Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn quản lý nhà nước về chứng thực từ thực tiễn quận hoàn kiếm, thành phố h...

Tài liệu Luận văn quản lý nhà nước về chứng thực từ thực tiễn quận hoàn kiếm, thành phố hà nội

.PDF
88
102
76

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ PHƯƠNG THẢO QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHỨNG THỰC TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ PHƯƠNG THẢO QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHỨNG THỰC TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGÔ HỒNG THỦY HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu, điều tra nêu trong luận án là trung thực. Kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong các công trình khác. Hà Nội, tháng 7 năm 2019 Tác giả luận án Hoàng Thị Phương Thảo MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHỨNG THỰC ......................................................................................................................... 5 1.1 Những vấn đề chung về chứng thực ................................................................. 5 1.2 Quản lý nhà nước về chứng thực .................................................................... 15 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHỨNG THỰC TẠI ĐỊA BÀN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................... 25 2.1. Khái quát về quận Hoàn Kiếm ...................................................................... 25 2.2 Thực trạng hoạt động QLNN về chứng thực trên địa bàn quận Hoàn Kiếm.. 28 2.3. Đánh giá chung công tác QLNN về chứng thực trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. ...................................................................................... 50 Chương 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHỨNG TẠI ĐỊA BÀN QUẬN HOÀN KIẾM , THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................... 60 3.1. Định hướng QLNN về chứng thực tại địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội ................................................................................................................... 60 3.2. Các giải pháp nhằm tăng cường QLNN về chứng thực tại địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội ............................................................................. 66 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 80 DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 2.1. Số lượng văn bản quản lý ban hành về công tác chứng thực ...................28 Bảng 2.2. Hoạt động của quận từ năm 2016 đến năm 2018 .....................................40 Bảng 2.3. Kết quả thực hiện chứng thực tại UBND 18 Phường trong 7 tháng đầu năm 2019 ...................................................................................................................43 Bảng 2.4. Số liệu về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về chứng thực ....................48 Biểu đồ 2.2. Biểu đồ kết quả chứng nhận các loại hợp đồng, văn bản qua 3 năm 2016-2018..................................................................................................................41 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời kỳ hội nhập phát triển kinh tế hiện nay, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Với mục tiêu năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Cùng với sự phát triển của xã hội thì nhu cầu giao dịch ngày càng tăng. Để thuận tiện cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước đồng thời đáp ứng nhu cầu giao dịch, trao đổi của công dân. Nhà nước đã cấp cho công dân nhiều loại giấy tờ: chứng minh thư, bằng lái xe, bằng đại học, chứng chỉ, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất…Các loại giấy tờ trên về nguyên tắc chỉ được cấp một lần với một bản duy nhất. Trong đời sống xã hội nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội góp phần đáp ứng nhu cầu của người dân về sử dụng nhiều loại giấy tờ vào một mục đích, một loại giấy tờ vào nhiều mục đích. Nhà nước đã tiến hành hoạt động chứng thực bản sao là sao đúng với bản chính nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch có sử dụng bằng bản sao, đảm bảo quản lý nhà nước được hiệu quả. Theo quy định của pháp luật thì chứng thực là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền (phòng tư pháp cấp huyện, UBND cấp xã, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài) căn cứ vào bản chính để xác nhận bản sao các loại văn bản giấy tờ là đúng với bản chính. Ngày 18/5/2007, Chính Phủ ban hành Nghị Định 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. NĐ 04/2012/NĐ-CP ngày 20/01/2012 của Chính Phủ sửa đổi, bổ sung điều 5 của NĐ 79/2007/NĐ-CP. Ngày 16/02/2015 Chính Phủ ban hành Nghị Định 23/2015/NĐ – CP Về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Đây là văn bản pháp luật đã tạo ra điểm mới trong hoạt động chứng thực. Sự phân cấp mạnh mẽ về thẩm quyền chứng thực giữa cấp huyện, cấp xã, văn phòng công chứng. Tất cả các văn bản, tài liệu có dấu của nước ngoài xác nhận sẽ thuộc thẩm quyền UBND cấp huyện, phòng công chứng, văn phòng công chứng; UBND cấp xã chứng thực văn bản có dấu đóng xác nhận của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, các văn bằng chứng chỉ song ngữ. Với hoạt động chứng thực chữ ký công dân không bắt buộc phải làm tại nơi có hộ khẩu 1 thường trú mà có thể làm tại bất kỳ cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện, cấp xã chỉ cần mang theo giấy tờ tùy thân như :chứng minh thư hoặc hộ chiếu còn hạn sử dụng và bản chính của giấy tờ cần xác nhận chữ ký. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chứng thực của công dân. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động chứng thực còn phát sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Hoạt động quản lý nhà nước về chứng thực còn nhiều bất cập, hạn chế từ yếu tố thể chế chứng thực đến công tác tổ chức thực hiện chứng thực. Vì vậy, tôi chọn đề tài “ Quản lý nhà nước về chứng thực từ thực tiễn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn là đáp ứng yêu cầu đặt ra cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến quá trình nghiên cứu của luận văn có một số công trình khoa học được công bố, trong đó có thể kể đến một số công trình sau: - “ Giới thiệu vài nét về xây dựng hoàn thành công chứng nhà nước ở thành phố Hà Nội”, đăng trên tạp chí Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp năm 1995 [2]. Luận văn Thạc sỹ Quản lý hành chính công: “ Quản lý nhà nước về chứng thực hiện nay – Qua nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Ngô Sỹ Chung [12]. Luận văn đã phân tích hoạt động chứng thực và nội dung quản lý nhà nước về chứng thực theo tinh thần Nghị Định 79/2007/NĐ – CP nêu lên thực trạng và thách thức trong quản lý nhà nước đối với hoạt động của chính quyền và nghành tư pháp thành phố Hà Nội. Về phạm vi, luận văn khảo sát thực tiễn ở cấp huyện và cấp xã trên địa bàn thành phố Hà Nội. Luận văn Thạc sỹ Quản lý hành chính công: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động chứng thực huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Duy Giang [16] . Luận văn phân tích hoạt động chứng thực và nội dung quản lý nhà nước về chứng thực theo tinh thần NĐ 79/2007/NĐ – CP, nêu lên thực trạng và thách thức trong quản lý nhà nước đối với hoạt động của chính quyền huyện Hoài Đức và ngành tư pháp thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công “Quản lý nhà nước về chứng thực trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội” của tác giả Phan Thanh Hương [19]. Luận văn đã phân tích hoạt động chứng thực và nội dung quản lý nhà nước về chứng thực theo tinh thần NĐ 79/2007 NĐ- CP. - Quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực ở nước ta hiện nay và những 2 vấn đề đặt ra, Đặng Văn Trường [28] – Quản lý nhà nước – Học viện Hành chính Quốc gia số 1/2010 . Quyết định 07/QĐ-TTR ngày 01/4/2013 của Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp về việc sửa đổi, bổ sung kế hoạch thanh tra được ban hành kèm theo Quyết định thanh tra số 05/QĐ-TTR ngày 22/3/2013 của Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp về thanh tra chuyên ngành công tác hộ tịch trong nước và chứng thực tại thành phố Hà Nội từ ngày 02/4/2013 đến ngày 30/5/2013 [5]. - Thành ủy Hà Nội, Chương trình 08-CTr-TU ngày 18/10/2011 của Thành ủy Hà Nội về “ Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức giai đoạn 2011-2015” [26]. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là: Làm rõ cơ sở lý luận, đi sâu vào phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về chứng thực trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Chỉ ra ưu điểm, nhược điểm trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chứng thực. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý nhà nước về chứng thực trên thực tiễn tại địa bàn quận Hoàn Kiếm Thành phố Hà Nội 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về quản lý nhà nước về chứng trên thực tiễn tại địa bàn quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước, chương trình cải cách nền hành chính đặc biệt là cải cách thể chế hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, diễn dịch, quy nạp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh… 6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn góp phần đưa cái nhìn tổng thể, có hệ thống về hoạt động chứng 3 thực tại địa bàn quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội theo quy định của pháp luật hiện hành. Luận văn sẽ đưa ra một cái nhìn tổng thể quản lý về chứng thực gắn liền với việc triển khai cơ chế “ Một cửa”, dưới góc độ là quản lý cung ứng dịch vụ công cho người dân. Làm cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động chứng thực, quản lý nhà nước về chứng thực nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính giai đoạn tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương. 4 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHỨNG THỰC 1.1 Những vấn đề chung về chứng thực 1.1.1. Khái niệm “ chứng thực” Để hiểu được khái niệm pháp luật về chứng thực, trước hết, cần làm rõ khái niệm “chứng thực”. “Chứng thực” là một thuật ngữ khá phức tạp, cần được tìm hiểu dưới góc độ ngôn ngữ học và dưới góc độ khoa học pháp lý và quản lý. Do vậy, cần phải so sánh, tìm hiểu các quan niệm khác nhau về chứng thực ở trong nước cũng như những khái niệm tương ứng của khoa học pháp lý nước ngoài. Về khía cạnh ngôn ngữ, theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ, Nxb Đà Nẵng năm 1997 có một số định nghĩa có liên quan đến chứng thực, sao: “Sao, chép lại hoặc tạo ra bản khác theo đúng bản gốc (thường nói về giấy tờ hành chính). Sao đúng nguyên văn một tài liệu. Sao y bản chính. Bản sao”. Còn về xác nhận được giải thích: “Xác nhận thừa nhận đúng sự thật chữ kí, xác nhận lời khai”. Về chứng thực được định nghĩa “Nhận cho để làm bằng là đúng sự thật. Chứng thực lời khai. Xác nhận là đúng. Thực tiễn đã chứng thực điều đó”. Như vậy, nghĩa của từ “chứng thực” xét về góc độ ngôn ngữ còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Về khía cạnh pháp lý, khái niệm “chứng thực” hoàn toàn không dễ định nghĩa, để hiểu rõ hơn khái niệm này, cần hiểu về các định nghĩa khác nhau của khoa học pháp lý nước ta qua các thời kỳ, cũng như cách định nghĩa khác nhau của khoa học pháp lý nước ngoài. - Quan niệm của khoa học pháp lý nước ngoài: Từ góc độ luật học, qua tham khảo một số tài liệu pháp lý nước ngoài có thể thấy, trong khoa học pháp lý một số nước cũng có những khái niệm tương đương với khái niệm “chứng thực” trong tiếng Việt. Tại Thụy Sĩ có quy định về hoạt động công chứng và chứng thực. Theo quy định Luật công chứng và chứng thực ngày 30.08.2011 của bang Aargau, Thụy Sĩ điều chỉnh việc công chứng và chứng thực trong phạm vi của bang Aargau. Tại Điều 2 khoản 3 Luật công chứng của Thụy Sĩ: “Việc chứng thực áp dụng đối với chữ ký, bản sao chụp, trích lục, sao chép hoặc bản dịch”. Mặc dù Luật của Thụy Sĩ chưa tách riêng thành Luật công chứng, Luật chứng thực nhưng cũng đã có quy định điều chỉnh về chứng thực. 5 Theo quy định của Luật công chứng Cộng hoà liên bang Đức ngày 28/9/1969 tại chương III có quy định các việc công chứng khác, điều chỉnh về chứng thực. Cụ thể tại Khoản 1, Điều 42 quy định chứng thực bản sao: “Khi chứng thực bản sao một văn bản cần xác định đó là bản chính”. Tại Điều 39 Luật này cũng quy định về chứng thực đơn giản: Khi chứng thực chữ ký, dấu vân tay, tên hãng cũng như khi chứng thực thời điểm xuất trình giấy tờ cá nhân, chứng thực việc đã vào sổ đăng ký hoặc chứng thực các bản sao lục và các văn bản đơn giản khác thì chỉ cần một văn bản công chứng thay vì biên bản công chứng, trong đó có chữ ký, dấu niêm phong và ghi rõ ngày, nơi lập, văn bản công chứng là đủ. Tại khoản 1, 2, 3 Điều 40 của Luật này quy định về chứng thực chữ ký: Một chữ ký chỉ được chứng thực bởi công chứng viên biết chữ ký hoặc lấy được chữ ký đó; Công chứng viên chỉ cần kiểm tra lại văn bản xem có tồn tại lý do nào đó gây phương hại đến việc hành nghề của mình; Khi chứng thực phải khái quát nhân thân đương sự - người mà công chứng viên biết hoặc lấy được chữ ký và phải nói rõ là công chứng viên biết trước chữ ký hay vừa lấy chữ ký. Như vậy, các văn bản pháp luật nước ngoài cũng chỉ đưa ra thuật ngữ “chứng thực” với những việc làm, hành động cụ thể mà không đưa ra khái niệm về “chứng thực”. - Quan niệm về “chứng thực” trong các văn bản pháp luật trước năm 2015: + Trong Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ, Hồ Chủ tịch không dùng thuật ngữ “chứng thực” mà sử dụng thuật ngữ “thị thực”: Các Ủy ban có quyền thị thực tất cả các giấy má trong địa phương mình, bất kỳ người đương sự làm giấy má ấy thuộc về quốc tịch nào. Tuy nhiên, Ủy ban thị thực phải là Ủy ban ở trú quán một bên đương sự lập ước và về việc bất động sản phải là Ủy ban ở nơi sở tại bất động sản. + Thông tư số 858/QLTPK là văn bản đầu tiên xuất hiện thuật ngữ “chứng thực”: Tất cả các đơn từ, giấy tờ khác có nội dung không trái pháp luật và đạo đức xã hội chủ nghĩa, thì có thể được công chứng viên chứng thực chữ ký của người lập ra chúng. Khi chứng nhận chữ ký, công chứng viên không phải kiểm tra, xác nhận nội dung của việc trong đơn từ, giấy tờ, mà chỉ cần xem nội dung các văn bản đó có trái pháp luật và các quy định hiện hành hay không? Nếu thấy nội dung và các sự việc nêu trong đơn từ, giấy tờ có thể có hại cho người ký, thì công chứng viên giải thích cho đương sự hiểu hậu quả pháp lý của nó. Sau khi đã kiểm tra chữ ký của 6 đương sự, công chứng viên phải yêu cầu đương sự ký vào đơn từ, giấy tờ và ghi chứng thực theo mẫu. + Nghị định số 31/CP đã giao cho UBND thực hiện việc chứng thực: Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh chứng thực các việc do pháp luật quy định và chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính, trừ các việc được quy định tại khoản 1, 2 Điều 18 của Nghị định này Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực việc từ chối nhận di sản, chứng thực di chúc và các việc khác do pháp luật quy định. + Nghị định số 75/2000/NĐ-CP là văn bản đầu tiên đưa ra khái niệm “chứng thực” là gì: Chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này”. + Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký không có khái niệm chung về “chứng thực” mà chỉ đưa ra khái niệm về chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký: “Chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính”; “Chứng thực chữ ký là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã yêu cầu chứng thực”. - Khái niệm “chứng thực” trong pháp luật hiện hành Theo Nghị định số 23/2015/NĐ-CP Chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính. "Chứng thực chữ ký" là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người yêu cầu chứng thực. “Chứng thực hợp đồng, giao dịch” là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch”. Về cơ bản, Nghị định này kế thừa khái niệm về “chứng thực” của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP và bổ sung thêm quy định mới về khái niệm “chứng thực hợp đồng, giao dịch”. Như vậy, trải qua các thời kỳ đến nay, chưa có văn bản pháp luật nào đưa ra một khái niệm rõ ràng, bao quát được đúng bản chất của hoạt động chứng thực, mà 7 chủ yếu đưa ra khái niệm chứng thực của một việc cụ thể nào đó. Tuy nhiên, phân tích từ các khái niệm nêu trên thì có thể đưa ra một khái niệm chung nhất: Chứng thực là việc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng thực xác nhận tính chính xác, tính có thực của các giấy tờ, văn bản, chữ ký của cá nhân, các sự kiện pháp lý, thông tin cá nhân để phục vụ trong các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính… 1.1.2. Vai trò của pháp luật về chứng thực Thứ nhất, quản lý nhà nước về chứng thực tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động chứng thực và quản lý chứng thực Căn cứ vào các quy định của pháp luật về chứng thực, cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu được quyền, nghĩa vụ của mình khi có yêu cầu chứng thực; các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng thực có cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng của mình. Về mặt quản lý nhà nước, đó là các hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan hành pháp khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được nhà nước giao trong việc quản lý chứng thực. Thông qua hoạt động quản lý nhà nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nắm bắt được các nhu cầu về việc sử dụng bản sao có chứng thực, giấy tờ, văn bản có chứng thực chữ ký, qua đó, đưa ra những chính sách phù hợp để điều chỉnh hoạt động này đúng với yêu cầu của quản lý, tránh việc sử dụng tràn lan gây lãng phí cho xã hội. - Thứ hai, quản lý nhà nước về chứng thực tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền nhân thân của công dân. Do bản sao được chứng thực từ bản chính có giá trị sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Chữ ký được chứng thực có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản. Hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị chứng cứ chứng minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Như vậy, xét về mục đích chung, thì thông qua hoạt động chứng thực, Nhà nước cung cấp dịch vụ công nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho hợp đồng, giao dịch, tạo lập giá trị pháp lý cho các giấy tờ, văn bản được chứng thực phục vụ nhu cầu sử dụng, tạo sự tin tưởng vững chắc cho các tổ chức, cá nhân khi sử dụng và 8 thực hiện thủ tục hành chính nói chung. Qua đó, giúp cho người thực hiện giao dịch của mình được thuận lợi hơn. Thực tế cũng cho thấy, việc sử dụng bản sao có chứng thực một cách hợp lý đã góp phần giảm chi phí đi lại, giảm rủi ro thất lạc bản chính giấy tờ, văn bản của người dân. Có thể nói, hoạt động chứng thực không chỉ mang tính chất dịch vụ công, phục vụ lợi ích thiết thực của nhân dân, mà còn là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép công dân, tổ chức thực hiện một cách hợp pháp các giao dịch của mình; điều kiện cần để các giao dịch dân sự được bảo đảm thực hiện trên thực tế và là cơ sở pháp lý để tòa án giải quyết cho các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khi có tranh chấp xảy ra; công cụ hỗ trợ cho chức năng quản lý nhà nước trong thực tiễn quản lý, giản tiện những thủ tục có liên quan đến các loại giấy tờ cần thiết. 1.1.3. Quá trình phát triển hoạt động chứng thực từ thời kỳ đầu đổi mới năm 1986 đến nay 1.1.3.1. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm trước 2000 Giai đoạn từ năm 1954 - 1981 có rất ít quy phạm điều chỉnh hoạt động công chứng, chứng thực. Đến năm 1981 có Nghị định 143 của Hội Đồng Bộ trưởng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp. Trên cơ sở của Nghị định 143, năm 1987 có thông tư số 574/QLTP quy định về công tác công chứng nhà nước được ban hành với cùng với nó là sự ra đời của phòng công chứng TP. Hồ Chí Minh, phòng công chứng Hà Nội và một số phòng công chứng ở các địa bàn khác (nếu có nhu cầu), công tác công chứng, chứng thực của UBND cũng được kiện toàn. Sau đó, để tạo điều kiện hơn nữa cho các địa phương tiếp cận với hoạt động công chứng, Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng, tại thời điểm này chủ thể duy nhất thực hiện công chứng là phòng công chứng. Căn cứ vào những văn bản này thì các tỉnh thành trên cả nước đã lập ra các phòng công chứng dần dần hình thành mạng lưới các phòng công chứng trên cả nước. Tại đại hội Đảng VI năm 1986 nước ta đã có những chuyển biến to lớn sang thời kỳ của mở cửa và hội nhập. Nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân thời kỳ này và theo quan điểm chỉ đạo của Đảng, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Theo quy định của Nghị định này thì : “Phòng công chứng Nhà nước là cơ quan thuộc Ủy 9 ban nhân dân tỉnh, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng ở ngân hàng, có con dấu mang hình quốc huy.” Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định 31/CP về tổ chức và hoạt động của công chứng Nhà nước vào ngày 18/5/1996 thay thế cho nghị định số 45/HĐBT, theo đó phòng công chứng là thuộc Sở tư pháp, quy định này là nhằm chuyên môn hóa hoạt động công chứng và giảm tải cho Ủy ban nhân dân. Có thể nói, thời kỳ này, hai hoạt động công chứng và chứng thực còn bị lẫn lộn về nhiều mặt: về tên gọi, về chủ thể, về nội dung, về phạm vi thực hiện… và luôn được điều chỉnh chung trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật. Các Phòng công chứng bên cạnh việc công chứng hợp đồng, giao dịch vẫn được giao thực hiện công việc chứng nhận bản sao (có tính chất giản đơn hơn), còn Ủy ban nhân dân cấp xã lại không có thẩm quyền chứng thực bản sao. Thời kỳ này, khái niệm chứng thực cũng manh nha hình thành song còn rất mờ nhạt. Trên thực tế, các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội chỉ biết đến khái niệm “công chứng” mà không biết đến khái niệm “chứng thực”. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng người dân đổ dồn về các Phòng Công chứng để yêu cầu công chứng bản sao, gây ra tình trạng quá tải, ách tắc tại các Phòng công chứng trong một thời gian dài (giai đoạn này Ủy ban nhân dân cấp huyện cũng có thẩm quyền chứng thực bản sao nhưng rất ít người biết đến, thậm chí có trụ sở UBND cấp huyện chỉ cách Phòng Công chứng vài trăm mét nhưng rất ít người đến yêu cầu chứng thực bản sao trong khi tại Phòng Công chứng thì quá tải). Trong giai đoạn này, việc phải giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện một số việc của công chứng nhằm đáp ứng các mục tiêu: - Từng bước hoàn thiện cơ quan công chứng chuyên trách, để bảo đảm thực hiện các yêu cầu công chứng một cách chặt chẽ, tin cậy; - Tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng, chứng thực; Như vậy, giai đoạn này có sự pha trộn giữa hoạt động công chứng với tư cách là hoạt động nghiệp vụ của công chứng viên với hoạt động chứng thực là hành vi hành chính của cơ quan hành chính công quyền (Ủy ban nhân dân các cấp). Điều này thể hiện ở việc Phòng Công chứng vừa chứng nhận các hợp đồng, giao dịch vừa chứng nhận bản sao giấy tờ từ bản chính; mặt khác UBND cấp huyện cũng vừa chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính vừa chứng thực hợp đồng, giao dịch. Việc 10 pha trộn giữa hai loại hoạt động công chứng và chứng thực như vậy đã dẫn tới tình trạng không phân biệt hành vi nào là hành vi mang tính dịch vụ, có thu phí hoặc lệ phí và hành vi nào là hành vi hành chính, là trách nhiệm của cơ quan hành chính công quyền phải phục vụ dân. Mặt khác, sự pha trộn đó cũng biến hoạt động công chứng thành hoạt động mang tính chất hành chính khô cứng, quan liêu. Giai đoạn này, Phòng Công chứng là cơ quan nhà nước, do Nhà nước thành lập và trực thuộc Sở Tư pháp. Công chứng viên là công chức nhà nước, việc làm và thu nhập luôn được đảm bảo, không phụ thuộc vào lượng khách hàng, vì vậy dẫn đến hiện tượng nhiều Phòng công chứng/công chứng viên có biểu hiện cửa quyền, sách nhiễu, gây khó khăn cho cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tình trạng người dân phải xếp hàng, chờ đợi trước cửa Phòng Công chứng để được công chứng diễn ra phổ biến. Tình trạng nhờ vả, chạy chọt để được công chứng một hợp đồng, giao dịch (thậm chí cả bản sao) cũng phổ biến. Chính sự độc quyền này đã tạo cho công chứng viên có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Nạn “cò công chứng” cũng vì thế mà trở nên phổ biến, gây bức xúc trong nhân dân. Giai đoạn này, các việc công chứng, chứng thực được thực hiện cũng rất đơn giản và do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục công chứng/chứng thực nên có thể nói hoạt động công chứng/chứng thực chưa được diễn ra bài bản, chuyên nghiệp. Trình tự/thủ tục công chứng/chứng thực giai đoạn này còn chưa hạn chế được sự tùy tiện. 1.1.3.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2007 Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đến năm 2000, công chứng, chứng thực ở Việt Nam đã chứng tỏ là một công cụ đắc lực phục vụ quản lý nhà nước có hiệu quả góp phần tích cực phòng ngừa tranh chấp, tạo ra sự an toàn pháp lý cho các quan hệ giao dịch trong xã hội. Ngày 08/02/2000 Chính phủ ban hành Nghị định 75/NĐ –CP về công chứng, chứng thực. Nghị định này quy định về phạm vi của công chứng, chứng thực; tổ chức phòng công chứng, chứng thực; nguyên tắc hoạt động, trình tự thủ tục của việc công chứng, chứng thực; công tác chứng thực của Ủy ban nhân nhân cấp huyện, thị xã thành phố thuộc tỉnh và UBND cấp xã, phường, thị trấn. Cũng từ Nghị định này thì thuật ngữ “phòng công chứng Nhà nước” đã được thay thế bằng “Phòng công chứng” thể hiện quan điểm xã hội hòa hoạt động công chứng của Nhà nước ta.Đây là Nghị Định có nhiều điểm mới so với các văn bản trước đây như khái niệm công 11 chứng, chứng thực được phân biệt rạch ròi; phạm vi công chứng, chứng thực được quy định rộng hơn; trình tự thủ tục được quy định rõ ràng, cụ thể... Về tính chất hành vi công chứng, chứng thực là một hoạt động bổ trợ tư pháp, là một loại dịch vụ công nhằm xác định tính chân thực và đúng pháp luật của bản sao của các loại hồ sơ, giấy tờ mang tính pháp lý và các giao dịch dân sự. Theo quy định tại nghị định số 75/2000/NĐ-CP các cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực gồm có: các phòng công chứng nhà nước; UBND cấp huyện; UBND cấp xã; Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài. Bên cạnh đó, cơ quan tổ chức cấp bản gốc các loại hồ sơ, giấy tờ mang tính pháp lý cũng có quyền chứng thực bản sao. Như vậy, ở giai đoạn này, hai hoạt động công chứng và chứng thực bước đầu đã có sự phân biệt, tuy nhiên mới chỉ dừng lại phân biệt ở chủ thể thực hiện, chưa căn cứ vào hành vi, tính chất công việc. Ví dụ cùng một loại việc nhưng nếu do Phòng Công chứng thực hiện thì được gọi là công chứng, do Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện thì được gọi là chứng thực. Có thể nói, việc ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP là một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng thể chế về hoạt động chứng thực. Nghị định số 75/2000/NĐ-CP với những quy định khá chi tiết, cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục… thực hiện các loại việc chứng thực, lần đầu tiên đã tạo cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ, rõ ràng cho hoạt động chứng thực, tạo thuận lợi cho người thực hiện chứng thực. Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã đưa hoạt động chứng thực, đặc biệt là hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch ở nước ta đi vào nền nếp và có những đóng góp tích cực trong việc đáp ứng nhu cầu chứng thực của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mọi vùng miền, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn…, góp phần phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự, kinh tế. 1.1.3.3. Giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2014 Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra, đặc biệt là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, với mục đích tạo điều kiện cho công tác công chứng, chứng thực ở Việt Nam phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, phục vụ tốt hơn nhu cầu công chứng, 12 chứng thực của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội, ngày 29/11/2006, Quốc Hội đã thông qua Luật công chứng và ngày 18/5/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Từ đây, hoạt động công chứng và chứng thực đã tách bạch. Việc ban hành Luật công chứng và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP là phù hợp trong giai đoạn này, đặc biệt việc xã hội hóa hoạt động công chứng và giao việc chứng thực bản sao cho UBND cấp xã thực hiện là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về công chứng, chứng thực, đưa hoạt động công chứng phát triển theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế và gắn hoạt động chứng thực với vai trò của chính quyền địa phương. Từ thời điểm này, hoạt động công chứng và chứng thực đã có sự tách bạch, nhiệm vụ của hoạt động công chứng và chứng thực đã được phân biệt tương đối rạch ròi, phù hợp với tình hình thực tế của giai đoạn này. Theo đó, tổ chức hành nghề công chứng được giao nhiệm vụ chính là công chứng hợp đồng, giao dịch, không còn đảm nhận nhiệm vụ mang tính chất chứng thực là chứng thực bản sao, chữ ký. Theo quy định của Luật Công chứng thì Phòng công chứng và Văn phòng công chứng có nhiệm vụ là:“chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Còn Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã theo quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP được giao nhiệm vụ chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản và chứng thực chữ ký (giai đoạn này, UBND cấp xã đã được chính thức giao nhiệm vụ chứng thực bản sao từ bản chính). Việc mở rộng phân cấp thẩm quyền chứng thực cho Ủy ban nhân dân cấp xã đã đưa cơ quan chứng thực đến gần dân hơn, tạo thuận lợi cho người dân. Đồng thời, việc tổ chức hành nghề công chứng chấm dứt công chứng bản sao đã “buộc” người dân làm quen với hoạt động chứng thực bản sao tại UBND cấp xã, cấp huyện, chấm dứt tình trạng ách tắc, quá tải tại các phòng công chứng. Tuy nhiên, dù đã cố gắng phân định như vậy nhưng giai đoạn này nhiệm vụ của hoạt động công chứng và chứng thực vẫn có sự giao thoa, chồng lấn, chưa thể hoàn toàn phân định tách bạch, rõ ràng cho phù hợp với bản chất của hai loại hoạt động này. Nguyên nhân là do hiện nay mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng chưa đủ để đáp ứng được nhu cầu của nhân dân trên địa bàn toàn quốc nên UBND cấp huyện, cấp xã tại một số địa bàn nơi chưa có tổ chức hành nghề công chứng 13 hoặc tuy có nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân vẫn tạm thời thực hiện nhiệm vụ chứng thực hợp đồng, giao dịch. 1.1.3.4. Giai đoạn từ tháng 4/2015 đến nay Do đặc điểm tình hình hình giai đoạn này đã có sự thay đổi, sau nhiều năm thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, số lượng các tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên trên toàn quốc đã tăng lên đáng kể, không còn tình trạng ách tắc, quá tải tại các tổ chức hành nghề công chứng nữa. Cùng với đó, cơ chế xin – cho trước đây đã được thay thế bằng cơ chế dịch vụ, mà ở đó khách hàng được coi trọng; những tiêu cực trước đây trong hoạt động công chứng cũng không còn. Trước tình hình này, ngày 20/6/2014 Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Công chứng mới. Luật Công chứng năm 2014 đã giao trở lại cho tổ chức hành nghề công chứng thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và thẩm quyền công chứng bản dịch. Có thể nói, việc giao trở lại cho tổ chức hành nghề công chứng các thẩm quyền này là phù hợp với tình hình hiện nay, một mặt vừa tạo thêm một “kênh” để người dân lựa chọn, một mặt vừa tạo điều kiện cho các tổ chức hành nghề công chứng duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động. Còn với sự ra đời của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, thì về cơ bản hoạt động chứng thực vẫn được duy trì tại UBND cấp huyện, cấp xã, bên cạnh đó là hoạt động chứng thực bản sao, chữ ký tại tổ chức hành nghề công chứng. Tuy nhiên, để đảm bảo phù hợp với điều kiện, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác chứng thực, việc chứng thực hợp đồng, giao dịch đã được đơn giản hóa, đặc biệt là giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được chứng thực. Theo đó, hợp đồng, giao dịch được chứng thực chỉ có giá trị “hình thức,” tức có giá trị pháp lý thấp hơn so với hợp đồng, giao dịch được công chứng. Điều này là phù hợp với thực tế vì hiện nay, tại những tỉnh, thành phố lớn nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển thì việc chứng thực hợp đồng, giao dịch đã được chuyển giao cho các tổ chức hành nghề công chứng. Chỉ tại những địa phương vùng sâu, vùng, xa, vùng kinh tế khó khăn... thì UBND cấp huyện, cấp xã vẫn tiếp tục đảm đương nhiệm vụ chứng thực hợp đồng, giao dịch. Việc chứng thực hợp đồng, giao dịch theo quy định tại Nghị định 23/2015/NĐ-CP một mặt vừa làm giảm thủ tục cũng 14 như lệ phí cho bà con nơi đây, mặt khác vẫn đảm bảo yêu cầu của pháp luật trong trường hợp giao dịch đó buộc phải có công chứng/chứng thực. Chỉ trong trường hợp phát sinh tranh chấp thì do hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị pháp lý thấp hơn nên độ an toàn không cao bằng hợp đồng, giao dịch được công chứng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy giao dịch diễn ra tại những địa phương này thường là đơn giản, có giá trị nhỏ vì vậy khả năng phát sinh tranh chấp không cao hoặc nếu có cũng không quá khó để giải quyết. 1.2 Quản lý nhà nước về chứng thực 1.2.1 Khái niệm Quản lý, Quản lý Nhà nước 1.2.1.1 Quản lý Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng thuật ngữ quản lí được định nghĩa là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan” [36;tr.127]. Quản lý là một chức năng lao động- xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động. Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành nhóm, đã biết phối hợp các nỗ lực cá nhân để thực hiện mục tiêu duy trì sự sống. Từ khi xuất hiện nền sản xuất xã hội, nhu cầu phối hợp các hoạt động riêng lẻ càng tăng lên. Bất cứ một tổ chức, một lĩnh vực nào, từ sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân, của một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính sự nghiệp… đến một tập thể nhỏ như tổ chuyên môn, tổ sản xuất, bao giờ cũng có hai phân hệ: Người QL và đối tượng QL. Sự cần thiết của QL trong một tập thể lao động được K.Marx viết: “Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung, phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ sở sản xuất khác với sự vận động của những cơ quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng” [20,Tr.11]. Như vậy, K.Marx đã lột tả được bản chất của QL là một hoạt động lao động để điều khiển lao động, một hoạt động tất yếu vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển loài người. QL trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và có liên quan đến mọi người. Đó là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân công hợp tác để làm một công việc nhằm đạt một mục tiêu chung. QL là một khái niệm rộng bao gồm nhiều lĩnh vực, vì vậy có nhiều định 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan