Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật ...

Tài liệu Luận văn quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật việt nam hiện nay

.PDF
84
144
124

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ QUỲNH MAI QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên chưa được công bố ở bất cứ đâu. Các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận văn được chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Quỳnh Mai MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 6 1.1 Khái quát chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 6 1.2 Pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 16 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 27 2.1Thực trạng pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 27 2.2 Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 40 CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 57 3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 57 3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 59 KẾT LUẬN 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO 74 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo Điều 51 Hiến pháp 2013, “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Doanh nghiệp nhà nước (trong luận văn gọi tắt là DNNN) là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Tuy nhiên trên thực tế, vai trò của DNNN là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế còn hạn chế. Các sai phạm về quản lý vốn nhà nước tại các DNNN còn khá phổ biến. Thời gian qua phát sinh nhiều vụ án lớn, gây thiệt hại hàng ngàn tỷ cho đất nước. Một số tập đoàn, tổng công ty đã thành lập các công ty con và đầu tư vào những lĩnh vực ngoài nhiệm vụ chính được giao nhưng kiểm soát thiếu chặt chẽ làm phân tán nguồn lực, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do pháp luật về quản lý hoạt động nói chung và quản lý vốn nói riêng của DNNN còn hạn chế, kém hiệu quả, tạo kẻ hở để phát sinh tiêu cực. Việc tổ chức thực hiện quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN tuy đã rõ hơn nhưng vẫn còn nhiều lúng túng và quản lý kém hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động DNNN còn mang tính hình thức, chưa thực sự là công cụ để cảnh báo, ngăn ngừa hạn chế rủi ro. Do đó, để hạn chế tình trạng thất thoát vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp, nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, Nhà nước cần hoàn thiện hơn hành lang pháp luật về quản lý vốn của DNNN cũng như nâng cao hiệu quả thực thi công tác này. Xuất phát từ các yêu cầu trên, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ. 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN theo pháp luật Việt Nam đã được nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài tác giả đã lựa chọn là: Luận án tiến sĩ của Phạm Thị Thanh Hòa về đề tài “Cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp ở Việt Nam”, năm 2012. Luận án đã làm rõ cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Luận án đã đánh giá thực trạng về vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp từ góc độ quản lý của chủ sở hữu Nhà nước bao gồm: cơ chế đầu tư, cơ chế quản lý sử dụng, cơ chế phân phối lợi nhuận sau thuế, cơ chế kiểm tra giám sát, hình thức thực hiện quyền chủ sở hữu. Luận án đã đưa ra một số quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp như hoàn thiện hình thức đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, xác định rõ vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và vốn của doanh nghiệp, hoàn thiện cơ chế đầu tư vốn vào doanh nghiệp trong đó xác định rõ mục tiêu, phương thức và những lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư vốn nhà nước, … Tuy nhiên luận án vẫn chưa nêu được tác động của công tác quản lý, sử dụng vốn đến hiệu quả hoạt động của DNNN. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Kim Đoan về đề tài “Quản lý vốn nhà nước tại các DNNN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, 2016. Luận án giới hạn việc quản lý vốn nhà nước trong 04 nội dung: thực hiện đầu tư vốn, quản lý quá trình sử dụng vốn trong giới hạn thẩm quyền tác động của chủ sở hữu doanh nghiệp, quản lý phân phối kết quả sử dụng vốn và giám sát vốn nhà nước tại DNNN. Luận án đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng và đánh giá quá trình quản lý vốn nhà nước tại các DNNN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2010-2014, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại các DNNN trên địa bàn như đổi mới chính sách tuyển dụng cán bộ quản lý, bổ sung các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh doanh của DNNN, đề xuất cơ chế 2 kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước và chú trọng hoạt động giám sát tài chính DNNN. Luận án tiến sĩ của Phạm Phú Quốc về đề tài “Quản lý hiệu quả vốn tại các Doanh nghiệp nhà nước – từ thực tiễn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên của Thành phố Hồ Chí Minh”, 2015. Luận án đã khảo sát, phân tích đánh giá nguyên nhân dẫn đến hiệu quả hoặc hạn chế hiệu quả trong quản lý vốn nhà nước tại các Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; sau đó đưa ra các kiến nghị theo bốn nhóm vấn đề: Chủ thể quản lý vốn; Nội dung quản lý vốn; Hình thức quản lý vốn và Cơ chế kiểm tra, giám sát vốn nhà nước đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Minh Phương về đề tài Cơ chế đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, (2018). Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, luận văn đã đưa ra 4 nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước trong các doanh nghiệp ở Việt Nam gồm: Nhóm giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước, thiết lập mô hình cơ quan đại diện CSH vốn nhà nước trong các doanh nghiệp và thực hiện quyền, trách nhiệm đại diện CSH vốn nhà nước); Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy, con người; nhóm giải pháp về kiểm tra, giám sát, kỷ luật; và nhóm giải pháp về cổ phần hóa, tái cơ cấu DNNN. Luận văn thạc sĩ luật học của Đỗ Mạnh Hà về đề tài “Pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Sơn La”, 2016. Nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp Luận văn đề xuất 3 nhóm giải pháp: Hoàn thiện quy định về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của đại diện chủ sở nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước; Hoàn thiện quy định về 3 hoạt động đầu tư vốn, bán vốn và quản lý tài chính; Hoàn thiện quy định về giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước. Các nghiên cứu về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại các DNNN đã được thực hiện trong thời gian qua. Tuy nhiên, các nghiên cứu điển hình nêu trên mới chỉ tiếp cận dưới góc độ kinh tế về quản lý vốn. Vì vậy, chưa khái quát được một bức tranh toàn cảnh về pháp luật Việt Nam về quản lý vốn nhà nước đầu tư vào DNNN. Nhằm bổ sung các căn cứ quan trọng để các cơ quan chức năng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn đầu tư tại các DNNN, tác giả đã chọn đề tài " Quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là đề tài nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN. Từ đó đưa ra định hướng, các luận cứ khoa học nhằm kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật trong hoạt động này ở nước ta. - Nhiệm vụ nghiên cứu: o Làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN o Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý, sử dụng vốn tại DNNN o Phân tích đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn tại DNNN o Đưa ra một số kiến nghị về định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN theo pháp luật ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 - Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN. - Phạm vi nghiên cứu: o Về nội dung:  Hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý, sử dụng vốn DNNN  Hiện trạng thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý, sử dụng vốn DNNN o Về không gian và thời gian: Phạm vi nghiên cứu của Luận án là các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn tại DNNN ở Việt Nam giai đoạn 2011 đến nay. Trong đó số liệu thống kê tổng hợp của các DNNN tại Việt Nam là số liệu giai đoạn 2011-2016. 5. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở vận dụng những quan điểm, phương pháp lý luận của triết học và lý luận chung về nhà nước và pháp luật, luận văn thực hiện phương pháp nghiên cứu khoa học kết hợp lý luận và thực tiễn, bằng việc sử dụng tổng hợp các phương pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn dịch, quy nạp, thống kê, nhằm đánh giá tính đúng đắn và khách quan các hiện tượng và các quá trình kinh tế, những chính sách và biện pháp đã và đang thực hiện làm cơ sở đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quản lý sử dụng vốn nhà nước tại DNNN ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về ý nghĩa khoa học, luận văn đóng góp về phương diện lý luận cho việc nghiên cứu pháp luật, quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN tại Việt Nam. 5 Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ là cơ sở để đóng góp ý kiến cho các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và các DNNN trong quá trình ban hành, sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm phạm luật, quy trình, quy chế giúp hoạt động quản lý, sử dụng vốn tại DNNN tại Việt Nam ngày càng hiệu quả. 7. Kết cấu luận văn Mở đầu Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.1 Khái quát chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước: 1.2 Pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 2.1 Thực trạng pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 2.2 Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Kết luận Tài liệu tham khảo 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1.1 Khái quát chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước: 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp về nguyên tắc, phải là một tổ chức có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh và có phần vốn góp chi phối của nhà nước. Theo Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014, Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phát triển trong mối quan hệ kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ chức quản lý. DNNN vẫn mang các đặc điểm chung so với các loại hình doanh nghiệp khác, cụ thể: là tổ chức kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh; có tên riêng, trụ sở giao dịch, có tài sản và có sử dụng lao động làm thuê. Mục đích hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp là nhằm mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, mỗi loại hình doanh nghiệp vẫn có sự khác biệt nhất định và do đó, chúng cũng có một số điểm đặc thù. So với các doanh nghiệp khác, DNNN có các đặc điểm riêng biệt sau: Thứ nhất, DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn và trực tiếp thành lập. Việc thành lập DNNN dựa trên nguyên tắc chỉ thành lập trong những ngành, lĩnh vực then chốt, xương sống của nền kinh tế với những đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế thời điểm đó. Thứ hai, DNNN do Nhà nước đầu tư vốn nên nó thuộc sở hữu Nhà nước. DNNN sau khi được thành lập là một chủ thể kinh doanh độc lập. Nhà nước giao vốn cho doanh 7 nghiệp, người quản lý doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc bảo toàn và phát triển vốn mà Nhà nước giao. Thứ ba, DNNN không chỉ được thành lập để thực hiện các mục tiêu kinh tế mà còn để thực hiện các mục tiêu xã hội. Đây là một đặc điểm khác biệt so với các doanh nghiệp nói chung. Nếu đa phần các doanh nghiệp thành lập với mục đích thuần túy là kinh doanh để kiếm lợi nhuận thì DNNN có khi được thành lập nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ công ích, phục vụ lợi ích công cộng, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ an sinh xã hội, nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Hoạt động của doanh nghiệp chịu sự chi phối của nhà nước về mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Cuối cùng, Nhà nước quản lý DNNN thông qua cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền theo phân cấp của Chính phủ. Nhà nước quy định mô hình cơ cấu tổ chức quản lý trong từng loại DNNN phù hợp với quy mô của nó; quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ cấu tổ chức trong DNNN như Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc... cũng như quy định thẩm quyền trình tự thủ tục của việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các chức vụ quan trọng của doanh nghiệp . 1.1.2 Khái niệm, đặc điểm vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước: Theo khoản 8, điều 3, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 thì “Vốn nhà nước tại doanh nghiệp” bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tiếp nhận có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Theo khoản 3,điều 2, Nghị định số 09/2009/NĐ-CP (đã hết hiệu lực) thì “Vốn do Nhà nước đầu tư tại công ty nhà nước” là vốn cấp trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho công ty nhà nước khi thành lập, trong quá trình hoạt động kinh doanh; vốn nhà nước được tiếp nhận từ nơi khác chuyển đến theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền; giá 8 trị các khoản viện trợ, quà biếu, quà tặng; tài sản vô chủ, tài sản dôi thừa khi kiểm kê công ty nhà nước được hạch toán tăng vốn nhà nước tại công ty nhà nước; vốn bổ sung từ lợi nhuận sau thuế; giá trị quyền sử dụng đất và các khoản khác được tính vào vốn nhà nước theo quy định của pháp Luật. Như vậy vốn nhà nước tại DNNN ngoài nguồn vốn có nguồn gốc ngân sách cấp cho doanh nghiệp thì còn gồm cả vốn hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không bao gồm vốn doanh nghiệp tự huy động. 1.1.2.1 Đặc điểm vốn nhà nước tại DNNN được xét theo các phương diện sau đây: Về chủ sở hữu của vốn nhà nước tại DNNN: Chủ sở hữu vốn trong các doanh nghiệp là những người đầu tư vốn để hình thành hoặc phát triển mở rộng doanh nghiệp. Sự khác biệt giữa vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp với vốn đầu tư của các chủ sở hữu khác hình là ở đặc điểm sở hữu nhà nước của vốn. So với các chủ thể sở hữu khác, chủ thể sở hữu nhà nước có những đặc điểm khác biệt như sau: Thứ nhất, chủ thể nhà nước Khi nói nhà nước như một chủ thể sở hữu thì chủ thể này khó xác định cụ thể, nhà nước là một hệ thống bao gồm nhiều cơ quan và bộ máy quản lý khác nhau. Đa phần các quốc gia trên thế giới quan niệm và quy định Chính phủ thống nhất thực hiện các chức năng chủ sở hữu đối với vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Tuy nhiên về bản chất, Chính phủ cũng chỉ là chủ sở hữu được ủy quyền, chủ sở hữu đó không có đầy đủ các đặc điểm và quyền của chủ sở hữu đích thực. Thứ hai, do chủ thể sở hữu nhà nước có nhiều cấp quản lý nên việc thực hiện quyền quản lý, giám sát sử dụng vốn nhà nước thông thường được thực hiện thông qua bộ máy hành chính. Cơ chế trách nhiệm các nhân, động cơ đạt được mục tiêu và áp lực kiểm tra, giám sát không rõ ràng như đối với các chủ thể sở hữu khác, vì vậy thường có sự buông lỏng việc quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. 9 Thứ ba, Nhà nước đầu tư vốn không chỉ có mục tiêu kinh tế mà còn có mục tiêu chính trị, an ninh, văn hóa, xã hội nên việc đầu tư, sử dụng vốn nhà nước của chủ sở hữu nhà nước khó phân định rõ ràng, dẫn tới tình trạng hoạt động kém hiệu quả. DNNN hoạt động theo hai mục tiêu xác định là mục tiêu kinh doanh và mục tiêu công ích. Với hai mục tiêu cơ bản này, DNNN đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của đất nước, nhất là trong việc tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP), góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng ngân sách. Bên cạnh đó, DNNN cũng có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện trách nhiệm với xã hội thông qua các hoạt động công ích, hoạt động mang tính xã hội, xóa đói giảm nghèo và lợi ích quốc gia. Gần như DNNN hiện diện trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và nền kinh tế quốc gia. Nhà nước sử dụng nhiều biện pháp can thiệp vào kinh tế nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, phân bổ nguồn lực tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách hài hoà phù hợp với giá trị truyền thống và văn hoá đất nước. Doanh nghiệp Nhà nước được coi là một công cụ kinh tế, một lực lượng vật chất trong tay nhà nước để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Xét về mặt bản chất, nhà nước ta luôn quan tâm đến việc phát triển kinh tế và xã hội một cách toàn diện, trong đó bao gồm cả mục tiêu xóa dần những cách biệt về mọi mặt giữa thành thị và nông thôn, vùng đồng bằng và vùng cao, giữa dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số… DNNN xét từ khía cạnh vai trò xã hội, đã đóng vai trò rất đặc biệt trong việc thực hiện những mục tiêu phát triển và cân bằng xã hội. Sự khác biệt giữa DNNN và các loại hình doanh nghiệp khác là sự phát triển của DNNN không phải đơn thuần vì bản thân nó mà quan trọng hơn cả là tạo điều kiện cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, DNNN được bố trí xây dựng ở những khu vực ngành nghề cần thiết tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển đồng đều giữa các vùng của đất nước. Vai trò xã hội của DNNN còn thể hiện qua việc giải quyết việc làm, nâng cao thu 10 nhập, cải thiện đời sống của người lao động; tích cực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Quy mô vốn nhà nước tại DNNN lớn, mang tính ổn định cao, có khả năng chi phối lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội Theo quy định tại Khoản 1, Điều 51, Hiến pháp 2013 thì nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Với tư cách là một bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước, DNNN đóng vai trò quyết định trong cơ cấu các thành phần kinh tế, thực hiện nhiệm vụ mà nhà nước và xã hội giao phó. Vai trò chủ đạo của DNNN thể hiện ở các mặt như tạo ra của cải cho xã hội cũng như tạo động lực phát triển kinh tế; mở đường và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, bảo đảm tăng trưởng đồng bộ nền kinh tế; vai trò xung kích trong việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. những lĩnh vực mà nhà nước đầu tư vốn đều là những lĩnh vực đòi hỏi mức vốn đầu tư lớn, yêu cầu tính ổn định cao mà ít nhà đầu tư tư nhân nào có thể đáp ứng được. Chính vì vậy, khác với vốn đầu tư của các nhà đầu tư khác, vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp có quy mô lớn và mang tính ổn định cao hơn. Ngoài tính chất chủ đạo, các DNNN còn thực hiện vai trò mang tính chiến lược. DNNN được xác định là đi đầu trong các chính sách phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Vai