Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn thiên nhiên trong sáng tác của các nữ tác giả việt nam thời trung đại ...

Tài liệu Luận văn thiên nhiên trong sáng tác của các nữ tác giả việt nam thời trung đại nhìn từ phê bình sinh thái

.PDF
96
110
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ****** NGUYỄN THỊ THÚY THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA CÁC NỮ TÁC GIẢ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI - NHÌN TỪ PHÊ BÌNH SINH THÁI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ****** NGUYỄN THỊ THÚY THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA CÁC NỮ TÁC GIẢ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI - NHÌN TỪ PHÊ BÌNH SINH THÁI Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 01 21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN HẢI YẾN Hà Nội - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của TS. Trần Hải Yến. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chƣa sử dụng để bảo vệ một công trình khoa học nào. Những luận điểm sử dụng của tác giả khác, tác giả luận văn đều có ghi chú rõ ràng nguồn gốc. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thúy LỜI CẢM ƠN Để có đƣợc những thành quả nhƣ ngày hôm nay, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến những ngƣời đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận đƣợc sự chỉ bảo tận tâm, chu đáo từ phía TS Trần Hải Yến. Cô đã tận tình hƣớng dẫn cách trình bày, giải quyết vấn đề để tôi hoàn thành tốt luận văn này. Xin trân trọng cảm ơn cô! Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô khoa Văn học, trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, những ngƣời đã nhiệt tình giảng dạy để tôi hoàn thành tốt khóa học và luận văn tốt nghiệp. Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu nhà trƣờng, phòng Sau Đại học đã tạo những điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trƣờng. Tác giả luận văn chân thành biết ơn những ngƣời thân trong gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian qua. Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2016 Tác giả Nguyễn Thị Thúy MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 7 4. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 8 5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 8 6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 8 7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 9 NỘI DUNG..................................................................................................... 10 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................... 10 1.1. Thiên nhiên trong quan niệm Việt Nam thời trung đại ..................... 10 1.1.1. Quan niệm của tam giáo về quan hệ thiên – nhân................................ 10 1.1.2. Thiên nhiên trong sáng tác văn học trung đại Việt Nam ...................... 13 1.2. Nhìn lại “nữ lƣu” trong lịch sử văn chƣơng thời trung đại ............... 35 1.3. Những nét phác về phê bình sinh thái và tiềm năng của nó trong nghiên cứu văn chƣơng ................................................................................. 41 1.3.1. Đôi nét về phê bình sinh thái ................................................................ 41 1.3.2. Phê bình sinh thái với nghiên cứu văn chương..................................... 44 Tiểu kết ........................................................................................................... 45 Chƣơng 2 TOÀN CẢNH THIÊN NHIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA CÁC CÂY BÚT NỮ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI ............................. 47 2.1. Sáng tác về thiên nhiên của các tác giả nữ qua những con số thống kê .... 47 2.2. Thế giới tƣ ̣ nhiên - con ngƣời theo cái nhin ̀ của tác giả nƣ̃ ................ 52 2.2.1. Thiên nhiên được biểu hiện qua thảm thực vật ..................................... 52 2.2.2. Thiên nhiên xuất hiện qua thế giới động vật......................................... 57 2.2.3. Thiên nhiên chuyển vận theo bốn mùa .................................................. 61 2.2.4. Thiên nhiên danh thắng......................................................................... 66 Tiểu kết ........................................................................................................... 68 Chƣơng 3 THIÊN NHIÊN – HÌNH DUNG VÀ BIỂU TẢ CỦA NỮ GIỚI VỀ MÔI SINH TRONG VĂN HÓA THỜI TRUNG ĐẠI ........................ 69 3.1. Những khoảng thiên nhiên khuyết vắng và dôi dƣ ............................. 69 3.2. Đặc điểm của chủ thể sinh thái trong thơ văn nữ Việt Nam thời trung đại.................................................................................................................... 77 Tiểu kết ........................................................................................................... 84 KẾT LUẬN .................................................................................................... 85 TƢ LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 86 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Thời trung đại của Viê ̣t Nam , các sáng tác văn chƣơng không chỉ thể hiện những tƣ tƣởng lớn nhƣ yêu nƣớc, nhân đạo qua tinh thầ n chố ng giă ̣c ngoại xâm, qua tình yêu con ngƣời ở nhiề u cung bâ ̣c cảm xú c…. mà còn có nhiề u sáng tác về thiên nhiên . Bởi tình yêu vố n có của ngƣời cầ m bút với thế giới tƣ̣ nhiên , và còn bởi nhƣ̃ng quan niê ̣m đă ̣c biê ̣t của thời đại đó về mố i quan hê ̣ con ngƣời – tƣ̣ nhiên. 1.2. Thiên nhiên trở thành nguồn cảm hứng lớn trong văn chƣơng, không chỉ ở các bâ ̣c nam nhân của Viê ̣t Nam thời trung đa ̣i . Những tác gia nữ đầy tài năng nhƣ Hồ Xuân Hƣơng, Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Ngô Chi Lan, Trƣơng Thị Trong, Nguyễn Tĩnh Hòa… đều có nhiều đóng góp cho tiến trình vận động , phát triển của văn học nƣớc nhà nói chung và mảng sáng tác này nói riêng . Sƣ̣ khác biê ̣t về giới tiń h hiể n nhiên sẽ chi phố i nhiề u phƣơng diê ̣n của sáng tác mà chủ đề thiên nhiên là mô ̣t . Khảo sát chủ đề này ở các cây bút nữ vì vậy sẽ làm sáng tỏ thêm những vấn đề xung quanh thái độ của con ngƣời với thế giới tự nhiên , vai trò của tƣ̣ nhiên trong tiǹ h cảm , nhâ ̣n thƣ́c của con ngƣời ; thêm nƣ̃a , tìm hiểu cách nhìn , cách phản ánh thiên nhiên ở các tác giả nữ thời trung đại còn góp phần hiểu thêm đặc thù văn hoá giới của giai đoạn này. 1.3. Những dẫn nhâ ̣p phê biǹ h văn ho ̣c sinh thái ho ̣c gầ n đây vào đời số ng nghiên cƣ́u văn ho ̣c Viê ̣t Nam đã đem la ̣i nhi ều gợi ý cho việc nhìn lại thế giới tự nhiên trong văn chƣơng. Đối tƣợng của hình th ức phê biǹ h khá mới mẻ này là nhƣ̃ng sáng tác thể hiê ̣n thiên nhiên trong tiń h nguy cơ ở cuô ̣c số ng bin ̀ h thƣờng của con ngƣời . Nói cách khác, phê bình sinh thái tập trung chú ý vào những tác phẩm văn chƣơng thể hiện cảm quan bất an của con ngƣời về mô ̣t môi sinh đang bi tổ ̣ n thƣơng , trong đó thiên nhiên là mô ̣t hiǹ h 1 ảnh chủ yếu ; hoă ̣c tim ̀ hiể u chiề u sâu văn hoá , tƣ tƣởng của cách con ngƣời hình dung thiên nhiên , tác động vào tự nhiên . Ngoài ra , với tính chấ t liên ngành, phê bình sinh thái luôn có xu hƣớng kế t hơ ̣p với nhƣ̃ng tiế p câ ̣n khác , nhƣ: giới, chủng tộc, dân tô ̣c… Đó là mô ̣t kiể u tiế p câ ̣ n hƣ́a he ̣n nh ững nhìn nhận khả th ủ trong viê ̣c tìm hiể u sáng tác của các tác gi ả nữ Việt Nam thời trung đại ở mảng thiên nhiên. Vì tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Thiên nhiên trong sáng tác của các nữ tác giả Việt Nam thời trung đại – nhìn từ phê bình sinh thái với hy vọng bổ sung thêm mô ̣t và i lý giải mới cho mô ̣t chủ điểm đã đƣơ ̣c giới nghiên cƣ́u tìm hiểu trƣớc đây. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Lịch sử nghiên cứu thơ văn viết về thiên nhiên của các tác giả nữ trung đại Về các tác giả thời trung đại, có khá nhiều chuyên luận và bài viết, tuy nhiên nghiên cứu về các tác giả nữ lại chƣa có một công trình đô ̣c lâ ̣p nào. Năm 1929 trong cuốn Nữ lưu văn học sử Sở Cuồng, Lê Dƣ đã có những đánh giá, ghi nhận đầu tiên về các tác giả nữ trong văn học Việt Nam nhƣ Hồ Xuân Hƣơng, Đoàn Thị Điểm…. Theo đánh giá của tác giả thì đây đều là những nhà thơ nữ tài năng, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn học… Đến năm 2010 Đỗ Thị Hảo cho ra mắt cuốn Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam thì tác phẩm văn chƣơng nữ đƣợc nhìn nhận, sắp xếp một cách có hệ thống hơn theo tiến trình phát triển của lịch sử. Trong cuốn sách này Đỗ Thị Hảo đã điểm danh mƣời hai gƣơng mặt nữ tác giả trong suốt tiến trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỳ XIX đó là: Lý Ngọc Kiều, Lê Thị Yến, Ngô Chi Lan, Đoàn Thị Điểm, Trƣơng Thị (Ngọc) Trong, Phạm Lam Anh, Lê Ngọc Hân, Hồ Xuân Hƣơng, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Trinh Thận, Nguyễn Tĩnh Hòa, Nguyễn Thị Nhƣợc Bích. Ngoài ra 2 còn một số công trình nhƣ: Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều: tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình, bình luận văn học của các nhà văn, nghiên cứu Việt Nam và thế giới (Tiến Quỳnh, 1991)… Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (Trần Nho Thìn, 2012), cũng dành một lƣợng trang viết nhất định cho tác giả nữ. Thứ nhất về lịch sử nghiên cứu thơ văn của Hồ Xuân Hƣơng. Hồ Xuân Hƣơng đƣợc mệnh danh là bà chúa thơ Nôm, tên tuổi của bà cũng đƣợc đặt cạnh những đại thi hào của dân tộc nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…Thơ Hồ Xuân Hƣơng là một hiện tƣợng độc đáo, không dễ bị trộn lẫn. Với số luợng sáng tác không nhiều nhƣng ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX đã có nhiều chuyên luận, bài nghiên cứu, bài phân tích, bình giảng, luận văn, luận án nghiên cứu về thơ bà. Nhiều cuốn sách viết về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hƣơng đƣợc tái bản nhiều lần1. Nói về thiên nhiên trong sáng tác của Hồ Xuân Hƣơng, ngay từ những năm 1955 trong cuốn Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục (1955) Văn Tân đã khẳng định Hồ Xuân Hƣơng là nhà thơ tả chân và yêu thiên nhiên. Trong cuốn Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương của Lê Chí Viễn (1987) nhà nghiên cứu Hoài Nam đánh giá Hồ Xuân Hƣơng là một nhà thơ yêu thiên nhiên và thiên nhiên trong thơ bà là thiên nhiên luôn dồi dào sức sống2. Bên cạnh đó, nhiều luận án tiến sĩ đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của thơ Hồ Xuân Hƣơng nhƣ: Lý giải cái dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực (Đỗ Lai Thúy, 1994), Hồ Xuân Hương và nền văn hóa dân gian (Nguyễn Thị Ngọc, 1996), Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương (Trƣơng Xuân Tiếu, 2002). Trong đó Luận 1 Nhƣ Hồ Xuân Hương tiểu sử văn bản - Tiến trình huyền thoại dân gian hóa của Đào Thái Tôn năm 1999, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX của tác giả Nguyễn Lộc năm 2005, hay Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu (2003)… 2 Lê Trí Viễn (chủ biên) - Lê Xuân Lít - Nguyễn Đức Quyền (1987), Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, NXB Sở Giáo dục Nghĩa Bình, tr.162. 3 án của Trƣơng Xuân Tiếu [45] đã giới thiệu khái quát về không gian nghệ thuật trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng theo cách phân loại thành không gian vũ trụ, không gian địa lý phong tục và không gian sinh hoạt của con ngƣời. Còn tác giả Đỗ Lai Thúy với công triǹ h Hồ Xuân Hương , hoài niê ̣m phồ n thực3 lại dùng phƣơng pháp tiế p câ ̣n của phân tâm ho ̣c để tim ̀ kiế m cội nguồn và dịch chuyển của tín ngƣỡng phồn thực từ các sinh hoạt văn hoá dân gian vào hiê ̣n tƣơ ̣ng thơ Hồ Xuân Hƣơng . Tƣ̀ góc nhiǹ này , Đỗ Lai Thuý đã phân tić h tin ́ h lấ p lƣ̉ng của các biể u tƣơ ̣ng trong thơ Hồ Xuân Hƣơng để chỉ ra triết lý , mỹ học phồn thực có cội nguồn dân gian trong những sáng tác này. Có thể thấy , qua cách nhiǹ của Đỗ Lai Thuý , nhƣ̃ng hiǹ h ảnh trong thơ Hồ Xuân Hƣơng , trong đó có hình ảnh của thế giới tƣ̣ nhiên (nhƣ: Ốc nhồi, Quả mít,... và chùm bài vịnh cảnh , đố i đáp) tuy dƣ̣a trên nhƣ̃ng quan sát thƣ̣c tế và đƣơ ̣c mô tả bằ ng các chi tiế t cu ̣ thể nhƣng chúng chủ yế u thuô ̣c về thế giới biể u tƣơ ̣ng của sƣ̣ sùng ngƣỡng phồ n thƣ̣c. Thứ hai về lịch sử nghiên cứu thơ văn Bà Huyện Thanh Quan - tác giả nữ của những năm đầu thế kỷ XIX. Thơ bà để lại không nhiều chủ yếu là thơ Nôm viết theo thể Đƣờng luật. Giáo sƣ Dƣơng Quảng Hàm nhận xét “Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tả tình nhƣng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là một ngƣời có tính tình đoan chính, thanh tao, một ngƣời có học thức, thƣờng nghĩ ngợi đến nhà đến nƣớc, lời văn rất trang nhã điêu luyện” [19, tr.396-397]. Qua khảo sát có thể thấy thơ Bà Huyện Thanh Quan đƣợc quan tâm nghiên cứu từ khá sớm với nhiều cuốn sách đƣợc xuất bản nhƣ Luận đề về Bà Huyện Thanh Quan của Nguyễn Sỹ Tế xuất bản năm 1953, Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình, bình luận văn học của các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam và thế giới của Tiến Quỳnh xuất bản năm 1991, Người đẹp Nghi Tàm cuộc đời và thơ Bà Huyện Thanh Quan của Bội Tinh xuất bản năm 1996… 3 Đỗ Lai Thúy (in lầ n thƣ́ hai, 2010), Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực, NXB Văn ho ̣c, Hà Nội. 4 Khác đôi chút với Hồ Xuân Hƣơng, thiên nhiên trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đƣợc các học giả quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Trong cuốn Bà Huyện Thanh Quan , Đoàn Thị Điểm , Nguyễn Gia Thiều tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình, bình luận văn học của các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam và thế giới (1991), soạn giả Tiến Quỳnh đã tập hợp những bài phê bình, bình luận về thơ Huyện Thanh Quan, trong đó những bài thơ viết thiên nhiên của Huyện Thanh Quan đƣợc nhiều nhà nghiên cứu phân tích. Chẳng hạn, nhà nghiên cứu Phạm Văn Diêu cho rằng “tâm hồn bà là một không gian lặng lẽ đìu hiu và thơ bà là tiếng lòng sầu muộn, những hơi thở dài chán nản” [48, tr.8] và vì thế nên khung cảnh trong thơ văn bà Huyện Thanh Quan thƣờng là thu cảnh và chiều tà, những cảnh mờ nhạt của cổ họa, cổ thi [48]. Một nữ tác gia nữa cũng làm tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu, đó là Đoàn Thị Điểm. Bà có biệt hiệu là Hồng Hà Nữ sĩ, một nữ sĩ tài hoa hội tụ đủ công, dung, ngôn, hạnh, nổi tiếng về tài thơ văn đối đáp. Theo các nhà văn bản học thì bà sáng tác nhiều nhƣng tản mát phần lớn, ngoài bản dịch Chinh phụ ngâm bà còn là tác giả của tập truyện Truyền kì tân phả và một số ít câu văn câu đối chữ Hán và chữ Nôm. Viết về Đoàn Thị Điểm ngoài Thơ tình nữ sĩ Việt Nam (Kiều Văn tuyển chọn), Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm [12], Nữ lưu văn học sử [11] còn một số luận án nhƣ Về từ ngữ Hán Việt trong bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm4, Nhân vật người phụ nữ trong Truyền kì Tân phả và Lan trì kiến văn học5, Nghiên cứu Đoàn Thị Điểm qua Đoàn Thị Thực Lục6, Không gian và thời gian trong Chinh phụ ngâm khúc7… Tuy nhiên, xét riêng về thiên nhiên trong thơ Đoàn Thị Điểm thì chƣa thấy ai bàn luận đến. 4 Nguyễn Thúy Hồng (1988), Về từ ngữ Hán Việt trong bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, NXB ĐHSP Hà Nội. 5 Lê Thu Trang (2013), Nhân vật người phụ nữ trong Truyền kì Tân phả và Lan trì kiến văn học, NXB ĐHSP Hà Nội. 6 Nguyễn Thị Thanh Vân (2007), Nghiên cứu Đoàn Thị Điểm qua Đoàn Thị Thực Lục, NXB ĐHSP Hà Nội. 7 Phạm Thị Thanh Hải (1999), Không gian và thời gian trong Chinh phụ ngâm khúc, NXB ĐHSP Hà Nội. 5 Ngoài ba nữ tác gia trên, văn học trung đại Việt Nam còn ghi nhận sự đóng góp của nhiều nữ sĩ tài hoa nhƣ: Trƣơng Thị (Ngọc) Trong, Ngô Chi Lan, Nguyễn Thị Nhƣợc Bích, Nguyễn Tĩnh Hòa, Nguyễn Trinh Thận… tuy nhiên do số lƣợng tác phẩm của các tác giả nữ này không nhiều hoặc chƣa đƣợc dịch nên việc tìm hiểu về họ còn hạn hẹp. Từ những lƣợc điểm trên, có thể nhận thấy hầu hết các bài nghiên cứu, chuyên luận đều tập trung tìm hiểu thân thế, sự nghiệp, tìm hiểu khát vọng hạnh phúc lứa đôi của ngƣời phụ nữ trong văn học, còn ở một số tác giả nữ tiêu biểu, thiên nhiên đƣợc quan tâm nhƣ một vấn đề trung gian để phục vụ cho các mục tiêu nghiên cứu khác. 2.2. Lịch sử dẫn nhập và thử nghiệm tìm hiểu văn chương từ phê bình sinh thái ở Việt Nam Đƣợc manh nha vào những năm 70 của thế kỷ XX nhƣng phải đến những năm 90 của thế kỷ XX phê bình sinh thái mới thực sự trở thành một khuynh hƣớng nghiên cứu văn học ở Mỹ và tiếp đó lan ra nhiều nƣớc trên thế giới. Theo Scott Slovic, phê bình sinh thái “khảo sát cặn kẽ những ngụ ý về môi trƣờng sinh thái và quan hệ giữa con ngƣời - tự nhiên trong bất kỳ văn bản văn chƣơng nào, kể cả những văn bản (thoạt nhìn) dƣờng nhƣ không để ý gì đến thế giới con ngƣời” [39]. Nhƣ vâ ̣y, phê bình sinh thái ra đời bổ sung thêm mô ̣t hƣớng tiế p câ ̣n văn chƣơng, và hứa hẹn đem lại những gợi ý đối với viê ̣c “đo ̣c” la ̣i các sáng tác thời trung đa ̣i vố n hiǹ h dung mô ̣t quan niê ̣m con ngƣời hài hoà với thế giới tƣ̣ nhiên. Ở Việt Nam từ sau đổi mới, giới nghiên cứu khá cởi mở trong việc tiếp thu các luồng tƣ tƣởng, học thuyết mới nhƣng đối với phê bình sinh thái thì vẫn còn nhiều dè dặt. Lí giải hiện tƣợng đó, Đỗ Văn Hiểu với bài viết Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân (2012) đã chỉ ra những đặc điểm riêng khiến phê bình sinh thái gặp trở ngại cho sự 6 phát triển, mở rộng ở Việt Nam nhƣ: sự cách tân về tƣ tƣởng nòng cốt, chuyển đổi từ tƣ tƣởng “nhân loại trung tâm luận” sang lấy “sinh thái trung tâm luận” làm nền tảng, mang sứ mệnh mới là “nhìn nhận lại văn hóa nhân loại”, đồng thời có nguyên tắc mỹ học riêng và xác lập đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu riêng. Những dẫn nhập về phê bình sinh thái đƣợc giới thiệu ở Việt Nam chủ yếu là qua các bài dịch của Đỗ Văn Hiểu và Hải Ngọc nhƣ Những tương lai của Phê bình sinh thái và văn học [39] [40], Phê bình sinh thái cội nguồn và sự phát triển [3]… và Trần Đình Sử với bài viết Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay [33] thì tƣ tƣởng sinh thái đã đƣợc vận dụng để xem xét quan hệ giữa văn học và môi trƣờng văn hóa, tinh thần xã hội. Những bài viết trên là nguồn tƣ liệu quan trọng cho giới nghiên cứu Việt Nam vận dụng những lí thuyết của phê bình sinh thái vào nghiên cứu văn học. Đến nay nghiên cứu văn học dƣới góc nhìn sinh thái học ở nƣớc ta đã có những thử nghiệm với các bài viết Đọc cánh đồng bất tận từ điểm nhìn phê bình sinh thái và Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp của Đặng Thị Thái Hà, Khí quyển thơ sinh thái của Mai Văn Phấn: Thơ, bầu trời và những linh hồn của Nhã Thuyên… trình bày tại một số hội thảo. Những tham luận đó có ý nghĩa nhƣ mô ̣t thƣ̉ nghiê ̣m tìm tòi cho một hƣớng nghiên cứu mới ở Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Tƣ̀ nhƣ̃ng khảo sát cu ̣ thể thế giới thiên nhiên qua ngòi bút nƣ̃ , phƣơng thƣ́c hin ̀ h dung/biể u tả thiên nhiên, ngƣời viế t sẽ tim ̀ hiể u : 1) các chủ thể sáng tạo văn chƣơng nữ giới này quan niệm nhƣ thế nào về mối quan hệ thiên - nhân quen thuô ̣c đó ; 2) quan hê ̣ chi phố i , tƣơng tác giƣ̃a diễn ngôn chung của mô ̣t thời đa ̣i với mô ̣t bô ̣ phâ ̣n của nó là giới nƣ̃. Nói cách khác, có thể coi đây là một thử nghiệm tiếp cận văn chƣơng từ phê bin ̀ h sinh thái với sƣ̣ kế t hơ ̣p với góc nhiǹ giới ở mức độ nhất định. 7 4. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi tƣ liê ̣u : Triển khai đề tài Thiên nhiên trong sáng tác của các nữ tác giả Việt Nam thời trung đại - nhìn từ phê bình sinh thái, tôi sử dụng các tác phẩm đƣợc tuyển chọn trong cuốn Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam với các tác giả nữ nhƣ: Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Trƣơng Thị (Ngọc) Trong, Nguyễn Trinh Thận, Nguyễn Tĩnh Hòa…. Ngoài ra, ngƣời viết cũng tham khảo các tuyể n tâ ̣p thơ văn riêng biê ̣t của những nhà văn nƣ̃ tiêu biể . u - Phạm vi vấn đề : Luâ ̣n văn chỉ tâ ̣p trung tìm hiể u các sáng tác của các nhà văn nữ thời trung đại viết về thiên nhiên với tƣ cách một môi trƣờng sống chứ không tìm hiểu toàn bộ thế giới văn thơ của họ. Trong thực tế, đề tài có phầ n liên quan đ ến một hƣớng tiếp cận khác là giới và đòi hỏi phải đƣợc xử lý cả từ góc nhìn nhƣ vậy mới thấu đáo. Tuy nhiên, do khuôn khổ hạn hẹp của một tiểu luận Cao học, chúng tôi xin đƣợc gác lại đòi hỏi này, hy vọng sẽ có dịp trở lại trong một dịp khác. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Do đố i tƣơ ̣ng và pha ̣m vi nghiên cƣ́u quy đinh , phƣơng pháp chủ yếu ̣ của luận văn là vận dụng kết hợp giữa phƣơng pháp văn học sử và phƣơng pháp liên ngành để giải quyết vấn đề. Đồng thời, luâ ̣n văn sẽ kế t hơ ̣p phân tić h, lý giải các sáng tác về thiên nhiên của giới nữ cầm bút thời trung đại Việt Nam với nhƣ̃ng gơ ̣i ý của phê bin ̣c thi thoảng với vấn đề giới). ̀ h sinh thái ho(và Tấ t cả những tiế p câ ̣n trên sẽ đƣơ ̣c cu ̣ thể hoá thành thao tác nhƣ : phân tích, thống kê, so sánh, để từ đó có cái nhìn chi tiế t , đầ y đủ và chiń h xác các nô ̣i dung nghiên cƣ́u. 6. Đóng góp của đề tài Với đề tài này, Luâ ̣n văn sẽ góp phầ n làm rõ thêm mô ̣t vài phƣơng diê ̣n của đời sống văn chƣơng Việt Nam thời trung đại , nhƣ: đă ̣c điể m của nhóm tác giả nữ trong cách cảm nhận và hình dung môi trƣờng thiên nhiên 8 , thiên nhiên trong văn chƣơng nhƣ mô ̣t phản chiế u của quan niê ̣m về quan hê ̣ con ngƣời [nữ] với thế giới tƣ̣ nhiên. Nguy cơ sinh thái đang là vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan đến sự tồn vong của nhân loại. Với việc nghiên cứu “Thiên nhiên trong sáng tác của các nữ tác giả Việt Nam thời trung – nhìn từ phê bình sinh thái” chúng tôi thử nghiệm một cách tiếp cận mới với sáng tác của các nữ tác giả trung đại. Bằng việc thống kê và dựng lại bức tranh thiên nhiên của các tác giả nữ, luận văn sẽ chỉ ra các đặc điểm của việc thể hiện đề tài này qua cái nhìn của ngƣời viết [nữ]. Và thiên nhiên ở đây sẽ đƣợc luận giải chủ yếu nhƣ một môi trƣờng sống, thể hiện qua cách hình dung [nữ] về mối quan hệ giữa con ngƣời và thiên nhiên, tác động giữa con ngƣời với tự nhiên và ngƣợc lại trong thời kì trung đại. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần MỞ ĐẦU, KẾT LUẬN, và danh mục TÀI LIỆU THAM KHẢO, luận văn đƣợc cấu trúc thành 3 chƣơng: Chƣơng 1: Một số vấn đề chung Chƣơng 2: Toàn cảnh thiên nhiên trong sáng tác của các cây bút nữ Viêṭ Nam thời trung đa ̣i Chƣơng 3: Thiên nhiên – hình dung và biểu tả của nữ giới về môi sinh trong văn hoá thời trung đa ̣i 9 NỘI DUNG Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Thiên nhiên trong quan niệm Việt Nam thời trung đại 1.1.1. Quan niệm của tam giáo về quan hệ thiên – nhân Quan niệm của Phật giáo về mối quan hệ thiên - nhân Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông, đã tạo nên sự hòa hợp con ngƣời và thế giới bên ngoài , trong đó có tự nhiên, xóa bỏ ranh giới ta – vật, nội tâm – ngoại cảnh, trạng thái hòa hợp đó cùng với quan niệm “đối cảnh vô tâm” đƣợc coi là chuẩn mực trong cách ứng xử với tự nhiên, xã hội. Bên cạnh đó, Phật giáo coi thiên nhiên là sự bảo đảm cho trạng thái cân bằng của con ngƣời vì vậy con ngƣời phải có nghĩa vụ đối với thế giới tự nhiên. Nói cách khác đây là vấn đề đạo đức sinh thái mà Phật giáo đã đặt ra cho con ngƣời. Phật giáo coi chúng sinh bình đẳng ở Phật tính. Phật giáo Đại thừa xem vạn pháp đều có Phật tính. Vạn pháp này không chỉ bao gồm loài vật hữu tình mà bao gồm cả thực vật, vật vô cơ không có tình cảm ý thức. Đại sƣ Trạm Nhiên (711–782) của Thiên Thai Tông định nghĩa rõ ràng: “Loài vô tình có tính giác là chỉ sông núi, đất đai, gạch đá… không có tình cảm ý thức đều có phật tính” [17, tr.128]. Thiền Tông còn nhấn mạnh hơn “Hoa vàng thơm ngát không gì chẳng phải là Bát – nhã, trúc biếc xanh tƣơi há lại chẳng phải là Pháp thân” [17, tr.128] Dựa trên những nguyên lý này ta có thể thấy theo Phật giáo một cành cây, ngọn cỏ đều có giá trị tồn tại của nó, hành vi của con ngƣời phải có lợi ích cho sự cộng tồn của vạn vật, yêu quý thiên nhiên cũng chính là bổn phận của mỗi con ngƣời. Hơn thế, Phật giáo chủ trƣơng hiếu sinh, luôn răn bảo con ngƣời không sát sinh. Theo thuyết vũ trụ học của Phật giáo thì có hàng hà sa số các thế giới và chủng loài, vì vậy mỗi con ngƣời cần phải mở rộng tấm lòng từ bi hỉ xả 10 của mình với tất cả các loài dù là có nhìn thấy hay không nhìn thấy. Tất cả các loài có sự sống và không có sự sống trong thiên nhiên đều có mối liên hệ mật thiết với nhau, giúp đỡ nhau để sinh tồn lâu dài hơn. Phật giáo vì vậy đƣợc coi là một tôn giáo thân thiện với môi trƣờng, đề xuất một chuẩn mực đạo đức môi sinh cho con ngƣời. Quan niệm của Nho giáo về mối quan hệ thiên – nhân Nếu Phật giáo đề xuất tƣ tƣởng thiên nhân bất nhị (con ngƣời và thế giới sinh tồn là một) thì Nho giáo lại chủ trƣơng con ngƣời và thiên nhân hợp nhất, coi sự hài hòa giữa con ngƣời và thiên nhiên là chuẩn mực sống của nhân sinh. Nho giáo là một học thuyết đạo đức, quan tâm các quan hệ ứng xử của con ngƣời trong gia đình và xã hội nhƣ “tam cƣơng ngũ thƣờng”, “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”… Tuy xuất phát từ mối quan tâm đến cuộc sống xã hội của con ngƣời nhƣng Nho giáo cũng có những luận bàn cụ thể về quan hệ của con ngƣời với thế giới bên ngoài, nhất là từ thời kỳ Tống Nho. Nho giáo quan niệm rằng, con ngƣời sở dĩ có vị trí hàng đầu là bởi hội tụ mọi tinh hoa của vạn vật trong trời đất "Thủy hỏa hữu khí nhi vô sinh, thảo mộc hữu sinh nhi vô tri, cầm thú hữu tri nhi vô nghĩa. Nhân hữu khí, hữu sinh, hữu tri diệc thả hữu nghĩa. Cố tối vi thiên hạ quý dã" (Nƣớc lửa có khí, nhƣng không có sự sống, cây cỏ có sự sống, nhƣng không hiểu biết, cầm thú hiểu biết nhƣng lại không có nghĩa. Con ngƣời có khí, có sự sống có hiểu biết lại có nghĩa. Do đó con ngƣời là quý nhất trên đời) [13, tr.11]. Đổng Trọng Thƣ cũng nhận thấy con ngƣời có địa vị trọng yếu giúp trời đất mà hoàn thành vạn vật. Ông khẳng định: trời, đất, âm, dƣơng, mộc, hỏa, thổ, kim, thủy, cộng với ngƣời nữa là mƣời, đến đó là con số của trời. Nhƣ vậy theo ông khi con ngƣời đạt đƣợc khí, có sự sống, có hiểu biết…thì con ngƣời sẽ đạt tới con số của trời tức là sự hoàn thiện, hoàn mỹ, mới trở thành 11 ngƣời đứng đầu vạn vật [13, tr.11]. Mặc dù xếp con ngƣời vào vị trí hàng đầu trong tự nhiên nhƣ vậy nhƣng Nho giáo cũng nhận thấy rằng con ngƣời và tự nhiên luôn hài hòa với nhau. Nho giáo nhìn vũ trụ thành trời, đất và ngƣời, nhƣng cho rằng ba bộ phận này hài hòa thể hợp trong một “thiên nhân hợp nhất”. Theo đó mỗi bộ phận trên cơ thể con ngƣời đều tƣơng ứng với một thực tiễn tự nhiên, mỗi đặc tính của con ngƣời sẽ là một đặc tính của thiên nhiên phù hợp, con ngƣời có cái gì thì trời có cái đó và ngƣợc lại "Nhân hữu tam bách lục thập tiết, ngẫu nhiên chi số dã; hình thể cốt nhục, ngẫu địa chi hậu dã; thƣợng hữu nhĩ mục thông minh, nhật nguyệt chi tƣợng dã; thể hữu không khiếu lý mạch, xuyên cốc chi tƣợng dã" (Ngƣời có ba trăm sáu chục đốt xƣơng, số đó tƣơng phù với số của trời; hình thể xƣơng thịt của ngƣời hợp với hình thể dày dặn của đất, trên có tai mắt sáng tỏ là hình tƣợng của mặt trời, mặt trăng, đó là hình tƣợng của sông, hang) [13, tr.15-16]. Nhìn chung, triết lý Nho giáo về con ngƣời cố gắng chứng minh con ngƣời luôn gắn liền với trời đất, là hạt nhân của trời đất, hòa quyện với trời đất, là cầu nối giữa trời và đất. Con ngƣời không chỉ đƣợc hình dung là sản phẩm của giới tự nhiên một cách trừu tƣợng mà còn đƣợc cụ thể hóa là kết quả của sự giao cảm giữa trời và đất, giữa âm và dƣơng. Quan điểm của Đạo giáo về mối quan hệ thiên - nhân Nhƣ đã nói ở trên, Nho giáo là một học thuyết đạo đức, chính trị, chủ trƣơng cai trị bằng Đức thông qua những quy ƣớc ứng xử gọi là Lễ. Quan niệm này bị Lão Tử “phản ứng” lại bởi tính chất “nhân vi”. Thay vào đó, Lão Tử chủ trƣơng phải thuận theo tự nhiên. Đối với Lão Tử, nguyên thủy của vũ trụ và vạn vật là Đạo. Đạo là thể vô hình vô tƣớng, không sinh không diệt, hằng hữu đời đời. Ở chƣơng bốn, sách Đạo đức kinh ông viết: “Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất danh, uyên hề tự vạn vật chi tôn. Tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần, 12 trạm hề tự hoặc tồn” (Đạo bản thể thì hƣ không mà tác dụng thì vô cùng, nó uyên áo mà tựa nhƣ làm chủ mọi vật. Nó không để lộ tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hòa đồng với trần tục, nó sâu kín mà dƣờng nhƣ trƣờng tồn) [14, tr.11-12]. Cũng trong sách này, Lão Tử khẳng định “Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên” (Ngƣời bắt chƣớc Đất, Đất bắt chƣớc Trời, Trời bắt chƣớc Đạo, Đạo bắt chƣớc Tự nhiên). Có thể thấy Lão Tử đã coi tự nhiên là điểm đầu và cũng là tối thƣợng của vũ trụ. Từ quan điểm này, Lão Tử khẳng định triết lý sống tối ƣu là vô vi với ý nghĩa không làm những gì trái với tự nhiên. Phát triển tƣ tƣởng của Lão Tử, Trang Tử đã tuyệt đối hóa sự vận động, xóa nhòa mọi ranh giới giữa con ngƣời với tự nhiên, giữa tồn tại và hƣ vô. Trang Tử đề xuất quan điểm con ngƣời cần biết hƣởng thụ tự nhiên, ông đề xuất tƣ tƣởng “tiêu dao phóng nhiệm”. Tựu chung, Lão Trang chủ trƣơng trở lại với trật tự thế giới vốn có, cổ súy sống theo tự nhiên, hòa nhập vào tự nhiên, hƣởng thụ tự nhiên. Thiên nhiên là nguyên tố hàng đầu của vũ trụ và con ngƣời vì thế con ngƣời có bổn phận thuận theo tự nhiên. Có thể thấy Nho, Phật, Đạo là ba học thuyết quan trọng có ảnh hƣởng lớn đến tƣ tƣởng, đạo đức và văn hóa văn chƣơng Việt Nam thời trung đại, tuy có xuất phát điểm quan tâm khác nhau nhƣ: Nho giáo quan tâm đến xã hội loài ngƣời, Phật giáo quan tâm đến đời sống tâm linh, còn Đạo giáo lại coi trọng mô hình đời sống tự nhiên, nhƣng cả ba học thuyết này lại có điểm gặp gỡ là khẳng định sự gắn bó, quan hệ hài hòa giữa con ngƣời và tự nhiên. 1.1.2. Thiên nhiên trong sáng tác văn học trung đại Việt Nam Sáng tác về thiên nhiên chịu ảnh hưởng của Phật giáo Phật giáo có ảnh hƣởng đến đời sống và văn hóa Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, tuy nhiên nó có ảnh hƣởng sâu 13 đậm nhất ở thời kỳ Lý - Trần. Vì vậy, ở đây chúng tôi xin khoanh lại phạm vi khảo sát trong giai đoạn Lý - Trần nhƣ một trƣờng hợp tiêu biểu về ảnh hƣởng của quan niệm Phật giáo (Thiền) đối với sáng tác văn chƣơng thời trung đại. Vào thời Lý, Phật giáo chiếm vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần dân tộc. Văn học thời kỳ này vì thế mang đậm tinh thần Phật giáo với lực lƣợng sáng tác chủ yếu là các nhà sƣ. Đáp ứng nhu cầu truyền bá rộng rãi đạo Phật các nhà sƣ đã tìm cách thể hiện những triết lý Phật giáo vốn trừu tƣợng qua hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh động. Và họ đã tìm thấy một phƣơng tiện hữu hiệu là văn thơ, đặc biệt là thơ. Phật giáo cho rằng vạn vật trong vũ trụ này cùng chung một bản thể. Cùng một bản thể mà lại biến hóa và biểu hiện dƣới muôn vàn dạng thức khác nhau. Cũng nhƣ con ngƣời, trời đất và muôn loài chẳng qua chỉ là cùng một thể chất. Với quan niệm ấy, văn học Thiền Tông đã dễ dàng đem nhập con ngƣời làm một với thiên nhiên. Đoàn Văn Khâm trong Vãn Quảng Trí thiền sư đã tỏ lòng thƣơng tiếc nhà sƣ vừa qua đời: Đạo lữ bất tu thƣơng vĩnh biệt, Viện tiền sơn thủy thị chân hình (Các bạn tu hành chớ nên đau thƣơng vì nỗi vĩnh biệt, Núi sông trƣớc chùa trông xa, ấy là hình ảnh chân thực của ngƣời) Nhƣ vậy quan niệm của Phật đồng nhất bản thể của con ngƣời với thiên nhiên. Cho dù nhà sƣ có mất đi thì đó chỉ là sự hủy diệt về thân xác, còn bản thể của nhà sƣ vẫn tồn tại mãi trong thiên nhiên, cỏ cây, sông núi. Hình ảnh thiên nhiên xuất hiện trong thơ văn thời Lý không chỉ giúp các nhà sƣ giảng dạy lý thuyết nhà Phật của họ mà còn bày tỏ quan niệm về sự hài hòa giữa vạn vật và con ngƣời. Trong bài Cáo tật thị chúng, Mãn Giác 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan