Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn then kỳ yên của người tày ở bắc quang, hà giang tiếp cận từ góc độ vă...

Tài liệu Luận văn then kỳ yên của người tày ở bắc quang, hà giang tiếp cận từ góc độ văn học dân gian

.PDF
146
147
127

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NÔNG THỊ NGỌC THEN KỲ YÊN CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG, HÀ GIANG - TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HỌC DÂN GIAN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - NĂM 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NÔNG THỊ NGỌC THEN KỲ YÊN CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG, HÀ GIANG - TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HỌC DÂN GIAN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS. Nguyễn Hằng Phƣơng THÁI NGUYÊN, NĂM 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, khoa Sau đại học, Ban chủ nhiệm, quý thầy, cô giáo khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và quý thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Hằng Phương, cô đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới ông Hoàng Định, người đã cung cấp tư liệu và nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu. Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả để hoàn thành luận văn này Tác giả Nông Thị Ngọc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nông Thị Ngọc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn i MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục ................................................................................................................ i MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 NỘI DUNG...................................................................................................... 10 Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ TỘC NGƢỜI TÀY, THEN TÀY VÀ THEN KỲ YÊN Ở BẮC QUANG, HÀ GIANG ........................................... 10 1.1. Tổng quan về tộc người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang............................ 10 1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang ................................... 10 1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội, diện mạo văn hoá của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang ...................................................... 11 1.2. Khái quát về Then Tày ............................................................................ 17 1.2.1. Khái niệm Then................................................................................. 17 1.2.2. Nguồn gốc của Then ......................................................................... 20 1.3. Then kỳ yên ở Bắc Quang, Hà Giang ...................................................... 23 1.3.1. Then trong đời sống văn hoá tín ngưỡng của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang ........................................................................................ 23 1.3.2. Khảo sát và phân loại ........................................................................ 25 1.3.3. Hình thức diễn xướng trong Then kỳ yên.......................................... 29 1.3.4. Các bước của một nghi lễ Then kỳ yên ở Bắc Quang, Hà Giang ..... 33 Chƣơng 2. NỘI DUNG THEN KỲ YÊN CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG, HÀ GIANG .................................................................................... 40 2.1. Then kỳ yên phán ánh đời sống tâm linh của người Tày ......................... 40 2.1.1. Then là sự sinh động hoá quan niệm về thế giới ba tầng của người Tày .... 40 2.1.2. Quan niệm con người có hồn vía, số mệnh ..................................... 43 2.1.3. Phản ánh tục thờ cúng tổ tiên của người Tày ................................... 45 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ii 2.2. Then kỳ yên phản ánh xã hội của người Tày trong quá khứ ................... 48 2.2.1. Phản ánh chân thực cuộc sống của người dân miền núi ................... 48 2.2.2. Phán ánh ước mơ về cuộc sống no đủ, yên vui của nhân dân lao động . 53 2.2.3. Phê phán những thói tật của con người trong xã hội, đề cao phẩm chất tốt đẹp của người lao động .................................................................. 57 2.2.4. Phê phán những thế lực cường hào ác bá, bóc lột sức lao động của những người dân nghèo ........................................................................ 61 2.3. Then kỳ yên phản ánh những truyền thống văn hoá tốt đẹp của người Tày .... 64 2.3.1. Coi trọng đạo lí nhân cách, sống chan hoà tình nghĩa ...................... 65 2.3.2. Khuyên con người chăm chỉ trong lao động, sản xuất .................... 68 2.3.3. Khuyên con người biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau..................... 70 Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT THEN KỲ YÊN CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG, HÀ GIANG ........................................................................... 73 3.1. Thể thơ trong Then kỳ yên ....................................................................... 73 3.1.1. Thể thơ thất ngôn .............................................................................. 73 3.1.2. Thể thơ ngũ ngôn .............................................................................. 77 3.2. Một số biện pháp tu từ nghệ thuật trong Then kỳ yên ............................. 80 3.2.1. Liệt kê ............................................................................................... 80 3.2.2. Điệp ngữ............................................................................................ 84 3.2.3. Thủ pháp hư cấu kì ảo....................................................................... 89 3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật trong Then kỳ yên .......................... 93 3.3.1. Thời gian nghệ thuật ......................................................................... 93 3.3.2. Không gian nghệ thuật ...................................................................... 96 KẾT LUẬN ................................................................................................... 106 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 111 PHỤ LỤC ...................................................................................................... 115 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, mỗi dân tộc ở từng vùng, miền lại có những nét độc đáo riêng về văn hoá tinh thần và văn hoá vật chất. Chính những nét riêng độc đáo của mỗi dân tộc đó đã tạo nên một nền văn hoá Việt Nam đa dang, phong phú nhưng thống nhất. Cùng nằm trong vùng văn hoá Việt Bắc, nhắc đến Hà Giang người ta nghĩ ngay đến những làn điệu, câu hát trữ tình mượt mà như: Sli, Lượn, Coi, Iếu, Then, Quan làng..., đã làm xao xuyến, đắp say biết bao tâm hồn bao chàng trai, cô gái dù chỉ một lần được nghe. Trong những làn điệu, câu hát mượt mà đó phải kể đến hát Then, không chỉ là loại hình sinh hoạt văn hoá - văn nghệ quần chúng mà Then còn là loại hình sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng. Do vậy, tìm hiểu văn học dân gian của dân tộc Tày nói chung và loại hình hát Then của người Tày là công việc hữu ích, góp phần phát huy và gìn giữ bản sắc văn hoá của dân tộc. Thực tế cho thấy, Then của người Tày ở Hà Giang chủ yếu là do những người làm nghề cúng bái sử dụng trong quá trình "hành nghề" của mình. Còn các nhà nghiên cứu dân gian và các nghệ nhân sưu tầm, dịch và biên soạn thành những công trình khoa học với số lượng còn hạn chế. Tuy nhiên, cho tới nay chúng tôi thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách chuyên biệt, hệ thống về nội dung và nghệ thuật của loại hình dân ca nghi lễ phong tục này ở Bắc Quang. Vì thế, để bảo tồn, phát huy và giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc Tày, chúng ta cần quan tâm, khai thác, nghiên