trò này thể hiện ở chỗ DNNN phải đi tiên phong trong các lĩnh vực chiến lược theo đường lối phát triển của nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia; DNNN phải là mẫu mực về trình độ quản lý, về hiệu quả kinh doanh để các doanh nghiệp khác noi theo. Với tính ưu thế trong vai trò chủ đạo, DNNN ngoài việc mang tính chiến lược trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội còn mang tính chiến lược trong chuyển giao công nghệ, điều tiết vốn, phân phối sản phẩm và phân bố lao động. Thuế đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước và thực hiện các chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với các hoạt 11 động kinh tế, xã hội trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Với quy mô tài sản, doanh thu và lợi nhuận hiện có, DNNN đóng góp một nguồn tài chính hết sức to lớn cho ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và đặc biệt là phần lợi nhuận sau thuế nộp về cho chủ sở hữu. 1.1.3 Khái niệm, tính tất yếu và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước Quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp có thể hiểu là một hệ thống các hình thức, phương pháp và các công cụ quản lý do nhà nước ban hành để định hướng đầu tư, sử dụng và giám sát việc sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển số vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp. Nhà nước phải quản lý vốn nhà nước tại DNNN vì: Thứ nhất, DNNN thuộc sở hữu nhà nước nhưng nhà nước giao cho một số cá nhân, đơn vị sử dụng. Như vậy có sự tách biệt giữa người sở hữu vốn và người sử dụng vốn, hai đối tượng này có thể có mục tiêu không phù hợp nhau. Các DNNN không phải đương đầu với nguy cơ bị đối thủ cạnh tranh mua lại như các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Do đó người sử dụng vốn có thể sử dụng vào những động cơ cá nhân, những động cơ có thể làm cho những nhà lãnh đạo các DNNN hành động không nhất quán với các mục tiêu của doanh nghiệp. Vì thế đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước nhằm đảm bảo vốn và tài sản của nhà nước không bị xâm phạm trong quá trình kinh doanh cũng như doanh nghiệp hoạt động theo đúng mục tiêu nhà nước đề ra. Thứ hai, nhà nước quản lý vốn nhà nước tại các DNNN cũng là thực hiện vai trò quản lý nhà nước của mình. Nhà nước ban hành các chế độ tài chính đối với DNNN, theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các chế độ đó. Việc theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn tại các DNNN giúp cơ quan quản lý nắm bắt được tình hình thực tế tại các doanh nghiệp, theo dõi tiến trình thực hiện các văn bản. Từ đó thu thập thông tin để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các chính sách cho kịp thời, phù hợp với thực tế. Đồng thời thông qua công tác quản lý vốn, nhà nước mới có những thông tin chính xác để đánh giá 12 đúng chất lượng kinh doanh ở các DNNN. Trên cơ sở các thông tin đánh giá này, nhà nước có kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các doanh nghiệp, vốn và lao động, hoàn thiện các khâu quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh doanh và thực hiện các mục tiêu xã hội. Thứ ba, đối với các DNNN hoạt động kinh doanh, phần lợi nhuận sau thuế thuộc về nhà nước. Nhà nước sử dụng lợi nhuận đó để duy trì và tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp hoặc đáp ứng một lợi ích nào đó của nhà nước. Do đó, để lợi nhuận sau thuế được tối đa hoá, nhà nước phải quản lý phần vốn đầu tư của mình để nó được sử dụng một cách có hiệu quả, trên cở sở đó tăng lợi ích nhà nước. Tóm lại, việc nhà nước quản lý vốn nhà nước tại DNNN là một đòi hỏi khách quan để bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu trong việc bảo toàn vốn và tài sản cũng như để thực hiện vai trò quản lý của mình. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vốn nhà nước tại DNNN được xem xét ở các phương diện sau đây: Quan điểm của nhà nước về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Quan điểm của nhà nước về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là nhân tố đầu tiên, có ảnh hưởng quyết định tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại DNNN. Sở dĩ như vậy là vì nhân tố này sẽ quyết định tổ chức bộ máy quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp như thế nào? Nội dung các văn bản pháp luật phục vụ cho công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp phải như thế nào? Trình độ của cán bộ quản lý? Chẳng hạn: Nếu một nhà nước quan niệm nên tạo sự chủ động cao cho doanh nghiệp thì việc xây dựng văn bản pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý cũng được thực hiện theo hướng tạo sự chủ động cho doanh nghiệp, bộ máy quản lý gọn nhẹ, chấm dứt sự can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp... Tổ chức bộ máy quản lý: Hoạt động quản lý vốn nhà nước tại DNNN tiếp đó phụ thuộc vào tổ chức bộ máy quản lý, vốn nhà nước sẽ không thể được quản lý tốt nếu tổ chức bộ máy quản lý không hợp lý. Hiện nay ở nhiều nước, cơ quan trực tiếp tiến hành công tác quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn nhà nước nói riêng đối với doanh 13 nghiệp cũng là cơ quan trực tiếp hoặc gián tiếp ban hành các chính sách, chế độ quản lý vốn tại doanh nghiệp (thông qua việc dự thảo các chính sách trình cơ quan có thẩm quyền ký ban hành). Bộ máy quản lý gồm một cơ quan trung ương và các cơ quan địa phương. Việc quản vốn nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan duy nhất, nó đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý khác như đơn vị chủ quản, cơ quan thuế...Các cơ quan này cũng thực hiện việc giám sát tại chỗ đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp rất nhạy cảm đối với hoạt động giám sát tại chỗ này. Việc giám sát tại chỗ có thực sự phát huy hiệu quả, nghĩa là thấy và phản ánh được kịp thời những khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải để tìm cách tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư doanh nghiệp đang thực hiện...Đồng thời các cơ quan quản lý phải tổ chức việc giám sát tại chỗ cho phù hợp, không gây cản trở đối với hoạt động của doanh nghiệp và không để cho một số cán bộ lợi dụng việc giám sát ngay tại doanh nghiệp để làm lợi cho riêng mình. Sự phù hợp của các văn bản pháp luật liên quan: Để tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp có thể bất chấp những lợi ích chung của toàn xã hội. Để hạn chế mặt tiêu cực đó, bên cạnh “bàn tay vô hình”- các quy luật của thị trường còn có “bàn tay hữu hình”-sự can thiệp của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước thể hiện qua những chính sách quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, qua hệ thống pháp luật...Các chính sách quản lý của nhà nước vừa trực tiếp, vừa gián tiếp tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại DNNN. Sự tác động trực tiếp thể hiện qua những chính sách trực tiếp liên quan tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại DNNN. Đó là những chính sách quy định về nội dung quản lý vốn, phương pháp quản lý vốn, bộ máy quản lý vốn. Các chính sách này được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước cũng như hệ thống các DNNN. Một hệ thống chính sách quản lý đúng đắn, đầy đủ, đồng bộ sẽ đem lại hiệu quả quản lý cao và ngược lại. Sự tác động gián tiếp của chính sách quản lý của nhà nước tới hoạt động quản lý vốn nhà nước thể hiện ở chỗ: các chính sách quản lý của nhà nước tạo ra được một môi trường thuận lợi hay khó khăn cho công tác quản lý. Ví dụ như: chính sách về sắp 14 xếp lại DNNN có tạo điều kiện cho công tác quản lý vốn nhà nước hay không? Ở nước ta, tác động của yếu tố này tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại DNNN thể hiện rất rõ. Cùng với việc không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản chính sách về quản lý vốn nhà nước tại DNNN (căn cứ để quản lý), việc tổ chức thực hiện đã cho thấy những dấu hiệu tích cực rõ rệt. Tuy vậy vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong hệ thống chính sách đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện để quản lý vốn nhà nước tại DNNN tốt hơn. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý: Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý trực tiếp tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại DNNN. Bộ máy quản lý các DNNN là cơ quan trực tiếp tiến hành hoạt động quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn nhà nước tại DNNN nói riêng. Không những thế ở nhiều nước đây còn là cơ quan trực tiếp hay gián tiếp ban hành các chính sách, chế độ về quản lý vốn tại các doanh nghiệp. Bởi vậy, sự am hiểu của cán bộ quản lý về ngành nghề lĩnh vực mình quản lý sẽ ảnh hưởng tới khả năng nắm bắt tình hình, phân tích, kết luận và ban hành những chính sách quản lý đúng đắn, hiệu quả. Thêm vào đó, phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý sẽ quyết định việc họ có thực hiện quản lý đúng theo lương tâm trách nhiệm hay không? Môi trường kinh tế-chính trị-xã hội: Sự ổn định về kinh tế-chính trị-xã hội là nhân tố quan trọng, có tác động lớn tới hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp và do đó tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại DNNN. Môi trường chính trị-xã hội ổn định, nền kinh tế tăng trưởng ổn định, ít lạm phát và ít biến động sẽ tạo ra cho các nhà đầu tư một tâm lý yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh. Bởi vậy việc nghiên cứu tác động của từng nhân tố cũng như tác động tổng hợp của các nhân tố tới hoạt động quản lý vốn nhà nước là hết sức cần thiết. Từ đó tìm ra được các nguyên nhân dẫn đến những bất hợp lý trong hoạt động quản lý vốn nhà nước, rồi đưa ra những đề xuất để hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại DNNN. 1.1.4 Nội dung công tác quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại DNNN gồm: Công tác quản lý vốn nhà nước tại DNNN gồm các nội dung như sau [32,tr.1]: 15 Một là, xây dựng chính sách về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách tài chính của nhà nước. Các Chính phủ thường ban hành chính sách quản lý vốn và tài sản theo hướng: Tăng cường quyền tự chủ về mặt tài chính của các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý vốn và tài sản; Nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà nước giao. Thiết lập các cơ chế thích hợp để hướng sự quan tâm và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn như: cơ chế trích lập dự phòng, cơ chế bù lỗ...; Quy định các chính sách ưu đãi về mặt tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích như: hỗ trợ vốn, bù chênh lệch khi thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao, bảo đảm thoả đáng lợi ích vật chất cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước này...Đồng thời thiết lập cơ chế quản lý hợp lý đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà nước giao [32,tr.1]. Hai là, Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước có thể được đầu tư vốn khi mới thành lập hoặc đầu tư bổ sung trong quá trình hoạt động. Ngoại trừ các doanh nghiệp hình thành do kết quả quốc hữu hoá, các doanh nghiệp nhà nước đều được hình thành trên cơ sở nguồn vốn cấp phát ban đầu của nhà nước. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế mà nhà nước quyết định cấp dưới hình thức trực tiếp (cấp thẳng từ ngân sách nhà nước) hay gián tiếp (qua các hình thức ghi thu-ghi chi như: chuyển vốn từ doanh nghiệp nhà nước này sang doanh nghiệp nhà nước khác hoặc cho doanh nghiệp nhà nước nhận trực tiếp các khoản viện trợ để đầu tư...) [32,tr.2]. Ba là, Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước: Việc quản lý sử dụng vốn của DNNN gồm 3 nội dung chính là: Quản lý sử dụng vốn và tài sản trong phạm vi doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị sản xuất kinh doanh độc lập, được tự 16 chủ trong hoạt động kinh tế và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện việc giao quyền sử dụng vốn và tài sản cho doanh nghiệp nhằm tạo ra sự độc lập tương đối trong việc tổ chức sản xuất kinh doanh. Mục tiêu cuối cùng của chính sách quản lý sử dụng vốn và tài sản là bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp có nghĩa vụ theo dõi chặt chẽ sự biến động của vốn và tài sản, đảm bảo theo đúng các nguyên tắc kế toán hiện hành, tránh thất thoát tài sản, mất vốn của nhà nước. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải được trao quyền lựa chọn cơ cấu tài sản và các loại vốn cho hợp lý nhằm phát triển kinh doanh có hiệu quả [31,tr.3]. Quản lý vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp: Doanh nghiệp được sử dụng vốn, tài sản để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập và đảm bảo nhiệm vụ thu nộp Ngân sách nhà nnớc; việc đầu tư phải tuân theo các quy định hiện hành của pháp luật.. Các hình thức đầu tư ra ngoài doanh nghiệp gồm: mua cổ phiếu, góp vốn liên doanh, góp cổ phần và các hình thức đầu tư khác ... Doanh nghiệp Nhà nước được phép đưa vốn và tài sản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo quy định của pháp luật [32,tr.4]. Bảo toàn và phát triển vốn: Bảo toàn vốn và phát triển vốn là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của Nhà nước về vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và làm nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Các biện pháp bảo toàn vốn thường được áp dụng là: Thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các qui định của Nhà nước; Thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Tiền mua bảo hiểm được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh; Hạch toán vào chi phí kinh doanh, chi phí hoạt động khác một số khoản dự phòng theo quy định như: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng các khoản nợ thu khó đòi, dự phòng giảm giá các loại chứng khoán trong hoạt động tài chính... Việc lập và sử dụng các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện hành. Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp được dùng lãi năm sau (trước thuế hoặc sau thuế) để bù lỗ 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan