VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀNG LÂM
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀNG LÂM
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN THUẬN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, tài liệu tham khảo và nội dung trích dẫn đảm bảo độ tin cậy, chính xác,
trung thực. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 19 tháng 8 năm 2019
Tác giả luận văn
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Văn
Thuận, người đã hướng dẫn tôi hết sức tận tâm, nhiệt tình và khoa học để tôi
hoàn thành luận văn Thạc sĩ này.
Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các quý
Thầy, Cô của Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, đặc biệt là các Thầy, Cô
trong khoa Luật đã giúp tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp, những người đã
quan tâm, sát cánh bên cạnh và ủng hộ tôi như nguồn động lực cho tôi hoàn
thành luận văn này một cách thuận lợi.
Hà Nội, ngày 19 tháng 8 năm 2019
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ................................................11
1.1. Khái niệm báo chí, hoạt động báo chí ...........................................................11
1.1.1. Báo chí ......................................................................................................11
1.1.2. Hoạt động báo chí ....................................................................................11
1.2. Khái niệm, chủ thể, nội dung và vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt
động báo chí ..........................................................................................................12
1.2.1. Quản lý nhà nước .....................................................................................12
1.2.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí ...........................................13
1.2.3. Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí ..............................16
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí ............................17
1.2.5. Vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí .........................18
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí ..........22
1.3.1. Yếu tố khách quan ....................................................................................22
1.3.2. Yếu tố chủ quan ........................................................................................34
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
BÁO CHÍ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....................................................39
2.1. Khái quát về hoạt động báo chí tại thành phố Hồ Chí Minh .........................39
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí tại thành phố Hồ Chí
Minh ......................................................................................................................41
2.2.1. Ưu điểm ....................................................................................................42
2.2.2. Hạn chế.....................................................................................................48
2.2.3. Nguyên nhân .............................................................................................53
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH........................................................................................................................63
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí .....63
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ....66
3.2.1. Nhóm giải pháp chung .............................................................................66
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với thành phố Hồ Chí Minh .....................................74
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Báo chí cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, có vai trò
tích cực trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
báo chí nước ta không ngừng phát triển mạnh mẽ, đồng hành cùng dân tộc trong
công cuộc đấu tranh giải phóng trước đây và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
hiện nay.
Với 838 cơ quan báo in, 67 đài phát thanh, truyền hình, 92 báo, tạp chí điện
tử, 01 hãng thông tấn quốc gia [13, tr.2], báo chí đã trở thành lực lượng hùng hậu,
thông tin nhanh nhạy, toàn diện về mọi diễn biến của đời sống chính trị, kinh tế - xã
hội ở trong nước và quốc tế; là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị
- xã hội, là diễn đàn của nhân dân. Không những thế báo chí còn là phương tiện
phản ánh tâm tư, nguyện vọng, tiếng nói của đại đa số quần chúng nhân dân đối với
các vấn đề xã hội, trong cuộc chiến chống tham nhũng giai đoạn hiện nay, trong quá
trình phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ đất nước. Báo chí còn đại diện cho dư
luận xã hội trong việc phân tích, phản biện, đóng góp ý kiến đối với các quy định
pháp luật, các chủ trương chính sách liên quan đến đời sống nhân dân. Báo chí còn
là vũ khí sắc bén trong cuộc chiến đấu chống lại giặc “nội xâm” trong giai đoạn
hiện nay. Nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng nhờ báo chí phanh phui, phản ánh góp
phần trong việc xử lý, làm trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, công chức, nâng cao uy
tín của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, thành tựu là dòng chủ đạo, thì báo chí
nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Một số cơ quan báo chí chưa thực hiện
tốt chức năng tư tưởng, văn hóa; nhiều sản phẩm báo chí tiếp tục chạy theo xu
hướng giật gân, câu khách, xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng. Thông tin thiếu
chuẩn xác, thiếu nhạy cảm chính trị, vi phạm bản quyền có chiều hướng gia tăng.
Đạo đức của một bộ phận nhà báo ngày càng sa sút nghiêm trọng, xuất hiện ngày
càng nhiều các vụ việc lợi dụng chức danh phóng viên báo chí để trục lợi, thực hiện
các hành vi vi phạm pháp luật. Sự bùng nổ về công nghệ thông tin, thành tựu của
1
cuộc cách mạng công nghệ 4.0 dẫn đến sự ra đời ngày càng nhiều ấn phẩm điện tử,
báo mạng; không ít trong số đó đang ngày càng chạy theo xu hướng tất cả vì lợi
nhuận, đăng tải nhiều bài viết, sản phẩm mang tính câu view, câu like, đưa thông tin
bất chấp tính chính xác chỉ nhằm thu hút, thỏa mãn tính hiếu kỳ của một bộ phận
độc giả [13, tr.4].
Việc quy hoạch, sắp xếp hệ thống báo chí vẫn còn những bất cập, dẫn đến
trùng lắp về nội dung, phân tán, lãng phí về nhân lực, tài chính, nhất là trong lĩnh
vực truyền hình [11, tr.5].
Vai trò của nhiều cơ quan chủ quản chưa phát huy đúng mức, thiếu quan
tâm, buông lỏng quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền. Việc kiểm tra, giám sát, xử
phạt vi phạm chưa được thực hiện tốt, các quy định pháp luật, chế tài xử lý các vi
phạm trong lĩnh vực báo chí ở một số nội dung còn khá nhẹ, chưa đảm bảo tính răn
đe, tính cưỡng chế chống tái phạm. Việc “dựa nhờ” báo chí để nổi tiếng, xây dựng
tiếng tăm hoặc nhằm triệt hạ, chơi xấu đối thủ cạnh tranh của một số cá nhân, cơ
quan, đơn vị ngày một phổ biến. Những hạn chế, khuyết điểm này đã làm giảm tính
chính trị, tính văn hóa, tính giáo dục, tính chiến đấu của báo chí cách mạng trong
giai đoạn hiện nay .
Chính vì vậy, tăng cường công tác quản lý báo chí hiện nay là vấn đề cấp
thiết, bảo đảm cho nền báo chí cách mạng Việt Nam phát triển lành mạnh, thực hiện
tốt chức năng, phát huy hết tiềm năng, thế mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Vì lý do trên, học viên mạnh dạn chọn nội dung “Quản lý nhà nước đối với
hoạt động báo chí từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Một số công trình nghiên cứu chính thức về quản lý nhà nước đối với lĩnh
vực báo chí, có thể kể đến như sau:
2
+ PGS.TS Lê Thanh Bình, ThS.Phí Thị Thanh Tâm, Quản lý Nhà nước và
pháp luật về báo chí, Học viện Ngoại giao – Khoa Truyền thông và Văn hóa đối
ngoại, NXB Văn hóa Thông tin, 2009. Nội dung đề tài tập trung trình bày các vấn
đề lý luận chung về quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí bao gồm phân tích các
khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, hình thức, phương pháp và các yếu tố khác liên
quan đến; nội dung quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí; tổng hợp, thống kê và
trình bày các văn bản pháp luật về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí và các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước và hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực báo chí ở Việt Nam [7].
+ TS. Lê Minh Toàn (chủ biên): Quản lý Nhà nước về thông tin và truyền
thông, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2009. Đề tài tập trung chủ yếu giới thiệu về
các vấn đề chung liên quan đến quản lý nhà nước; các nội dung liên quan đến quản
lý nhà nước về thông tin và quản lý nhà nước về truyền thông [42].
Chúng tôi đánh giá hai giáo trình trên đây là các công trình mang tính chất
tham khảo cho sinh viên chuyên ngành thông tin truyền thông và cũng rất giá trị đối
với những người nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa học pháp lý đặc biệt là
chuyên ngành Luật Hành chính muốn phân tích làm rõ dưới góc độ quản lý nhà
nước đối với lĩnh vực báo chí, thông tin hoặc truyền thông.
Bên cạnh đó, tác giả cũng ghi nhận một số bài viết liên quan đến một số khía
cạnh của đề tài trên các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành như sau:
- Quản lý nhà nước đối với báo chí ở nước ta bài viết của tác giả Đoàn Thế
Hanh đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 20/6/2013. Bài viết tập trung khẳng định và
phân tích các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong lãnh đạo và quản lý báo
chí, nhấn mạnh các nguyên tắc căn bản trong quản lý nhà nước về báo chí cần phải
thực thi để báo chí hoạt động sáng tạo như “tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận của nhân dân” và “đảm bảo bình đẳng trong thụ hưởng thành quả báo chí
của tất cả nhân dân” nhưng cũng cần quán triệt “chống lợi dụng việc tôn trọng tự do
báo chí, tự do ngôn luận làm trái pháp luật”. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số cơ
3
sở pháp lý và nâng cao trách nhiệm đối với hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về
báo chí nhằm hoạt động hiệu quả hơn [23].
- Quản lý nhà nước về báo chí, báo chí điện tử ở một số nước và những gợi
mở cho Việt Nam trong công tác quản lý nhà nước về báo chí điện tử - Tạp chí
Công thương ngày 12/12/2018 của tác giả Nguyễn Minh Thắng. Bài báo tập trung
giới thiệu về cách thức quản lý nhà nước về báo chí, báo chí điện tử ở ba nước
Trung Quốc, Singapore, Anh Quốc, những nước có nền báo chí và phương tiện
truyền thông đại chúng phát triển mạnh, các quy định của pháp luật về báo chí và
internet tại đây khá cụ thể, rõ ràng, có định hướng. Thông qua đó, tác giả đề xuất
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về định hướng quản lý nhà nước về báo chí
điện tử và tất cả các loại hình truyền thông khác trên internet, mạng xã hội như:
Zalo, Facebook, Twitter, YouTube… đồng thời củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ,
công chức được giao trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí điện tử và hoàn thiện
hệ thống văn bản pháp luật về báo chí điện tử [39].
- Quản lý Nhà nước về báo chí trong thời kỳ đổi mới – Tạp chí Tổ chức Nhà
nước ngày 22/6/2016 của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh. Bài viết tập trung phân tích
nội dung các quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của báo chí
nước nhà trong thời gian gần 30 năm đổi mới cùng với công cuộc cải cách kinh tế
của đất nước. Qua đó tác giả đánh giá những thành tựu đạt được và một số hạn chế
của báo chí trong 30 năm thực hiện chính sách, chủ trương đổi mới và 15 năm thực
thi luật báo chí từ đó đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
báo chí nói chung trong thời gian sắp tới [1].
Tất cả những bài viết này nhìn chung chỉ nghiên cứu ở góc độ tìm hiểu, phân
tích, làm rõ nội hàm công tác quản lý nhà nước đối với báo chí nói chung hoặc tập
trung đi sâu nghiên cứu về báo chí điện tử, báo mạng ở nước ta trong tình hình hiện
nay. Chưa có bài viết hay đề tài nào đề cập đến hay tập trung nghiên cứu, làm rõ
dưới góc độ quản lý nhà nước đối với những nội dung hoạt động báo chí cụ thể.
+ Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận lịch sử Nhà nước và pháp luật của
tác giả Phí Thị Thanh Tâm – Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội có tên “Pháp
4
luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay”. Luận văn tập
trung làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến báo chí và quản lý nhà nước, sự cần
thiết quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực báo chí, vai trò của pháp luật
về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí. Thông qua đó tác giả trình bày thực
trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay,
đánh giá những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những mặt tồn tại và những
vấn đề đang được đặt ra đối với báo chí ở thời điểm hiện tại, từ đó đưa ra những đề
xuất, kiến nghị và các giải pháp nhằm tăng cường vai trò quản lý nhà nước về báo
chí của các chủ thể có thẩm quyền và hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay bao gồm: rà soát, bổ sung, điều chỉnh
văn bản nhà nước, tập trung công tác giám sát thực hiện pháp luật [38].
Ngoài ra, tác giả cũng ghi nhận một số bài viết trên các báo có nội dung đề
cập đến vai trò của Đảng và Nhà nước trong quản lý báo chí hoặc tập trung nghiên
cứu về một khía cạnh, một phương diện của công tác quản lý nhà nước đối với báo
chí nước ta trong giai đoạn hiện nay, có thể kể đến các loạt bài như "Quản lý báo
chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay" của tác giả Lê Doãn Hợp - Báo điện
tử Tạp chí cộng sản, ngày 18/6/2007, bài viết có nội dung nhận định về sự lớn mạnh
và đóng góp xứng đáng của báo chí nước ta, nhìn nhận những khuyết điểm, hạn chế
trong công tác quản lý báo chí nói chung để từ đó triển khai một số giải pháp nhằm
tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với báo chí
[24]; "Nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam (21-6): xã hội hóa hơn nữa để phát
triển" (Vũ Duy Thông - Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 20/6/2006);
"Một số vấn đề đặt ra trong công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trước yêu cầu mới"
(Hồng Vinh - Báo Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 21/6/2006); "Tiếp
tục đổi mới và phát triển vững chắc nền báo chí cách mạng nước ta" (Tô Huy Rứa Báo Nhân dân, ngày 21/6/2007). Thêm vào đó, nội dung quản lý nhà nước về báo
chí luôn luôn được đề cập tới trong các giáo trình, tài liệu, sách nghiên cứu nghiệp
vụ của các cơ sở đào tạo báo chí, trong các tác phẩm của các tác giả nghiên cứu về
lý luận báo chí lâu năm như Hữu Thọ, Tạ Ngọc Tấn, Hà Minh Đức...
5
Tuy nhiên, qua tìm hiểu và phân tích, tác giả nhận thấy đa số các công trình
nghiên cứu nêu trên mới chỉ tập trung phân tích và làm rõ một số vấn đề sau đây:
- Các quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với công tác lãnh đạo và quản lý
báo chí, vai trò của báo chí đối với người dân và đời sống xã hội
- Liệt kê, tổng hợp các quy định pháp luật cụ thể về quản lý nhà nước đối với
báo chí nói chung. Qua đó nhận định, phân tích sự phù hợp cũng như bất cập, thiếu
hợp lý của các văn bản pháp luật hiện hành
- Các nội dung của công tác quản lý nhà nước đối với báo chí và các cơ quan
báo chí nói chung (thành lập, chấm dứt, sáp nhập, giải thể, nâng cấp, mở rộng, xử
phạt) v.v…
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với
báo chí trong giai đoạn sắp tới.
Tóm lại, cho đến thời điểm hiện tại tác giả nhận thấy vẫn chưa có đề tài nào
tập trung nghiên cứu, phân tích, đi sâu tìm hiểu về công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động báo chí, cụ thể là các hoạt động liên quan đến “sáng tạo tác phẩm
báo chí, sản phẩm báo chí, sản phẩm thông tin có tính chất báo chí; cung cấp thông
tin và phản hồi thông tin cho báo chí; cải chính thông tin trên báo chí; xuất bản, in,
phát hành báo in; truyền dẫn báo điện tử và truyền dẫn, phát sóng báo nói, báo
hình” [33,tr.1]. Trong khi đó, hoạt động báo chí chính là hoạt động quan trọng
nhất, mang tính chất cốt yếu, sống còn, quyết định sự tồn tại và phát triển của các
cơ quan báo chí. Quản lý nhà nước đối với báo chí nói chung hay các cơ quan báo
chí cụ thể thực chất mục tiêu cuối cùng mà các cơ quan quản lý nhà nước hướng
đến cũng là quản lý hiệu quả, đầy đủ và kịp thời các hoạt động báo chí, sản phẩm
báo chí xác định do các cơ quan đó tạo nên, đúng đường lối chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Có thể nói quản lý hoạt động báo chí hiệu quả
sẽ là nhân tố quyết định cho việc quản lý báo chí nói chung đạt kết quả tốt nhất và
ngược lại nếu quản lý báo chí tốt thì hoạt động báo chí phải hiệu quả và phát triển.
Thành phố Hồ Chí Minh, đô thị lớn thứ hai trên cả nước với hơn 47 tờ báo,
đài phát thanh, đài truyền hình của thành phố và 142 văn phòng đại diện các cơ
6
quan báo đài của Trung ương trú đóng [37, tr.1], là trung tâm của hoạt động báo chí
lớn thứ 2 trong cả nước chỉ sau Hà Nội. Hoạt động báo chí tại đây diễn ra sôi động,
liên tục, thường xuyên, phản ánh mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nguyện vọng,
yêu cầu của người dân, các vấn đề tích cực, điển hình tiên tiến cũng như những tiêu
cực, bất công còn tồn tại. Nhiều cơ quan báo chí phát triển mạnh mẽ cả về quy mô,
tầm vóc và chất lượng hoạt động, đạt nhiều giải thưởng uy tín về báo chí cả trong và
ngoài nước nhưng cũng tồn tại không ít các thiếu sót, sai phạm trong hoạt động báo
chí lẫn đạo đức nghề nghiệp. Chính vì vậy cần có một đề tài nghiên cứu, tổng hợp,
phân tích, nhìn nhận lại về hoạt động báo chí tại thành phố Hồ Chí Minh trong
những năm qua, trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý, đánh giá mặt
mạnh, hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn thành phố.
Từ những phân tích trên đây có thể khẳng định lý do tác giả lựa chọn đề tài
“Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh” làm luận văn tốt nghiệp, luận văn của tác giả là kết quả nghiên cứu, tìm tòi,
sáng tạo riêng của bản thân, đáp ứng tính mới và không có sự trùng lặp so với các
đề tài đã thực hiện trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung làm rõ vai trò của báo chí cách mạng nói chung và báo chí
đối với sự phát triển của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng thông qua đó phản ánh
thực trạng hoạt động báo chí trên địa bàn thành phố hiện nay; mặt mạnh và hạn chế;
trên cơ sở đó phân tích làm rõ các quy định pháp luật hiện hành về quản lý hoạt
động báo chí trong bối cảnh nền kinh tế thị trường; tổng kết và làm rõ những điểm
nổi bật và bất cập trong các quy định hiện hành từ đó đề xuất giải pháp bổ sung và
hoàn thiện các quy định pháp luật
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích đặt ra như trên, nhiệm vụ của luận văn là:
7
- Làm rõ sự cần thiết quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực báo chí,
vai trò của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
- Nêu thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt
Nam hiện nay; những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những mặt còn tồn tại
và những vấn đề đang đặt ra đối với báo chí hiện nay.
- Đưa ra những đề xuất, kiến nghị, các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành của nhà nước
liên quan đến hoạt động báo chí cụ thể là hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí, sản
phẩm báo chí, sản phẩm thông tin có tính chất báo chí; cung cấp thông tin và phản
hồi thông tin cho báo chí; cải chính thông tin trên báo chí; xuất bản, in, phát hành
báo in; truyền dẫn báo điện tử và truyền dẫn, phát sóng báo nói, báo hình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về hoạt động báo chí diễn ra trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh, số liệu trích dẫn được sử dụng trong luận án được tính từ giai
đoạn 2015 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lập trường và quan điểm tiếp cận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác quản lý nhà nước
về hoạt động báo chí.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu điển hình sau đây:
+ Phương pháp nghiên cứu hệ thống;
+ Phương pháp phân tích, so sánh;
+ Phương pháp thống kê, tổng hợp.
8
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Bước đầu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và quy định pháp luật về quản
lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí, làm rõ vai trò của pháp luật đối với quản lý nhà
nước trong lĩnh vực báo chí; bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của
công dân.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý trong lĩnh vực báo chí và thực
trạng thực hiện pháp luật báo chí; nêu ra một số xu hướng phát triển báo chí.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý
trong lĩnh vực báo chí trong đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí 2016.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn dự kiến mang lại ý nghĩa thực tiễn như sau:
- Giúp cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động báo chí nói chung và tại tp
HCM nhìn nhận, đánh giá lại các chủ trương, chính sách, quy định hiện hành đối
với hoạt động báo chí từ đó điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình
thực tiễn của đất nước và thành phố.
- Cơ quan quản lý nhà nước có thể xây dựng kế hoạch thực hiện hiệu quả
công tác quy hoạch báo chí tại thành phố Hồ Chí Minh và trên cả nước năm 2020
hướng đến việc thực hiện thành công mục tiêu xây dựng một nền báo chí cách mạng
“phát triển, chuyên nghiệp, hiện đại và nhân văn”.
7. Kết cấu của luận văn
Bố cục của luận văn gồm phần mở đầu, 03 chương và kết luận:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quản lý nhà nước đối với
hoạt động báo chí
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí tại thành
phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động
báo chí từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
9
Trong quá trình thực hiện luận án chắc chắn không thể tránh khỏi sai sót. Tác
giả rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và bạn bè, đồng nghiệp.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
1.1. Khái niệm báo chí, hoạt động báo chí
1.1.1. Báo chí
Là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện
bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành,
truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo
hình, báo điện tử.
1.1.2. Hoạt động báo chí
Là hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí, sản phẩm báo chí, sản phẩm thông
tin có tính chất báo chí; cung cấp thông tin và phản hồi thông tin cho báo chí; cải
chính thông tin trên báo chí; xuất bản, in, phát hành báo in; truyền dẫn báo điện tử
và truyền dẫn, phát sóng báo nói, báo hình [33, tr.1].
Như vậy, theo khái niệm nêu trên hoạt động báo chí là một khái niệm tổng
hợp bao gồm nhiều nhóm công việc mang tính chất như sau:
Thứ nhất là công tác sáng tạo ba nhóm đối tượng gồm: tác phẩm báo chí, sản
phẩm báo chí, sản phẩm thông tin có tính chất báo chí, cụ thể gồm:
a) Tác phẩm báo chí là đơn vị cấu thành nhỏ nhất của sản phẩm báo chí, có
nội dung độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, gồm tin, bài được thể hiện bằng chữ viết,
âm thanh hoặc hình ảnh [33, tr.1]
b) Sản phẩm báo chí là ấn phẩm, phụ trương của báo in; nội dung hoàn
chỉnh của báo điện tử; bản tin thông tấn; kênh phát thanh, kênh truyền hình; chuyên
trang của báo điện tử [33, tr.1].
c) Sản phẩm thông tin có tính chất báo chí là sản phẩm thông tin được thể
hiện bằng các thể loại báo chí, được đăng trên bản tin, đặc san, trang thông tin điện
tử tổng hợp của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp [33, tr.1].
Thứ hai cung cấp thông tin và phản hồi thông tin cho báo chí.
Thứ ba cải chính thông tin trên báo chí
11
Thứ tư công tác xuất bản, in, phát hành báo in. Báo in được hiểu là loại hình
báo chí sử dụng chữ viết, tranh, ảnh, thực hiện bằng phương tiện in để phát hành
đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in [33, tr.1].
Thứ năm hoạt động báo chí còn bao gồm công tác truyền dẫn báo điện tử và
truyền dẫn, phát sóng báo nói, báo hình.
Ba sản phẩm báo điện tử, báo nói và báo hình được hiểu là:
Báo nói là loại hình báo chí sử dụng tiếng nói, âm thanh, được truyền dẫn,
phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau [33, tr.1].
Báo hình là loại hình báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng nói,
âm thanh, chữ viết, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng
công nghệ khác nhau [33, tr.1].
Báo điện tử là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được
truyền dẫn trên môi trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử [33, tr.1].
1.2. Khái niệm, chủ thể, nội dung và vai trò của quản lý nhà nước đối
với hoạt động báo chí
1.2.1. Quản lý nhà nước
Là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước do tất cả
các cơ quan trong bộ máy nhà nước tiến hành, sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành
vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội [43, tr.41].
Nhà nước được xem là tổ chức do nhân dân lập nên, thay mặt nhân dân thực
thi ý chí và quyền lực của nhân dân trao cho, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản
lý toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở
Việt Nam, là công cụ thể hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, mang bản chất là
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trong xã hội, ngoài Nhà nước còn có rất nhiều chủ thể tham gia vào quản lý
xã hội như: Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng và các tổ chức
khác... Tuy nhiên, không có một cơ quan, tổ chức nào đủ sức mạnh và tầm vóc có
thể thay thế vai trò của Nhà nước trong quản lý toàn bộ hoạt động xã hội. Vì Nhà
nước được xem là người đại diện chính thức cho mọi giai cấp và tầng lớp trong xã
12
hội. Chính điều này mang lại cho Nhà nước một vai trò đặc biệt quan trọng, một
nền tảng cơ sở xã hội rộng rãi, vững chắc để có thể triển khai nhanh chóng và thực
hiện tốt những quyết định, chính sách của mình. Bên cạnh đó Nhà nước còn có sức
mạnh cưỡng chế, một thiết chế toàn diện nhằm đảm bảo cho việc ban hành và sử
dụng pháp luật để quản lý các quá trình xã hội.
1.2.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí
Khái niệm Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí:
Từ những phân tích về quản lý nói chung, theo chúng tôi quản lý nhà nước
về hoạt động báo chí là sự quản lý mang tính quyền lực nhà nước do tất cả các cơ
quan trong bộ máy nhà nước tiến hành, sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi
hoạt động của báo chí.
Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí:
- Thể hiện tính quyền lực, tính tổ chức chặt chẽ và tính mệnh lệnh đơn
phương của nhà nước
Quản lý nhà nước về hoạt động báo chí mang tính quyền lực được hiểu là
Nhà nước trao cho các chủ thể quản lý nhà nước về hoạt động báo chí những thẩm
quyền nhất định mà chỉ những chủ thể này mới có để có thể hiện tốt nhất những
chức trách, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp cần
thiết, chủ thể quản lý có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính nhất định
và được Nhà nước đảm bảo thực thi.
Tính tổ chức chặt chẽ trong quản lý nhà nước về hoạt động báo chí được thể
hiện ở một số mặt sau đây:
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động báo chí được tổ chức và
phân công trách nhiệm thống nhất từ trung ương đến cơ sở, thể hiện tính thứ bậc
chặt chẽ trong tổ chức và hoạt động, thẩm quyền giảm dần theo cấp bậc. Các chủ
thể này phải hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định của pháp luật. Nếu hoạt động không đúng phạm vi quy định sẽ dễ dẫn tới hành
vi lấn quyền, vượt quyền, lạm quyền gây ảnh hưởng tiêu cực. Trong quá trình hoạt
động, các cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo thực hiện đúng các mối quan hệ
13
giữa cơ quan quản lý cấp trên với cấp dưới; cơ quan quản lý ở trung ương với cơ
quan quản lý ở địa phương theo quy định của pháp luật.
Tính mệnh lệnh đơn phương xuất phát từ đặc trưng quan hệ giữa chủ thể
quản lý với các cơ quan báo chí – là đối tượng quản lý thể hiện rõ tính chất "quyền
lực - phục tùng". Đặc trưng này thể hiện sự không bình đẳng giữa chủ thể và đối
tượng quản lý được thể hiện ở:
Chủ thể quản lý đơn phương ban hành các mệnh lệnh cá biệt hay đặt ra các
quy định bắt buộc đối với đối tượng quản lý, buộc đối tượng quản lý phải phục
tùng, đồng thời kiểm tra việc thực hiện các mệnh lệnh, quy định ấy.
Căn cứ vào quy định của pháp luật để đáp ứng, cấp phép, cho phép, phê
duyệt hoặc bác bỏ các yêu cầu, kiến nghị của đối tượng quản lý. Trong trường hợp
này quyền quyết định cao nhất và cuối cùng vẫn thuộc về ý chí của cá nhân lãnh
đạo hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, nếu có sự trùng hợp về ý chí của
hai bên thì đó cũng không phải là sự thỏa thuận ý chí.
- Có mục tiêu chiến lược, có chương trình, kế hoạch để thực hiện mục
tiêu
Mục tiêu là cái đích mà chủ thể cần phải đạt được ở một thời điểm nhất định,
mục tiêu là chức năng cơ bản đầu tiên, là căn cứ để chủ thể đưa ra các hình thức và
phương pháp quản lý thích hợp. Mục tiêu quan trọng nhất của quản lý nhà nước về
hoạt động báo chí là bảo đảm các cơ quan báo chí luôn giữ vững tôn chỉ, mục đích
hoạt động, là “phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan
ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn
đàn của Nhân dân”[33, tr.1].
Để thực hiện hiệu quả mục tiêu đề ra, cơ quan quản lý nhà nước cần vạch ra
lộ trình, chương trình, kế hoạch cụ thể, sát hợp với thực trạng kinh tế - xã hội, với
đặc điểm riêng từng đối tượng quản lý.
- Có tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong điều hành, phối hợp hoạt
động, phát huy sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu
14
- Xem thêm -