cứu Then một cách khoa học, có hệ thống nhằm phát huy những thế mạnh, hạn chế những mặt bảo thủ lạc hậu của Then trong đời sống hiện đại. Là người con của dân tộc Tày hiện nay đang sinh sống và giảng dạy Ngữ văn ở một huyện miền núi của tỉnh Hà Giang, nơi có nhiều người Tày Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 sinh sống. Việc tìm hiểu về Then ngay chính mảnh đất quê hương mình, là việc làm có ý nghĩa không chỉ trong lĩnh vực nghiên cứu mà còn góp phần khẳng định, gìn giữ và phát huy những nét đẹp truyền thống của dân tộc Tày nơi đây và các dân tộc thiểu số nói chung trên con đường tìm về với bản sắc dân tộc. Điều này phù hợp quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta khi chủ trương xây dựng một nền văn hoá Việt Nam "tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc". Hiện nay do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan đội ngũ những người làm Then ngày càng thưa vắng và đang có nguy cơ mất dần ở một số địa phương, những nghi lễ Then diễn ra cũng đã bị cắt bớt đi một số chặng, đoạn, các bước và cắt bớt đi một số thủ tục..., nên không còn giữ được nguyên vẹn như trước nữa. Từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn “Then kỳ yên của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang - Tiếp cận từ góc độ văn học dân gian” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Với mong muốn khám phá những khía cạnh độc đáo của Then và cùng đồng bào Tày lưu giữ vốn văn hoá quý báu của dân tộc mình trước những biến thiên của lịch sử. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Những công trình nghiên cứu về Then nói chung Then là một loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian mang tính tổng hợp gồm lời ca, múa, nhạc và hội hoạ..., ngoài ra Then còn gắn với văn hoá tín ngưỡng lâu đời của người Tày ở miền núi phía bắc Việt Nam. Vì lẽ đó mà Then đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu dân gian. Theo dòng thời gian một số công trình sưu tầm, khảo cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu xuất hiện: Công tác sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu văn hoá dân gian Việt Bắc đã được nhen nhóm từ sau khi cách mạng tháng Tám thành công, đặc biệt từ sau Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 Hội nghị bàn về công tác sưu tầm văn hoá văn hoá dân gian ở miền Bắc được tổ chức vào tháng 2 năm 1964. Hưởng ứng phong trào này, các nhà sưu tầm, nghiên cứu đã đi điều tra, điền dã ở khu vực Việt Bắc, kết quả nhận được là những cuốn sách Then viết bằng chữ Nôm Tày - Nùng lưu truyền ở một số địa phương của các tỉnh. Cũng trong thời gian này có một số bài viết về Then được công bố trên sách, báo, tạp chí, nhưng ở khía cạnh nghệ thuật biểu diễn trên sân khấu, qua làn sóng phát thanh truyền hình. Như vậy, Then đã được chú ý nhưng mới chỉ ở góc độ nghệ thuật biểu diễn. Sang thập niên 70 của thế kỉ XX việc nghiên cứu Then mới thực sự khởi sắc ở các địa phương Việt Bắc. Công trình đầu tiên sưu tầm và nghiên cứu về Then là cuốn Lời hát Then của Dương Kim Bội do Sở văn hoá thông tin Việt Bắc xuất bản năm 1975 [3] đã giới thiệu đôi nét về nguồn gốc của Then, mối quan hệ của Then với Mo, Tào, chức năng lề lối hát Then, nội dung một số lời Then ở Việt Bắc bằng nguyên văn tiếng Tày. Song vì mục đích chính của công trình là sưu tầm nên tác giả mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu lời của Then. Tiếp đến là cuốn Mấy vấn đề về Then Việt Bắc (Nxb Văn hoá dân tộc, 1978) [34], là kết quả của "Hội nghị sơ kết công tác sưu tầm, nghiên cứu về Then" được tổ chức tại Sở văn hoá thông tin khu tự trị Việt Bắc. Cuốn sách tập hợp những báo cáo, tham luận, nghiên cứu về Then của các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian. Là công trình nghiên cứu, khảo sát về Then trên phạm vi rộng và xem xét Then dưới góc độ là một hình thức diễn xướng dân gian mang tính tổng hợp. Nhiều vấn đề khác của Then đã được đề cập trong cuốn sách như: nguồn gốc, loại hình, nghệ thuật, giá trị văn hoá, vai trò của Then trong đời sống tinh thần của các dân tộc Việt Bắc. Tác giả Vi Hồng trong công trình nghiên cứu: Sli lượn dân ca trữ tình Tày Nùng xuất bản năm 1979 [9] cũng đã gián tiếp giới thiệu về Then, so sánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 Then với các hình thức tín ngưỡng dân gian khác và xem xét mối quan hệ giữa Then với Sli lượn. Tuy chủ yếu nghiên cứu về hình thức dân ca trữ tình song tác giả cũng có đôi điều gợi ý cho công trình nghiên cứu về Then. Từ năm 1980 đến năm 1990, tuy số lượng sách xuất bản và các bài viết, đề tài nghiên cứu về Then ở giai đoạn này không nhiều, nhưng các vấn đề về Then đã được đề cập tương đối có hệ thống, tập chung và mang tính gợi mở, bước đầu đã giúp cho người đọc hình dung được diện mạo của Then và hình thức diễn xướng Then. Từ sau năm 1990 trở lại đây nhiều công trình nghiên cứu về Then được giới thiệu ở dạng in ấn xuất bản và dạng bản thảo gửi dự xét thưởng Hội văn nghệ dân gian Việt Nam. Các công trình sưu tầm văn bản Then đã được xuất bản như: Khảm Hải - Vượt biển của Vi Hồng [10], Bộ Then tứ bách của Lục Văn Pảo [37], Then và những khúc hát [2] và Lễ hội Dàng Then [1] của tác giả Triều Ân...., đây là các công trình tập hợp những khúc hát Then hành lễ có kèm theo những lời giới thiệu về nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa và đặc điểm nghi lễ gắn với khúc hát Then, những công trình này rất hữu ích cho việc tìm hiểu các dòng Then. Cố tác giả Hoàng Đức Chung với Lẩu Then Bjoóc mạ của người Tày huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (1999) [5] đã nghiên cứu công phu với cái nhìn toàn diện về lễ cấp sắc trong Then ở Hà Giang, đây là công trình góp phần vào gìn giữ những đặc sắc trong Then ở Hà Giang nói chung. Tuy nhiên, tác giả chỉ nghiên cứu ở lĩnh vực mang tính văn hoá, chưa đi sâu vào tìm hiểu phần nội dung văn học. Các luận văn Nghệ thuật hát Then của người Tày ở Lạng Sơn của Dương Thị Lâm [24] và Khảo sát nghi lễ Then "Hắt khoăn" (giải hạn) của người Tày huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn của Nguyễn Thị Hoa bảo vệ năm 2002 [15], và Khảo sát phần lời ca trong Then cầu tự của người Tày Cao Bằng của Nguyễn Thanh Hiền bảo vệ năm 2007 [12] đã góp phần làm rõ sự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 đa dạng, phong phú của Then tại các địa phương khác nhau ở Việt Bắc, đặc biệt là luận văn nghiên cứu về Văn hoá tâm linh của người Tày qua lời hát Then của Hà Anh Tuấn bảo bệ năm 2008 [54] cho thấy tâm linh có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Tày, giúp người Tày có niềm tin trong cuộc sống. Các luận văn nghiên cứu về Then ở những khía cạnh khác nhau, nhưng cũng đã cung cấp một cái nhìn đầy đủ về những giá trị vốn có trong Then. Cuốn Nét chung và nét riêng của âm nhạc trong diễn xướng Then Tày Nùng của tác giả Nông Thị Nhình xuất bản năm 2004 [30] là công trình khảo cứu công phu về âm nhạc của Then, góp phần khẳng định xu hướng nghiên cứu Then từ nhiều góc độ hiện nay. Tuy nhiên công trình này vẫn chưa có được sự so sánh một cách cụ thể âm nhạc Then với các loại hình âm nhạc cúng bái có liên quan khác của người Tày, Nùng như Tào, Mo, đặc biệt là Pụt. Năm 2010 với Then Tày của T.S Nguyễn Thị Yên [58], cuốn sách được xem xét khá toàn diện những vấn đề liên quan đến nghiên cứu Then, diễn xướng nghi lễ Then cấp sắc, bản chất tín ngưỡng và sự hình thành biến đổi trong Then, giá trị của Then và yếu tố Shaman giáo trong Then. Công trình nghiên cứu này đã giúp người đọc có cái nhìn khá sâu sắc về Then và Then cấp sắc - một loại Then tiểu biểu của người Tày. Tuy nhiên, đây là công trình nghiên cứu có tính chất tổng hợp chủ yếu nghiên cứu về Then cấp sắc, nên tác giả chưa có điều kiện tìm hiểu sâu về nội dung cũng như nghệ thuật của Then dưới góc độ văn học. Như vậy, ở từng thời điểm khác nhau đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, ngoài những công trình nghiên cứu về Then kể trên còn có nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm và các bài viết về Then đăng trên các sách, báo, tạp chí từ nhiều góc nhìn khác nhau (văn hoá dân gian, văn học dân gian, dân tộc học, âm nhạc dân gian...). Tuy nhiên, nghiên cứu về một dòng Then cụ thể ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 từng vùng, miền của Hà Giang từ trước đến nay chưa có công trình nào chuyên sâu tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của Then Tày nơi đây. Đây cũng chính là lí do để chúng tôi chọn làm để tài nghiên cứu của mình, những công trình nghiên cứu trên là cơ sở gợi dẫn quý báu, bổ ích cho chúng tôi tiếp cận và triển khai đề tài. 2.2. Những công trình sưu tầm, nghiên cứu Then ở Bắc Quang, Hà Giang Đối với dân tộc Tày ở Bắc Quang hát Then vừa là một loại hình sinh hoạt văn hoá, văn nghệ quần chúng vừa là loại hình sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng lâu đời của người Tày nơi đây. Những bài hát Then cổ và những bài Then dùng trong nghi lễ được người dân lưu truyền qua nhiều thế hệ ở khắp các địa phương có người Tày sinh sống. Trải qua năm tháng Then vẫn luôn sống mãi trong lòng những người yêu thích loại hình sinh hoạt văn hoá này. Dù đã được biết đến, nhưng Then của dân tộc Tày vẫn còn là mảnh đất nguyên sơ chưa được nhiều người quan tâm, nghiên cứu. Hiện nay, tư liệu về Then chủ yếu là do những người là nghề cúng bái cao tuổi lưu giữ (nhưng rất ít), chữ viết chủ yếu lại bằng chữ Nôm Tày nên nhiều người không đọc được. Những người có "căn số" làm Then khi ngồi trước mâm hương nghi ngút khói là họ tự nhớ, tự thuộc nếu có đến nhà thầy Then để học chủ yếu bằng con đường truyền khẩu. Điều đó cho thấy, nguy cơ mai một của hình thức sinh hoạt văn hoá độc đáo này. Người có công sưu tầm, nghiên cứu về Then kỳ yên ở Bắc Quang là ông Hoàng Định (80 tuổi) là người Tày ở Bắc Quang, cán bộ công tác trong ngành văn hoá nay đã nghỉ hưu. Công trình sưu tầm, nghiên cứu này chuẩn bị in thành sách, dài 2.078 nghìn câu Then, qua những chuyến đi điền dã chúng tôi chưa thấy có thêm công trình nghiên cứu nào về Then ở Bắc Quang. Do nhiều lí do khác nhau mà cho đến nay việc sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu về Then ở Bắc Quang nói riêng ở Hà Giang nói chung chưa được chú ý. Do vậy, việc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 tìm hiểu Then của người Tày ở địa phương Bắc Quang (từ góc độ văn học dân gian) là một việc làm thiết thực trong đời sống hiện nay, góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy nền văn học nghệ thuật vô cùng quý giá của cả dân tộc. 3. Mục đích nghiên cứu - Mục tiêu bao trùm luận văn là tìm hiểu đặc điểm Then kỳ yên của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang trên bình diện là tiếp cận từ góc độ văn học dân gian. Qua đó phân tích, nhận diện được những nét độc đáo, mang đậm bản sắc của văn hoá Tày ở một địa phương cụ thể. - Bước đầu tìm hiểu, lí giải cội nguồn của Then trên cơ sở tổng quan văn hóa của dân tộc Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. - Gợi ra hướng nhằm bảo tồn, phát huy những nét đẹp vốn có của Then. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khảo sát, thống kê, phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật văn bản Then kỳ yên với tư cách là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. - Trong điều kiện có thể, chúng tôi sưu tầm, tìm hiểu thêm về Then và một số loại hình văn hoá tín ngưỡng có liên quan đến đề tài từ các góc độ nhìn nhận, đánh giá. - Bước đầu nêu một số suy nghĩ về bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá của Then trong đời sống đương đại và những hạn chế nhất định về Then. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là những bài hát Then đã được sưu tầm chưa xuất bản của những nghệ nhân ở một số vùng khác nhau, đặc biệt là văn bản Then kỳ yên của tác giả Hoàng Định trực tiếp sưu tầm và biên dịch, ngoài ra còn có một số bài hát Then do chính tác giả luận văn thu thập qua những chuyến đi điền dã. - Phạm vi nghiên cứu: Trong điều kiện và khuôn khổ của luận văn, chúng tôi đi sâu tìm hiểu những giá trị tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật trong Then kỳ yên của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Trên bình diện phương pháp luận là tiếp cận theo quan điểm Ngữ văn học, tức là dựa vào các thành tố ngôn từ, cụ thể là những lời ca trong Then kỳ yên để phân tích. Tuy nhiên, Then là loại hình diễn xướng tổng hợp và tồn tại không tách rời khỏi đời sống văn hoá của người Tày. Do vậy, tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo quan điểm văn hoá học là rất cần thiết, song cần phải nghiên cứu theo quan điểm tiếp cận liên ngành, xem xét đối tượng từ nhiều góc độ, ngành khoa học khác nhau. - Để hoàn thành đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: + Phương pháp điền dã văn học + Phương pháp nghiên cứu liên ngành + Phương pháp khảo sát, thống kê + Phương pháp phân tích tổng hợp + Phương pháp đối chiếu so sánh 7. Những đóng góp của luận văn - Là công trình nghiên cứu đầu tiên một cách có hệ thống về những giá trị cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong Then kỳ yên của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần vào việc giữ gìn và phát huy nét đẹp văn hoá của dân tộc Tày. - Trong quá trình điền dã, khảo sát, nghiên cứu tác giả đề tài cũng thu thập được một số lượng nhất định về những lời hát Then cổ, bài cúng sử dụng lời Then trong các nghi lễ còn đang lưu truyền trong đời sống dân gian ở Bắc Quang và một số địa phương lân cận của tỉnh Hà Giang. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 - Từ kết quả khảo sát thực tế trên cơ sở khoa học, tác giả luận văn bước đầu đề xuất hướng bảo tồn và phát huy, gìn giữ những nét đẹp, giàu bản sắc văn hoá dân tộc Tày nói chung trong đó có dân tộc Tày ở Bắc Quang, Hà Giang. 8. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của luận văn được trình bày trong ba chương: Chương 1: Tổng quan về tộc người Tày, Then Tày và Then kỳ yên ở Bắc Quang, Hà Giang Chương 2: Nội dung Then kỳ yên của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật Then kỳ yên của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 NỘI DUNG Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ TỘC NGƢỜI TÀY, THEN TÀY VÀ THEN KỲ YÊN Ở BẮC QUANG, HÀ GIANG 1.1. Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Bắc Quang, Hà Giang 1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang Dân tộc Tày là một cộng đồng người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Ở Việt Nam, người Tày có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số, cư trú chủ yếu tập trung ở các tỉnh phía đông bắc Việt Nam, là cư dân bản địa sống lâu đời trên đất nước Việt Nam. Họ cùng các cư dân Tày - Thái khác là một trong những chủ nhân đầu tiên lập lên nhà nước Văn Lang của các vua Hùng, nhà nước Âu Lạc của Thục Phán An Dương Vương. Như vậy, ngay từ buổi bình minh của lịch sử, dân tộc Tày đã là một thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Ở Hà Giang theo các nguồn tài liệu lịch sử, khảo cổ học từ trước năm 1945 cho đến nay đã phát hiện những hiện vật từ thời đồ đá cũ cho đến thời đại đồ đồng, đồ sắt, báo hiệu quá khứ xa xưa con người đã cư trú trên mảnh đất nơi địa đầu của tổ quốc. Điều đó chứng tỏ phần nào Hà Giang là vùng đất cổ có các cư dân sinh sống, trong đó có dân tộc Tày. Cụ thể là tấm bia ở chùa Sùng Khánh (huyện Vị Xuyên) dựng năm 1367 khắc ghi công lao của quan phủ đạo người Tày họ Nguyễn là Nguyễn Thiếp đã có công bảo vệ giới phía Bắc, xây dựng làng xã ổn định phát triển, là nơi tin cậy của triều đình ở vùng biên viễn xa xôi. Trong số 22 dân tộc anh em cùng sinh sống ở Hà Giang, thì người Tày cư trú lâu đời, sống chủ yếu tập trung ở những vùng thấp, thung lũng nơi gần nguồn nước. Theo tổng điều tra dân số năm 2009 thì dân tộc Tày có 168.719 nghìn người chiếm 27% dân số trong toàn tỉnh, là dân tộc đông thứ hai sau Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 dân tộc Mông (31%) [7]. Người Tày sống rải rác ở 10 huyện thị trong tỉnh, nhưng tập trung đông nhất là ở huyện Vị Xuyên, Bắc Quang. Quan hệ xã hội giữa các cư dân Tày mang tính chất cộng đồng thuần nhất, họ luôn giữ được truyền thống đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất, chung tay, góp sức làm những việc lớn của thôn xóm, làng xã... Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cùng với người Tày trên cả nước, người Tày ở Hà Giang chẳng những góp phần quan trọng vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước mà còn sớm hình thành một nền văn hoá đặc sắc, làm phong phú thêm cho nền văn hoá truyền thống của các dân tộc Việt Nam. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội, diện mạo văn hoá của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang 1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên Bắc Quang là một huyện vùng thấp, huyện cửa ngõ của tỉnh Hà Giang, nằm trên quốc lộ số 2, cách thành phố Hà Giang 60km về phía Bắc. Toàn huyện có 23 đơn vị hành chính gồm 21 xã và 2 thị trấn, có tổng diện tích tự nhiên là 108.366 ha, số dân là 102.293 người, với 19 dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó, người Tày chiếm 50% dân số của cả huyện [7]. Là một huyện nằm ở vùng núi thấp nên Bắc Quang được thiên nhiên ưu đãi, tạo cho vùng đất này những bãi bồi phù sa mầu mỡ dọc theo hệ thống sông Lô, sông Ngòi Sảo, sông Bạc... thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp lúa nước và các loại cây hoa màu khác. Tuy nhiên, nơi đây được coi là nơi mưa nhiều nhất so với cả nước, nên ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống con người. Ngoài ra Bắc Quang còn được thiên nhiên ban tặng những thắng cảnh đẹp như Thác Thuý, Hồ Quang Minh... Điều kiện tự nhiên nói trên, về cơ bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho Bắc Quang phát triển kinh tế, xã hội cũng như tạo nên những nét đặc trưng riêng về văn hoá vật chất lẫn tinh thần của đồng bào nơi đây. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 1.1.2.2. Đặc điểm kinh tế và đời sống xã hội: - Hoạt động kinh tế truyền thống: Là cư dân nông nghiệp lúa nước, từ xa xưa người Tày ở Bắc Quang đã có tập quán định canh, định cư với nguồn sống chính trồng trọt và chăn nuôi, là huyện nằm ở vùng núi thấp, được thiên nhiên ban tặng cho những cách đồng lúa phù sa mầu mỡ, rất thuận lợi cho việc thâm canh tăng vụ. Trải qua hàng ngàn năm gắn bó với mảnh đất này, đồng bào đã khai khẩn các thung lũng ven các con sông Lô, sông Bạc, Ngòi Sảo, ven các con suối thành những cánh đồng bậc thang bằng phẳng, mỗi năm cho từ 1 đến 2 vụ lúa, nơi đây được coi là vựa thóc của toàn tỉnh. Bên cạnh cây lúa nước được trồng từ rất sớm và đạt trình độ canh tác cao, đồng bào còn trồng thêm lúa nương và các loại cây ăn quả và cây hoa màu khác... Cư dân Tày ở Bắc Quang cũng rất chú trọng phát triển chăn nuôi, từ lâu đồng bào đã chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm như: trâu, bò, lợn, gà, ngan..., để lấy sức kéo, làm nguồn lương thực, thực phẩm phục vụ đời sống, mỗi nhà thường có một đến hai cái ao thả các loại cá để làm thức ăn quanh năm. Do cuộc sống mang tính tự cung, tự cấp nên các ngành nghề thủ công cũng được phát triển, đồng bào tự làm lấy những thứ cần thiết cho cuộc sống như: đan lát, làm đồ gỗ, nuôi tằm dệt vải, làm nghề rèn..., các chợ phiên ở nông thôn được mở ra để mua bán, trao đổi những mặt hàng thiết yếu. Nhờ vào môi trường tự nhiên thuận lợi, đã tạo cho đồng bào nơi đây nhiều khả năng phát triển kinh tế toàn diện, một nền kinh tế đa dạng, kết hợp giữa nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển lâu dài và bền vững. Nhìn chung, hoạt động kinh tế của người Tày Bắc Quang đã dần thoát khỏi tình trạng tự cung, tự cấp, ngày càng phát triển toàn diện hơn, góp phần cùng với các dân tộc anh em xây dựng một Bắc Quang văn minh, giàu đẹp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 - Đời sống xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám 1945, đời sống xã hội của người Tày ở Bắc Quang còn gặp nhiều khó khăn bởi sự thống trị của chế độ thực dân phong kiến, gọi là chế độ "quăng" (thổ ty), bị thực dân phong kiến lợi dụng, khiến đồng bào nơi đây bị bóc lột nặng nề về kinh tế, áp bức về chính trị. Nhưng từ sau Cách mạng tháng Tám, cùng với sự đổi thay chung của cả dân tộc, cuộc sống của đồng bào Tày Bắc Quang có nhiều biến đổi lớn lao. Chế độ phu phen, tạp dịch được xoá bỏ, nhân dân các dân tộc trong toàn huyện đã ra sức khôi phục, phát triển kinh tế, văn hoá, cải thiện đời sống để phục vụ đắc lực cho hai cuộc kháng chiến. Đời sống của đồng bào những ngày đầu tuy còn khó khăn nhất định nhưng dần từng bước đã được nâng lên, những hủ tục, tập quán lạc hậu, mang nặng yếu tố mê tín, dị đoan đang dần được xoá bỏ. Hiện nay đời sống xã hội của người Tày Bắc Quang đang có những chuyển biến rất mạnh, con em đồng bào ngày càng được nâng cao về trình độ, nhiều cán bộ người Tày được cử đi đào tạo, nâng cao về chuyên môn và giữ những trọng trách quan trọng trong các cấp uỷ Đảng, chính quyền của huyện, góp phần xây dựng Bắc Quang ngày càng phát triển giàu mạnh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. 1.1.2.3. Diện mạo văn hoá - Văn hoá tổ chức đời sống vật chất: Cũng như người Tày ở những địa phương khác, người Tày ở Bắc Quang có một đời sống văn hoá văn chất lẫn tinh thần hết sức đa dạng và giàu bản sắc. Về Nhà ở, nhà của người Tày nơi đây thường xây dựng theo thế đất: phía sau dựa vào núi, phía trước nhìn ra cách đồng, sông suối, bên cạnh có máng nước và ao cá. Hướng nhà căn cứ vào tuổi gia chủ, có vận dụng thuyết phong thuỷ trong tìm đất, tìm hướng để làm nhà. Nhà người Tày thường có ba Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 loại chính: nhà sàn, nhà đất và nhà phòng thủ. Nhà sàn là loại nhà phổ biến nhất của người Tày, thường làm bằng cột gỗ kê đá, mái lập lá cọ hoặc ngói âm dương, phên vách và dát nhà thường làm bằng nứa đan, ván xẻ hoặc bằng cây tre, cây mai được băm và phơi rất kĩ để tránh mối, mọt. Nhà sàn của người Tày là loại hình nhà tổng hợp, gian giữa thường để bài thờ tổ tiên, bếp lửa; gian đầu nơi cầu thang lên là nơi tiếp khách nam, các gian phía trong là chỗ ngủ của các thành viên trong gia đình, bếp nấu ăn và cũng là nơi tiếp khách của nữ giới, trong nhà còn có gác để thóc, ngô và các đồ dùng gia đình khác..., nhà sàn của người Tày thường làm số gian lẻ là 3, 5, 7 gian hoặc 3 gian 2 trái. Tuy nhiên, hiện nay do điều kiện môi trường, xã hội, nhiều ngôi nhà sàn hiện nay đang dần được thay thế bằng những ngôi nhà đất hoặc xây, nhất là những nơi gần trung tâm xã, thị trấn, ven đường quốc lộ. Bản của người Tày ở Bắc Quang thường có khoảng từ 25 đến 30 nhà, bản lớn có tới 60 đến 70 nhà, thậm chí tới 100 nhà. Có bản chỉ có người Tày, nhưng cũng có bản sống xen kẽ nhiều dân tộc anh em, chủ yếu là Nùng, Giáy, Mông, Dao... Nhìn chung cư dân sống xen kẽ trong một bản là hiện tượng phổ biến của người Tày ở Bắc Quang, ở các khu như trung tâm xã, thị trấn cư dân đông đúc, nhà san sát nhau, trông không khác gì những vùng trù mật ở miền xuôi. Bà con trong thôn bản sớm tối có nhau, giống như câu tục ngữ Tày đã ví: " Pí noọng tam tó bố táy pi noọng xó rườn" (anh em ở xa không bằng anh em làng xóm ở gần). Tính cộng đồng của làng bản xưa kia đóng vai trò quan trọng trong đời sống của đồng bào Tày, nay vẫn được giữ gìn và phát huy. Trang phục nam, nữ Tày ở đây thường nhuộm vải màu chàm để may quần áo. Trang phục cổ truyền của nam giới Tày gồm áo năm thân buông chùm qua cạp quần xuống đến đầu gối; quần cạp rộng, ống rộng, buông trùng đến mắt cá chân, khăn đội đầu nhỏ, dài, quấn hay chít khăn kiểu chữ Nhân trên trán. Trang phục của nữ nhiều loại và kiểu cách phức tạp hơn, vào những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan