Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thi hành hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật việt nam từ thực tiễn ...

Tài liệu Luận văn thi hành hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

.PDF
93
157
96

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ HUỆ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ HUỆ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH TUYÊN Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận băn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Người cam đoan Trần Thị Huệ MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ............................................................................. 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn và thi hành hình phạt tù có thời hạn ............................................................................. 6 1.2. Các nguyên tắc thi hành hình phạt có thời hạn ................................ 16 Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH QUẢNG NINH ............... 22 2.1. Pháp luật thi hành hình phạt tù có thời hạn ..................................... 22 2.2. Những kết quả đạt được ................................................................... 44 2.3. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân ....................................... 51 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ....................................................................................... 60 3.1. Yêu cầu đối với việc thi hành phạt tù có thời hạn ........................... 60 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tù có thời hạn ........................................................ 66 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự HPTCTH : Hình phạt tù có thời hạn TAND : Toà án nhân dân TANDTC : Toà án nhân dân tối cao TANDCC : Toà án nhân dân cấp cao THAHS : Thi hành án hính sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa Nxb : Nhà xuất bản MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống hình phạt nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới, HPTCTH có vị trí, vai trò quan trọng, được áp dụng phổ biến nhất trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Theo thống kê của TANDTC, cũng như TAND tỉnh Quảng Ninh cho thấy, hàng năm tỷ lệ người phạm tội bị kết án phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ lớn nhất. Tuy nhiên, bản án kết án phạt tù có thời hạn của Tòa án chỉ có hiệu lực, hiệu quả khi nó được thi hành trên thực tế, HPTCTH mà Tòa án quyết định áp dụng đối với người bị kết án mới có tác dụng phòng ngừa chung cũng như phòng ngừa riêng. Mặc dù vậy, việc thi hành HPTCTH ở tỉnh Quảng Ninh cũng như trên phạm vi cả nước bên cạnh những kết quả đã đạt được thì vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót như: công tác quản lý nhà nước về thi hành án phạt tù còn sơ hở; trình tự, thủ tục thi hành án phạt tù vẫn còn tình trạng chậm chuyển bản án, chậm ra quyết định và giao quyết định thi hành án phạt tù cho người bị kết án; chậm áp giải người bị kết án đến trại giam; chất lượng công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân chưa cao; công tác hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân chưa được đầu tư đúng mức, chưa đáp ứng nhu cầu lao động xã hội; cơ sở giam giữ, hệ thống theo dõi, giám sát phạm nhân chưa thật sự đảm bảo.v.v.. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót này trước hết là do các quy định của Luật THAHS năm 2010 về thi hành án phạt tù sau một thời gian áp dụng đã bộc lộ một số bất cập đặc biệt là chưa thể chế hóa kịp thời quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người; quyền công dân; không còn phù hợp với những quy định mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), BLTTHS năm 2015, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015... đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Trong khoa học pháp lý, những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tù vẫn chưa được làm rõ một cách hệ thống, toàn diện, nên vẫn còn những quan điểm khác nhau về thi hành hình phạt tù. Như vậy, xét trên cả bình diện lý luận, thực tiễn và pháp lý đòi hỏi phải nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về thi hành hình phạt tù nhằm làm sâu sắc thêm về mặt lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học và thực tiễn để sửa đổi, bổ sung Luật THAHS năm 2010 cũng như bảo đảm áp dụng đúng đắn các 1 quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù trên thực tế, qua đó góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Đây cũng là lý do mà học viên chọn đề tài: “Thi hành hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài THAHS nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là một chủ đề được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, do vậy có nhiều công trình đã được công bố về chủ đề này ở cả phương diện lý luận, thực tiễn, tư vấn và giải pháp. Điển hình là các công trình tiêu biểu sau đây: + Các công trình nghiên cứu lý luận gồm: Giáo trình Luật THAHS (giáo trình sau đại học) của tác giả Võ Khánh Vinh và Cao Thị Oanh, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2013; Bình luận Khoa học Luật THAHS năm 2010 của tác giả Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên).v.v. Trong các công trình này chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận về THAHS, trong đó có thi hành án phạt tù ở mức độ cơ bản, khái quát nhất hoặc bình luận làm rõ nội dung pháp lý của các quy định trong Luật THAHS năm 2010. Đây là cơ sở lý luận để học viên triển khai thực hiện đề tài luận văn của mình. Ngoài hệ thống giáo trình còn có một số cuốn sách chuyên khảo bàn về THAHS, trong đó có vấn đề thi hành án phạt tù, điển hình là: cuốn “Pháp luật THAHS Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Võ Khánh Vinh và Nguyễn Mạnh Kháng, Nxb Tư pháp năm 2006; cuốn “Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực THAHS ở Việt Nam” của tác giả Võ Trọng Hách, Nxb Tư pháp năm 2006; cuốn “Một số vấn đề về THAHS” của tác giả Trần Quang Tiệp, Nxb Công an nhân dân năm 2002; Trong những cuốn sách chuyên khảo này chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận về THAHS ở các khía cạnh khác nhau như: Pháp luật về THAHS, quản lý nhà nước về THAHS.v.v., trong đó có nội dung đề cập đến thi hành án phạt tù. Đây là những tài liệu bổ ích để học viên tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn. 2 Thêm vào đó, nghiên cứu chuyên sâu về thi hành hình phạt tù còn có các luận án, luận văn, các công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, cấp bộ đã được công bố mà học viên được tiếp cận như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Thi hành án phạt tù - những vấn đề lý luận và thực tiễn” do tác giả Nguyễn Trung Thành làm chủ nhiệm đề tài; đề tài cấp bộ “Tổ chức thi hành án phạt tù cho phạm nhân là người nước ngoài trong các trại giam của Bộ Công an” do tác giả Nguyễn Hữu Duyện làm chủ nhiệm; luận văn thạc sĩ “Thi hành hình phạt tù” của tác giả Nguyễn Văn Nông, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, năm 1997; Luận văn thạc sĩ “Thi hành hình phạt tù theo pháp luật THAHS Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đã Nẵng” của tác giả Hồ Tấn Thanh, Học viện khoa học xã hội, năm 2017.v.v. Đây là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về thi hành án phạt tù nên có ý nghĩa rất lớn đối với việc định hướng nghiên cứu đề tài luận văn của học viên. Nghiên cứu các khía cạnh khác nhau có liên quan đến THAHS còn có các bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: “Một số vấn đề lý luận về chính sách pháp luật THAHS” của tác giả Lê Cảm, tạp chí Kiểm sát số 10/2016; “Những vấn đề lý luận chung về chính sách pháp luật THAHS” của tác giả Võ Khánh Vinh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Khoa học xã hội năm 2019; “Những nội dung cơ bản của Cải cách tư pháp trong lĩnh vực thi hành án của tác giả Nguyễn Văn Nghĩa”, tạp chí Dân chủ pháp luật số 8/2006; “Đảm bảo quyền con người trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Phúc, tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 2007; “Vấn đề cấm tra tấn và việc hoàn thiện pháp luật thi hành án phạt tù” của tác giả Nguyễn Quang Vũ, tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2016; “Điều kiện đảm bảo hiệu quả hoạt động THAHS” của tác giả Bùi Kiên Điện, tạp chí Luật học số 6/2007; “Những vấn đề rút ra từ thực tiễn thi hành Luật THAHS năm 2010” của tác giả Vũ Huy Thuận, tạp chí Kiểm sát số 4/2018; “Thực trạng công tác THAHS và những kiến nghị” của tác giả Nguyễn Phong Hòa, tạp chí TAND số 21/2006; “Chính sách thi hành án phạt tù đối với phạm nhân dưới 18 tuổi” của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019; “Vấn đề hoàn thiện pháp luật thi hành án phạt tù trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay” của tác giả Nghiêm Xuân 3 Minh, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019... Như vậy, mặc dù có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến vấn đề THAHS nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng, nhưng chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề thi hành án phạt tù có thời hạn theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Do vậy có thể xác định đề tài luận văn của học viên không trùng lặp với các công trình khoa học, luận án, luận văn đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tù tại tỉnh Quảng Ninh, luận văn hướng tới mục đích đưa ra những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về thi hành hình phạt tù, cũng như những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thi hành HPTCTH. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau: + Phân tích làm rõ các vấn đề lý luận về thi hành HPTCTH. + Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù có thời hạn, chỉ ra những mặt tích cực cũng như những hạn chế, bất cập trong các quy định đó cần tiếp tục hoàn thiện. + Khảo sát, đánh giá thực trạng thi hành HPTCTH tại tỉnh Quảng Ninh, chỉ ra những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục. + Đưa ra yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về thi hành phạt tù có thời hạn trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu trong luận văn bao gồm: Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình phạt tù. 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Về lý luận: Luận văn nghiên cứu vấn đề thi hành HPTCTH trong phạm vi lý luận chuyên ngành luật hình sự, luật tố tụng hình sự và luật THAHS; + Về thực tiễn: Luận văn này tập trung nghiên cứu thực tiễn quy định và thi hành 4 HPTCTH trên cả hai phương diện luật hình sự, luật tố tụng hình sự và luật THAHS. + Về không gian, thời gian: Tại tỉnh Quảng Ninh, từ năm 2014 - 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, về bảo vệ và đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong thi hành HPTCTH. Ngoài ra, luận văn còn dựa trên cơ sở lý luận chuyên ngành luật tố tụng hình sự và luật THAHS để làm rõ đối tượng nghiên cứu. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể Để nghiên cứu đề tài này, học viên đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia... để làm rõ đối tượng nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm lý luận chuyên ngành về thi hành HPTCTH. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để sửa đổi, bổ sung Luật THAHS năm 2010 và các văn bản pháp luật có liên quan, cũng như để đảm bảo chất lượng, hiệu quả thi hành HPTCTH trên thực tế. Luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu, làm tài liệu giảng dạy trong các cơ sở đào tạo ngành luật, chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, THAHS. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được cấu trúc thành ba Chương: + Chương 1. Những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tù có thời hạn; + Chương 2. Pháp luật về thi hành hình phạt tù có thời hạn và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh; + Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tù có thời hạn. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN 1.1. Khái niệm, đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn và thi hành hình phạt tù có thời hạn 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn * Khái niệm hình phạt tù có thời hạn: Dưới góc độ khoa học pháp lý, đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm về hình phạt có thể kể đến như các khái niệm: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất được quy định trong luật hình sự, do Tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật về hình sự. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được quy định trong luật hình sự do Tòa án quyết định áp dụng đối với người phạm tội và được thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của họ nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, không phạm tội mới, giáo dục mọi công dân có ý thức tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Khái niệm về hình phạt cũng được đề cập trong BLHS 2015, theo đó: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”. Đây được coi là khái niệm thể hiện đầy đủ nhất bản chất, phù hợp với phạm vi điều chỉnh của BLHS 2015 khi chủ thể của tội phạm ngoài cá nhân thì còn cả đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Theo luật hình sự Việt Nam, hệ thống hình phạt bao gồm: hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Có 08 hình phạt chính gồm có: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo 6 không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình. Các hình phạt bổ sung gồm có: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Hình phạt tù có thời hạn nằm trong hình phạt chính, được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, có mức độ nghiêm khắc phù hợp với mức độ nghiêm trọng, nguy hiểm khác nhau của các loại tội phạm. Theo quy định tại Điều 38 BLHS hiện hành “Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm.” Từ các khái niệm trên có thể hiểu hình phạt tù có thời hạn là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do Tòa án quyết định áp dụng buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. * Đặc điểm: - HPTCTH là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước: Tính nghiêm khắc của HPTCTH thể hiện ở nội dung và hậu quả pháp lý của hình phạt này. Nội dung của HPTCTH thể hiện ở việc tước bỏ, hạn chế quyền tự do thân thể của người bị kết án trong một thời gian nhất định. Hình phạt tù có thời hạn buộc người bị kết án được hòa nhập với cộng đồng, cách ly khỏi môi trường sống và các hoạt động bình thường của họ trước khi bị kết án. Người bị kết án phạt tù có thời hạn phải chấp hành hình phạt tại có sở giam giữ (trại giam, trại tạm giam) nơi có chế độ giam giữ và cải tạo chặt chẽ và nghiêm khắc. Trong trại cải tạo, người bị kết án phải lao động, học tập để tự cải tạo trở thành người lương thiện, không phạm tội mới. Như vậy, so với cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ thì HPTCTH nghiêm khắc hơn nhiều, nhưng so với tù chung thân (tù không thời hạn), tử hình thì HPTCTH ít nghiêm khắc hơn. Tính nghiêm khắc của HPTCTH còn thể hiện ở hậu quả pháp lý của hình phạt này, đó là sau khi chấp hành xong HPTCTH, người bị kết án vẫn phải mang án tính trong một thời hạn do pháp luật quy định. 7 - HPTCTH được quy định trong BLHS: Đây là đặc điểm phản ánh tính chất pháp lý của HPTCTH. Trong BLHS hiện hành, HPTCTH được quy định ở cả phần chung và phần tội phạm cụ thể. Điều 28 phần chung BLHS quy định bản chất, nội dung, thời hạn, phạm vi áp dụng HPTCTH. Theo khoản 1 Điều 38 BLHS thì mức tối thiểu của HPTCTH là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm. Trường hợp người bị kết án phạm nhiều tội thì tổng hợp hình phạt chung không được quá 30 năm. Thời gian giam giữ trước khi xét xử tại nhà tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù. Theo quy định tại khoản 2 Điều 38 BLHS thì “Không áp dụng HPTCTH đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng”. Đây là một quy định mới thể hiện chính sách hình sự nhân đạo, hướng thiện trong xử lý người phạm tội đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW cảu Bộ chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. là sự cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người. Quy định này nhằm hạn chế tối đa việc áp dụng HPTCTH, mở rộng phạm vi áp dụng những hình phạt không tước tự do của người bị kết án trong thực tế xét xử. Trong phần các tội phạm của BLHS hiện hành có 317 điều luật quy định về tội phạm thì có tới 291 điều luật có quy định HPTCTH (chiếm 91,79%); chỉ có khoản 1 của 25 điều luật và khoản 4 của 1 điều luật là không quy định HPTCTH mà thay vào đó là cải tạo không giam giữ là hình phạt nặng nhất. Còn trong các khung hình phạt khác, HPTCTH được quy định riêng hoặc quy định cùng với các hình phạt chính khác để Tòa án lựa chọn khi áp dụng. Trong các khung hình phạt có quy định HPTCTH, nhà làm luật đều quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt này. Đối với trường hợp phạm tội cụ thể, Tòa án chỉ được phép tuyên HPTCTH trong giới hạn tối thiểu và tối đa của khung hình phạt được áp dụng. Tòa án không được quyền tuyên quá mức tối đa của khung hình phạt, nhưng trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS thì Tòa án có thể áp dụng Điều 54 BLHS để quyết định HPTCTH dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ 8 hơn. Tuy nhiên, Tòa án không thể tuyên phạt tù dưới mức 03 tháng vì đó là mức thấp nhất của HPTCTH mà luật định. - HPTCTH chỉ do Tòa án quyết định áp dụng đối với cá nhân người phạm tội bị kết án. Đặc điểm này cho thấy, trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thì chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền nhân danh Nhà nước quyết định HPTCTH đối với người bị kết án. Ngoài Tòa án, thì không có một cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nào có thẩm quyền này. Mặt khác, HPTCTH chỉ được áp dụng đối với cá nhân người phạm tội bị kết án, bởi hình phạt là hậu quả tất yếu của việc thực hiện tội phạm. Do vậy, HPTCTH phải nhằm chống lại chính bản thân người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm được quy định trong BLHS thì mới có thể đạt được mục đích phòng ngừa riêng. Thêm vào đó tại khoản 1 Điều 2 BLHS hiện hành có quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. HPTCTH với tính chất là một trong những biện pháp trách nhiệm hình sự, nên cũng chỉ có thể áp dụng đối với vá nhân người phạm một tội đã được BLHS quy định. Do tính chất đặc biệt của HPTCTH nên hình phạt này không được áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội (với tư cách là một tổ chức kinh tế) nhưng vẫn có thể áp dụng đối với cá nhân của pháp nhân khi hành vi của họ được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại, vì lợi ích của pháp nhân thương mại hoặc được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc sự chấp thuận của pháp nhân thương mại (khoản 1 Điều 75). 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt tù có thời hạn * Khái niệm thi hành hình phạt tù có thời hạn Hiện nay trong khoa học pháp lý cũng như trong luật thực định có một số khái niệm (thuật ngữ) có liên quan đến thi hành hình phạt tù như: “chấp hành hình phạt tù”; “Thi hành án phạt tù”; “Thi hành bản án phạt tù” Cụ thể: Trong BLHS hiện hành khi quy định những vấn đề liên quan đến thi hành hình phạt tù nói chung (tù có thời hạn, tù chung thân), nhà làm luật đã sử dụng một số thuật ngữ như: “Hoãn chấp hành hình phạt tù” (Điều 67); “Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù” (Điều 68). Còn trong BLTTHS hiện hành khi đề cập đến vấn đề trên, nhà làm luật lại sử dụng thuật ngữ “Thi hành bản án, quyết định của 9 Tòa án” (Trong phần thứ 5 BLTTHS). Trong Luật THAHS năm 2010 thì lại sử dụng thuật ngữ “Thi hành án phạt tù” (Chương III, Điều 21, Điều 22) hoặc thuật ngữ “Chấp hành án phạt tù” (Điều 23, Điều 24...). Như vậy, trong Luật THAHS năm 2010 có sự phân biệt giữa các khái niệm “Thi hành án phạt tù” và khái niệm “Chấp hành án phạt tù”. Vấn đề đặt ra ở đây là phải chăng giữa các khái niệm này có cùng nội hàm? Vậy, khái niệm thi hành hình phạt tù có quan hệ như thế nào với các khái niệm nêu trên. Đây là vấn đề cần nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận. Trước hết, về khái niệm “chấp hành HPTCTH”. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “chấp hành” được giải nghĩa là “làm đúng theo điều mà tổ chức quyết định, đề ra” [56, tr.246]. Qua đây có thể hiểu: “Chấp hành HPTCTH là việc người bị kết án thực hiện đúng bản án, quyết định phạt tù có thời hạn mà Tòa án tuyên phạt đối với họ”. Còn thuật ngữ “thi hành” thì được giải nghĩa là “Thực hiện điều đã chính thức quyết định” [56, tr.1497]. Từ logic này, có thể hiểu: “Thi hành HPTCTH là việc cơ quan, người có thẩm quyền buộc người bị kết án phải chấp hành bản án, quyết định phạt tù có hiệu lực pháp luật của Tòa án trong một thời hạn nhất định”. Với ý nghĩa như vậy, theo chúng tôi, thi hành HPTCTH bao hàm hai loại hoạt động của hai chủ thể khác nhau: Một là, hoạt động của người bị kết án chấp hành bản án, quyết định phạt tù có thời hạn của Tòa án; Hai là, hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền buộc người bị kết án phải chấp hành HPTCTH mà Tòa án quyết định áp dụng đối với họ. Như vậy, khái niệm “thi hành HPTCTH” có nội hàm rộng hơn khái niệm “chấp hành HPTCTH” cả về chủ thể, cả về nội dung: Chủ thể chấp hành HPTCTH chỉ là người bị kết án; còn chủ thể thi hành HPTCTH không chỉ có người bị kết án mà còn cả Tòa án đã xét xử sơ thẩm và cơ quan THAHS có thẩm quyền. Nội dung của chấp hành hình phạt tù chỉ bao gồm hoạt động chấp hành bản án phạt tù có thời hạn của người bị kết án; còn nội dung của thi hành HPTCTH bao gồm hai loại hoạt động: + Một là, hoạt động của người bị kết án trong việc chấp hành bản án phạt tù có thời hạn + Hai là, hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành bản án, quyết định phạt tù có thời hạn. 10 Hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành bản án, quyết định phạt tù có thời hạn lại bao hàm nhiều hoạt động khác nhau, trong đó có hoạt động ra quyết định thi hành án của chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án, hoạt động của Tòa án trong việc miễn chấp hành, giảm thời hạn chấp hành HPTCTH, tha tù trước thời hạn có điều kiện, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Bên cạnh hoạt động của Tòa án, thi hành HPTCTH, còn có hoạt động thi hành án phạt tù của Cơ quan THAHS. Theo khoản 3 Điều 3 Luật THAHS thì “Thi hành án phạt tù là việc cơ quan người có thẩm quyền theo quy định của luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội”. Như vậy, khái niệm “thi hành án phạt tù” được dùng để chỉ những hoạt động (chủ yếu có tính chất thủ tục) của Cơ quan THAHS trong việc buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội. Đối tượng thi hành án phạt tù có thời hạn là phạm nhân, tức là “người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn...” (khoản 2 Điều 3 Luật THAHS năm 2010). Từ những quy định này cho thấy, thi hành án phạt tù có thời hạn được tiến hành kể từ khi Cơ quan THAHS có thẩm quyền tiếp nhận người bị kết án phạt tù có thời hạn để thi hành án tại cơ sở giam giữ, tức là buộc họ (phạm nhân) phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội. Những hoạt động này chủ yếu là hoạt động tiếp nhận người phải chấp hành HPTCTH, tổ chức quản lý giam giữ phạm nhân, thực hiện các chế độ học tập, lao động; chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc sức khỏe... đối với phạm nhân; hoạt động thi hành một số quyết định liên đến thi hành án phạt tù (như: Thi hành quyết định chấp hành án phạt tù; quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, quyết định tiếp nhận, chuyển giao đối với người đang chấp hành án phạt tù) và một số hoạt động khác (như: xử lý phạm nhân vi phạm, giải quyết trường hợp phạm nhân trốn, trả tự do cho phạm nhân...). Qua đây thấy rằng, thi hành án phạt tù có thời hạn của Cơ quan THAHS chỉ là một bộ phận của thi hành HPTCTH. Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu: “Thi hành HPTCTH là hoạt động áp 11 dụng pháp luật mang tính quyền lực Nhà nước, tính cưỡng chế nghiêm khắc, tính định hướng, mục đích do Cơ quan Nhà nước và người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện dựa trên những nguyên tắc nhất định, theo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ nhằm đưa bản án phạt tù có thời hạn đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế nhằm cải tạo, giáo dục người bị kết án phạt tù có thời hạn trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, không phạm tội mới cũng như giáo dục người khác có ý thức tôn trọng và bảo vệ pháp luật, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm”. * Đặc điểm Thi hành hình phạt tù có thời hạn có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, thi hành HPTCTH là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền nhằm bảo đảm các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tù được hiện thực hóa trên thực tế. Đặc điểm này cho thấy, thi hành HPTCTH là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật THAHS. Những quy phạm pháp luật của ba ngành luật này đều điều chỉnh hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành HPTCTH. Trong BLHS hiện hành, Những quy định có liên quan đến thi hành HPTCTH bao gồm: quy định về HPTCTH (Điều 38); quy định về thời hiệu thi hành bản án (Điều 60); quy định về không áp dụng thời hiệu thi hành bản án (Điều 61); quy định về miễn chấp hành hình phạt (Điều 62); quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều 63); quy định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt (Điều 64); quy định về án treo (Điều 65); quy định về tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 66); quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù (Điều 67); quy định về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 68). Trong BLTTHS hiện hành, những quy định liên quan đến thi hành hình phạt tù gồm: quy định về bản án, quyết định được thi hành ngay (Điều 363); quy định về thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án (Điều 364); quy định về giải thích, sửa chữa bản án, quyết định của Toà án (Điều 365) và quy định về giải quyết kiến nghị đối với bản án, quyết định của Toà án (Điều 366). 12 Trong Luật THAHS năm 2010, những quy định liên quan trực tiếp đến thi hành án phạt tù gồm những quy định về thủ tục thi hành án và chế độ quản lý giam giữ, giáo dục phạm nhân (Mục 1, từ Điều 21 đến Điều 41); những quy định về chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân (Mục 2, từ Điều 42 đến Điều 49); những quy định đối với phạm nhân là người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) (Mục 3, từ Điều 50 đến Điều 53). Những quy định này chỉ có thể được hiện thực hóa khi được áp dụng trong thực tiễn bởi cơ quan, người có thẩm quyền. Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền thi hành hình phạt tù vừa là cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự, vừa là cơ quan, người có thẩm quyền trong lĩnh vực hành chính- tư pháp. Theo quy định của Điều 364 BLTTHS, chủ thể có thẩm quyền thi hành HPTCTH trước hết là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đó là TAND đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Cụ thể: “Chánh án TAND đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho chánh án Toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án” (trong đó có thi hành án phạt tù có thời hạn); Chánh án đã ra quyết định thi hành án có thẩm quyền ra quyết định giảm mức hình phạt đã tuyên, tha tù trước thời hạn có điều kiện, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Chủ thể có thẩm quyền thi hành án phạt tù có thời hạn là cơ quan THAHS thuộc Bộ Công an (gồm trại giam thuộc Bộ công an, Cơ quan THAHS Công an tỉnh, Cơ quan THAHS Công an huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh); Cơ quan THAHS Bộ quốc phòng (gồm: trại giam thuộc Bộ quốc phòng, trại giam thuộc quân khu, cơ quan THAHS quân khu và tương đương); Cơ quan được giao một số nhiệm vụ THAHS như: trại tạm giam thuộc Bộ công an, trại tạm giam thuộc. Bộ quốc phòng, trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu (Điều 10). Đây là những cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền thi hành án phạt tù có thời hạn, một hoạt động có tính chất hành chính - tư pháp. Thứ ba, người phải chấp hành HPTCTH là người phạm tội, bị TAND xét xử sơ thẩm hình sự và kết án phạt tù có thời hạn trong bản án đã có hiệu lực pháp luật (người phải chấp hành án). Do vậy, pháp nhân thương mại không phải là đối tượng 13 phải chấp hành hình phạt tù. Thứ tư, thi hành HPTCTH là hoạt động có nội dung hết sức phong phú, đa dạng. Nội dung của thi hành hình phạt tù bao gồm tất cả những hoạt động nhằm bảo đảm bản án phạt tù có thời hạn được thi hành trên thực tế. Những hoạt động này có thể là hoạt động của TAND trong việc ra quyết định thi hành án, quyết định giảm mức hình phạt đã tuyên, quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt, quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù....và chuyển giao các quyết định đó cho Cơ quan thi hành án. Thuộc nội dung của thi hành HPTCTH còn có các hoạt động của Cơ quan, người có thẩm quyền THAHS, đó là: hoạt động quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân để họ sớm trở thành người lương thiện, không phạm tội mới, thực hiện một số chế độ đối với phạm nhân, triển khai các chương trình chuẩn bị cho phạm nhân sau khi mãn hạn tù có điều kiện tái hòa nhập cộng đồng (chẳng hạn như dạy nghề).v.v. Thứ năm, hoạt động thi hành HPTCTH được tiến hành theo một trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ. Thi hành HPTCTH tác động, ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án, nhất là quyền con người, do vậy hoạt động này phải được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Thứ sáu, thi hành HPTCTH mang tính quyền lực Nhà nước, tính cưỡng chế nghiêm khắc, tính định hướng, mục đích rõ ràng. Hoạt động thi hành HPTCTH do Cơ quan Nhà nước và người có thẩm quyền thực hiện để một người bị kết án phạt tù có thời hạn phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ và Cơ quan tổ chức quản lý, giam giữ, cải tạo, giáo dục họ nhanh chóng sớm trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, không phạm tội mới (tái phạm). Khi thực hiện nhiệm vụ thi hành HPTCTH, cơ quan và người có thẩm quyền nhân danh Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để buộc người bị kết án phạt tù phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ. Đối với người bị kết án tù có thời hạn nếu không chịu chấp hành hình phạt sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án theo Điều 380 BLHS hiện hành, còn đối với người bị kết án phạt tù có thời hạn đang tại ngoại mà không có mặt để đến cơ sở giam giữ chấp hành án sẽ bị 14 áp dụng biện pháp áp giải. Do vậy, thi hành HPTCTH là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Hoạt động thi hành hình phạt tù không chỉ mang tính quyền lực Nhà nước mà còn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc, bởi việc buộc người bị kết án phạt tù phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo tại cơ sở giam giữ (trại giam, trại tạm giam) đã hạn chế quyền tự do cá nhân của người bị kết án phạt tù. Họ phải cách ly khỏi môi trường xã hội bên ngoài, phải lao động, học tập, cải tạo dưới sự quản lý hết sức chặt chẽ của cơ sở giam giữ theo một chế độ nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, thi hành HPTCTH còn là hoạt động có tính định hướng, mục đích rõ ràng. Hoạt động thi hành HPTCTH với tính chất là hoạt động áp dụng pháp luật luôn hướng tới mục đích, thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Trước hết, thi hành HPTCTH có nhiệm vụ bảo đảm hình phạt tù mà Tòa án quyết định áp dụng đối với người bị kết án trong bản án đã có hiệu lực pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh trên thực tế. Đây là nhiệm vụ hàng đầu và rất quan trọng, bởi nếu HPTCTH đã được tuyên trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật không được chấp hành, thực hiện hoặc chấp hành, thực hiện không đầy đủ thì toàn bộ quá trình tố tụng hình sự trước đó (như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) khó mà có ý nghĩa đầy đủ. Mặt khác, HPTCTH mà Tòa án tuyên phạt người bị kết án không được thực hiện trên thực tế, người bị kết án phạt tù vẫn ở môi trường xã hội bên ngoài thì rất khó giáo dục được người dân ý thức tôn trọng pháp luật, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo người bị kết án phạt tù có thời hạn trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, tạo mọi điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng, phòng ngừa họ phạm tội lại (tái phạm) là một trong những mục đích mà hoạt động thi hành hình phạt tù cần đặt ra và hướng tới. Trong tình hình hiện nay, công tác thi hành HPTCTH luôn quán triệt phương hướng “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội” đã được đề ra trong nghị Quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp năm 2020, hướng tới bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý và công bằng xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền năng tố tụng của người bị kết 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan