ, nhanh chóng xử lý các tình huống phát sinh nếu có; phải đưa ra và vận dụng nội dung của các quy định pháp luật một cách chính xác đúng luật. Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình cũng là nới để biết được trình độ, năneg lực chuyên môn của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng. Cho nên PTSTVAHS cũng chính là nới tuyên truyền pháp luật để giúp người dân hiểu biết thêm về các quy định và chính sách pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Tại PTSTVAHS, Hội đồng xét xử điều khiển phiên tòa, thực hiện việc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, làm trọng tài phân xử đưa ra các phán quyết giải quyết vụ án. Do đó việc XXST VAHS được TAND thực hiện tại PTSTVAHS, XXST VAHS được tính từ khi TAND tiếp nhận VAHS đến khi đưa VAHS ra xét xử. Tại phiên tòa TAND phải kiểm tra tất cả tài liệu chứng cứ do CQĐT và VKS thu thập có trong hồ sơ vụ án để căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và LHS để đưa ra phán quyết (quyết định) xem bị cáo có tội hay không có tội hoặc cũng có thể là THSĐBS. Từ những phân tích trên thì có thể rút ra chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử với tính chất xét xử lần đầu, toàn diện, đầy đủ toàn bộ các vấn đề của vụ án, bao gồm và thể hiện qua các hành vi tố tụng từ thời điểm Tòa án nhận hồ sơ, thụ lý vụ án cho đến khi HĐXX tuyên án và bế mạc phiên tòa mà mục đích cuối cùng là giải quyết triệt để một vụ án. Theo quy định tại Điều 27 BLTTHS 2015 thì “Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử” [25] bao gồm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm hình sự, trong đó xét xử sơ thẩm là trọng tâm và có tính bắt buộc của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tòa án có thẩm quyền mở PTSTVAHS là TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện và các Tòa án khác theo luật định. Tuy nhiên, với nội dung đề tài nghiên cứu khoa học của luận văn là: PTSTVAHS từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, 8 theo học viên thì khái niệm PTSTVAHS là như sau: “PTSTVAHS là một khâu trong tố tụng hình sự, là hoạt động do Tòa án nhân dân địa phương (Cấp tỉnh hoặc cấp huyện) tiến hành công khai ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở tranh tụng, nhân danh nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, HĐXX ra bản án, quyết định giải quyết toàn diện vụ án hình sự”. Khi mở PTSTVAHS thì Tòa án mà cụ thể là HĐXX sẽ phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về PTSTVAHS, gồm: Quy định về nội quy phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa; Quy định về sự có mặt của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; Quy định về hoãn phiên tòa; Quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa; Quy định về nghị án và tuyên án. Các quy định này sẽ được học viên nêu tại mục 1.2 của luận văn. 1.1.1.2. Vị trí, vai trò của phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự Với vị trí là trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự, PTSTVAHS có vai trò đặc biệt quan trọng mang tính quyết định trong việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Phiên tòa sơ thẩm VAHS còn có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân. Bởi vì, tại PTSTVAHS các chủ thể tham gia phiên tòa đều được quyền đưa ra những tài liệu chứng cứ, chứng minh việc ngoiạ phạm (nếu có) hoặc là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (nếu có). Bởi vậy có thể nói, PTSTVAHS là nơi thể hiện đầy đủ nhất quyền dân chủ của cá nhân, công dân. 1.1.2. Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự Phiên tòa sơ thẩm VAHS của Tòa án nhân dân là một hình thức cụ thể của áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung. Trong quá trình thực hiện vừa phải tuân theo những nguyên tắc, quy trình áp dụng pháp luật. Đồng thời, do tính chất của xét xử án hình sự liên quan trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền sở hữu tài sản của nhà nước, của công dân nên cũng có những đặc điểm riêng biệt. Vì vậy, có thể xem xét, nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều cách 9 tiếp cận khác nhau. Trong phạm vi luận văn này, học viên xin nêu một số đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, PTSTVAHS của Tòa án nhân dân là hoạt động của HĐXX sơ thẩm nhân danh quyền lực Nhà nước lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử. Tại Điều 102 HP 2013 đã ghi rõ: TAND à cơ quan có thẩm quyền xét xử duy nhất của nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam [26]. Như vậy TAND là cơ quan quyết định cuối cùng xem bị cân, bị cáo có tội hay vô tội. Tuy nhiên TAND vẫn phải chấp hành nghiêm chỉnh những nguyên tắc về xét xử được pháp luật TTHS và LHS quy định. Theo Điều 103 Hiến pháp 2013, đó là các nguyên tắc: 1. Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. 2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. 3. Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín. 4. Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. 5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. 6. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm. 7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm [26] Có chấp hành nghiêm các nguyên tắc trên thì phán quyết của Tòa án mới đảm bảo tính khách quan, công bằng; thể hiện được vị trí trung tâm của Tòa án trong hoạt động tư pháp. Phiên tòa sơ thẩm VAHS là nơi Tòa án nhân dân khi xét xử và sau khi ban hành bản án, quyết định (Gọi chung là văn bản áp dụng pháp luật) không phải nhân danh cá nhân người tiến hành tố tụng hay nhân danh cơ quan Tòa án mà nhân danh 10 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua HĐXX. Điều 254 BLTTHS năm 2015 quy định: Thành phần của HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Nếu là VAHS nghiêm trọng và phức tạp thì HĐXX có thể gồm 02 TP và 03 HTND; Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán. Việc quy định như vậy là do yêu cầu đảm bảo chất lượng công tác xét xử phúc thẩm mà mục đích là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án sơ thẩm. Tòa án thực hiện quyền lực nhà nước thông qua phiên tòa xét xử công khai mà kết quả của quá trình xét xử là HĐXX công bố bằng một quyết định, bản án. Quyết định, bản án phải thể hiện ý chí của nhà nước và đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Mỗi quyết định, bản án nghiêm minh, chính xác và công bằng không những có ý nghĩa trừng trị, giáo dục người phạm tội mà còn giúp quần chúng nhân dân nâng cao ý thức pháp luật, có niềm tin vào chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Ngược lại, quyết định, bản án oan sai không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, của công dân mà còn ảnh hưởng đến uy tín của ngành Tòa án, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào công lý. Bởi vậy, mỗi quyết định, bản án của Tòa án phải rất thận trọng, chính xác, có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Thứ hai, PTSTVAHS của TAND luôn thực hiện theo trình tự, thủ tục do luật định. Việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của BLTTHS là điều kiện và biện pháp cần thiết quan trọng bảo đảm trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước và xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Chỉ có việc tuân thủ nghiêm chỉnh và thường xuyên các đòi hỏi của các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự mới xác định được sự thật khách quan của vụ án, từ đó đưa ra phán quyết chính xác và có căn cứ. Cụ thể, BLTTHS năm 2015 đã dùng 41 điều luật, từ Điều 288 đến Điều 329 để quy định về PTSTVAHS . Đó là những quy định rất chặt chẽ về trình tự thủ tục và cách thức tiến hành các hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Bắt buộc cơ quan Tòa án phải tuân thủ triệt để các quy định đó khi xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm. Học viên sẽ nêu tại mục 1.2 của luận văn. 11 Các quan hệ phát sinh trong quá trình xét xử đều được BLTTHS năm 2015 dự liệu trước những vấn đề có thể xảy ra. Ví dụ như các quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; áp dụng các quy phạm pháp luật TTHS để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định triệu tập những người tham gia tố tụng đến phiên tòa; quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng trong trường hợp cần thiết; quyết định hoãn phiên tòa; trình tự tại phiên tòa từ phần thủ tục, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Nếu trong quá trình ADPL hình sự mà Tòa án vi phạm các thủ tục xét xử được quy định trong BLTTHS thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bản án cấp sơ thẩm ban hành sẽ không được công nhận và bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bỏ. Tại PTSTVAHS, HĐXX áp dụng các quy định của BLTTHS hay áp dụng các quy phạm pháp luật hình thức là điều kiện bắt buộc và là tiền đề cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật nội dung, để đi đến việc ra văn bản áp dụng pháp luật cuối cùng là bản án, quyết định hình sự sơ thẩm. Bởi vậy, tại PTSTVAHS, HĐXX phải áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật nội dung, đồng thời phải tuân thủ triệt để các quy định của BLTTHS. Có như vậy mới đảm bảo được tính khách quan của vụ án hình sự. Thứ ba, PTSTVAHS của TAND chỉ do HĐX (gồm TP và HTND) thực hiện Tại Điều 1 Pháp lệnh TP và HTND 2013 đã ghi rõ, TP được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử VAHS; Còn HTND được bầu để làm nhiệm vụ xét xử VAHS. Bởi vậy, với chức năng và nhiệm vụ của mình trong quá trình xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm đòi hỏi người Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước tiến hành tố tụng quy định trong BLTTHS và phải đảm bảo áp dụng pháp luật nội dung đạt độ chính xác cao. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải triệt để tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải là người có ý thức pháp luật, ý thức chính trị, đạo đức, chuyên môn nghề nghiệp vững. Có như vậy mới giúp cho quá trình giải quyết các vụ án hình sự được chính xác và đúng pháp luật. Tại PTSTVAHS, nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 4 Pháp lệnh Thẩm phán 2013) và nguyên tắc “Xét xử 12 tập thể và quyết định theo đa số” [25] đều là những nguyên tắc có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm. Giúp cho việc nghiên cứu, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án một cách khách quan, vô tư và chính xác. Việc xem xét, đánh giá chứng cứ thông qua hồ sơ vụ án, qua quá trình xét xử công khai tại phiên tòa. Thẩm phán và Hội thẩm luôn có sự bàn bạc dân chủ, thẳng thắn, nêu cao tinh thần trách nhiệm của từng thành viên. Mỗi thành viên trong HĐXX đều có quyền nêu ra quan điểm riêng của mình và bảo vệ quan điểm đó, điều này thể hiện sự độc lập và tuân theo pháp luật giữa Thẩm phán và Hội thẩm. Trong đó thành phần HĐXX phải có ít nhất 03 người, biểu quyết theo đa số. Hoạt động áp dụng pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử các vụ án hình sự luôn được sự quan tâm, chú ý của dư luận xã hội, bởi hoạt động đó mang tính quyền lực nhà nước, tính mẫu mực của việc thực hiện pháp luật, tính nghiêm khắc của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa và cả tính nhân đạo của chế độ chính trị. Vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm luôn phải giữ cho mình cái “Tâm” trong sáng. Thứ tư, PTSTVAHS của TAND là hoạt động áp dụng pháp luật để quyết định bị cáo bị VKS truy tố đúng người, đúng tội hay không. Việc xác định sự thật khách quan của VAHS là xem xét tài liệu chứng do CQĐT thu thập trong giai đoạn điều tra và VKS thu thập trong trong giai đoạn truy tố để TAND nghiên cứu, thẩm định xem hành vi vi phạm pháp luật hình sự của bị can, bị cáo có đủ CTTP hình sự hay không cấu thành tội phạm hình sự. Đồng thời, khi nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị xét xử, những người tiến hành tố tụng cần xác định hành vi phạm tội trên thực tế thực hiện ở giai đoạn nào: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt…, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, vai trò của từng bị cáo trong vụ án nếu có đồng phạm, trách nhiệm dân sự nếu có. Tại PTSTVAHS để có cơ sở áp dụng đúng pháp luật và đi đến quyết định cuối cùng thì HĐXX còn phải lựa chọn các quy phạm pháp luật nội dung là BLHS và quy phạm pháp luật hình thức là BLTTHS, phù hợp để áp dụng và xem xét TNHS và trách nhiệm dân sự đối với người phạm tội. Tại PTSTVAHS thì HĐXX sẽ áp dụng các quy định trong BLHS để quyết 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan