ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
HOÀNG THỊ HUỆ DINH
THƠ SONG NGỮ Y PHƯƠNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 602 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Người hướng dẫn: PGS. TS. Trần Thị Việt Trung
Thái Nguyên, năm 2016
i
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn
PGS.TS. Trần Thị Việt Trung - người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo Khoa Văn
- Xã hội, Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ và tạo
điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới nhà thơ Y Phương đã tận tình giúp
đỡ và cung cấp cho tôi những thông tin, tư liệu quý báu để tôi hoàn thành
luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã động
viên, quan tâm, chia sẻ và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2016
Tác giả Luận văn
Hoàng Thị Huệ Dinh
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Trần Thị Việt Trung. Các kết quả nêu trong luận văn này là
trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2016
Học viên
Hoàng Thị Huệ Dinh
Xác nhận
Xác nhận
Của trưởng khoa chuyên môn
Của người hướng dẫn khoa học
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN............................................................................................... ii
MỤC LỤC .................................................................................................... ii
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 5
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu........................................................ 11
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................. 12
5. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 13
6. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 13
7. Đóng góp của luận văn ......................................................................... 13
Chương 1 Y PHƯƠNG - NHÀ THƠ DÂN TỘC TÀY TIÊU BIỂU THỜI
KỲ HIỆN ĐẠI ............................................................................................ 14
1.1 Vài nét về Y Phương - Nhà thơ Tày xứ “non nước Cao Bằng”...... 14
1.1.1. Tiểu sử của nhà thơ Y Phương .................................................... 14
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Y Phương............................................... 19
1.2. Quan niệm của Y Phương về sáng tác văn chương........................ 27
Chương 2 BẢN SẮC TÀY TRONG THƠ SONG NGỮ Y PHƯƠNG..... 40
2.1. Bản sắc Tày trong ngôn ngữ thơ..................................................... 41
2.2. Bản sắc Tày nhìn từ phương diện nội dung ................................... 49
2.2.1. Bức tranh thiên nhiên làng Tày xứ non nước Cao Bằng............. 49
2.2.2. Hình ảnh “người đồng mình” đầy yêu thương, tự hào nhưng thấp
thoáng nỗi buồn xót xa ......................................................................... 51
2.2.3. Tự hào về những phong tục, tập quán đẹp trong cộng đồng Tày. 58
iv
2.3. Cách diễn đạt và hình ảnh thơ đậm chất Tày ................................ 66
2.3.1. Cách diễn đạt đậm chất Tày ....................................................... 66
2.3.2. Một số hình ảnh thơ mang nét đặc trưng miền biên viễn............. 70
Chương 3 TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG THƠ SONG NGỮ Y PHƯƠNG.. 76
3.1. Kế thừa thơ ca truyền thống trên cơ sở làm mới và sáng tạo........ 76
3.1.1. Kế thừa thơ ca truyền thống một cách sáng tạo .......................... 76
3.1.2. Hình ảnh thơ đậm chất miền núi, vừa quen thuộc, vừa mới mẻ... 82
3.2. Tính hiện đại trong thơ song ngữ Y Phương.................................. 86
3.2.1. Hiện đại trong cách diễn đạt ý thơ.............................................. 86
3.2.2. Hiện đại ở các vấn đề xã hội mà nhà thơ quan tâm..................... 87
3.2.3. Hiện đại trong ngôn ngữ thơ....................................................... 91
KẾT LUẬN................................................................................................. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 103
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Thơ ca hiện đại của các dân tộc thiểu số (DTTS) nói riêng, văn học
hiện đại các DTTS nói chung từ lâu đã được khẳng định là một bộ phận văn
học có vẻ đẹp, và có sắc thái riêng, in đậm dấu ấn tâm hồn và giàu bản sắc
văn hóa các dân tộc anh em với nhiều cá tính sáng tạo độc đáo. Riêng trong
lĩnh vực thơ ca, các nhà thơ dân tộc ít người đã đóng góp vào nền thơ ca hiện
đại Việt Nam một tiếng nói riêng, đậm chất dân tộc và miền núi với nhiều
gương mặt mới, nhiều giọng điệu khác nhau. Mỗi người trong số họ đã tạo ra
một tiếng nói, một gương mặt, một phong cách thơ riêng biệt, độc đáo. Ví
như thơ của các nhà thơ: Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Triều Ân; Mai
Liễu, Dương Thuấn, Lương Định, Triệu Lam Châu… (dân tộc Tày); Bàn Tài
Đoàn, Triệu Kim Văn… (dân tộc Dao); Cầm Biêu, Vương Trung, Lò Văn
Cậy, Lò Cao Nhum… (dân tộc Thái); Mã Thế Vinh (dân tộc Nùng); Vương
Anh, Bùi Tuyết Mai… (dân tộc Mường); Lò Ngân Sủn… (dân tộc Giáy);
Lâm Quý… (dân tộc Cao Lan), Pờ Sảo Mìn… (dân tộc Pa Dí), Dư Thị
Hoàn… (dân tộc Hoa); Inrasara… (dân tộc Chăm); Hùng Đình Quý, Mã A
Lềnh… (dân tộc Mông); HơVê… (dân tộc Hơ Rê); Trần Thanh Pôn… (dân
tộc Khmer)… Trong đó, nhà thơ Tày Y Phương nổi lên là một trong những
nhà thơ Việt Nam tiêu biểu và xuất sắc nhất trong đội ngũ các nhà thơ người
DTTS hiện đại. Với quan niệm “Văn chương là một việc làm trả ơn những
người sinh thành và nuôi dưỡng mình”, gần 40 năm qua, ông lặng lẽ sáng tác,
lặng lẽ thử nghiệm và không ngừng lao động sáng tạo để có thể công bố khối
lượng tác phẩm không hề “khiêm tốn”, bao gồm: 1 tập kịch, 3 tập tản văn, 2
trường ca, 7 tập thơ. Trong đó có 2 tập thơ song ngữ Tày - Việt với tổng số
152 bài thơ. Tên tuổi ông gắn với "Mùa hoa bội thu" những Giải thưởng: Giải
A Hội Nhà văn Việt Nam, 1987 (Tiếng hát tháng giêng - Thơ); Giải A Hội
Nhà văn Việt Nam, 1992 (Lời chúc - Thơ); Giải B (không có giải A) Bộ
2
Quốc phòng, 2000 (Chín tháng - Trường ca); Giải nhất cuộc thi Thơ Tạp chí
Văn nghệ Quân đội năm 1984 (chùm thơ: Phòng tuyến Khau Liêu, Tên làng,
Nói với con). Ngoài ra ông còn được nhận nhiều giải thưởng khác của tuần
báo Văn nghệ của Hội Văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam. Đặc biệt, ông
là một trong số ít các tác giả người DTTS được nhận Giải thưởng Nhà nước
về Văn học nghệ thuật (với 3 Tập thơ Tiếng hát tháng giêng, Chín tháng,
Lời chúc). Ông là một trong những nhà thơ dân tộc thiểu số hiếm hoi được
vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Từ đây cho thấy,
nghiên cứu về thơ Y Phương, đặc biệt là bộ phận thơ song ngữ - bộ phận thơ
độc đáo, đặc sắc của ông, cái góp phần làm nên một Y Phương rất truyền
thống, “rất Tày” nhưng cũng rất hiện đại - là một việc làm cần thiết trong giai
đoạn hiện nay.
1.2. Đọc thơ Y Phương, ta thấy ở đó luôn thấm đẫm một tình yêu quê
hương, đất nước, yêu dân tộc của mình. Nhưng điểm khác ở ông so với những
nhà thơ lớp trước là ở cách ông đã thể hiện tinh thần ấy trên một quan điểm,
một cách thức mới. Nếu thơ Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Nông Viết
Toại, Triều Ân… trực tiếp lấy hình ảnh quê hương, đất nước làm đề tài chủ
đạo, họ làm thơ để hát lên tiếng ca hào sảng về tình yêu quê hương, đất nước,
dân tộc, về những thay đổi lớn lao của số phận dân tộc, từ kiếp đói nghèo, nô
lệ được đứng lên làm chủ cuộc đời - thì thơ Y Phương lại là sự mở rộng biên
độ đề tài. Ông viết rất nhiều đề tài khác nhau (về cuộc sống và con người
miền núi trong cả chiến tranh lẫn thời bình; cuộc sống con người ở đô thị; viết
về tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa, về cái tôi cá nhân) với những nỗi niềm,
khát vọng riêng từ sâu thẳm… Và ở đề tài nào Y Phương cũng thể hiện rất
thành công. So với các nhà thơ Tày nói riêng, các nhà thơ dân tộc thiểu số nói
chung cùng thời thì Y Phương là một trong số ít nhà thơ có ý thức sâu sắc về
việc cần phải sáng tác thơ bằng tiếng mẹ đẻ (sau đó mới dịch ra tiếng Việt).
Đây là một đặc điểm, một nét đặc trưng riêng, thể hiện rất rõ, rất sinh động
tính dân tộc, bản sắc dân tộc và lòng tha thiết với ngôn ngữ dân tộc của ông.
3
Vì thế, nghiên cứu thơ song ngữ của Y Phương sẽ thấy bản sắc Tày hiện lên
một cách hết sức đậm nét, sinh động và cụ thể trong từng tác phẩm của ông.
Qua đó, ta nhận thấy sự trải nghiệm cuộc đời cũng như thấy được tầm cao và
chiều sâu văn hóa ở trong ông. Ông hiểu hơn ai hết - văn hóa là sức mạnh nội
sinh, là cội nguồn giá trị của dân tộc với những làng Tày: “Vách nhà ken câu
hát”, với niềm tin “Còn quê hương thì làm phong tục”!. Nhưng điều đáng
quý trọng ở nhà thơ Tày này là ông đã không bó hẹp ngòi bút của mình chỉ
trong việc phản ánh cuộc sống sinh hoạt của người Tày - mà đã vượt lên,
vươn xa như một dấu nối với thơ ca các dân tộc khác. Chính vì thế mà thơ
ông với sự mở rộng biên độ của đề tài, chủ đề nhưng vẫn thấm đẫm bản sắc
văn hóa “người đồng mình”, vẫn mở rộng, giao hòa với các vùng văn hóa
rộng lớn khác để cùng hòa vào dòng sông thơ ca của dân tộc Việt nói chung.
Thừa kế và sở hữu một kho tàng văn hóa Tày truyền thống phong phú,
ông đã sử dụng linh hoạt các thể thơ dân gian để giãi bày, truyền tải những lát
cắt muôn màu về đời sống, sinh hoạt, phong tục tập quán, ngôn ngữ, ẩm thực,
trang phục, trò chơi dân gian… của quê hương, dân tộc mình. Ông vận dụng
rất khéo léo chất dân ca Tày để tạo nên câu thơ trữ tình, giàu hình ảnh, giàu
chất liên tưởng. Y Phương biết chọn lọc trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc
mình những chất liệu đặc trưng để tạo nên thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng cho
tác phẩm của mình. Phong cách thơ ông vừa hiện đại vừa dân tộc, bởi ông đã
kết hợp được truyền thống văn hóa, văn học của quê hương Cao Bằng, của
dân tộc Tày với văn hoá của mọi miền quê khác của đất nước và đã chủ động
tiếp cận với nền văn hoá, văn học hiện đại của dân tộc Việt thế kỷ XXI. Đọc
thơ Y Phương cảm nhận rõ sự mộc mạc, hồn nhiên mà lắng đọng do cách viết
chân thành mà sâu sắc của ông. Thế giới nghệ thuật của Y Phương thật đa
dạng, phong phú nhưng vẫn có nét riêng (không gian riêng, thời gian riêng và
những quy luật tâm lí riêng của con người miền núi...). Thế giới nghệ thuật ấy
ứng với một quan niệm về hiện thưc, về cuộc sống, về con người của riêng
4
ông. Qua thế giới nghệ thuật ấy, người đọc có thể hình dung sự sáng tạo độc
đáo cùng lối tư duy nghệ thuật và phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
- Chính vì vậy, lựa chọn Thơ song ngữ Y Phương để làm đề tài nghiên
cứu - chính là đã lựa chọn phần đặc sắc nhất trong sáng tác thơ ca của ông, là
đã tìm đến những nét đặc điểm riêng biệt trong cả nội dung và hình thức thơ
(đặc biệt là về ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ), cũng như đã chỉ ra được tư tưởng
nghệ thuật của ông (tha thiết với văn hóa dân tộc, trở về với cội nguồn dân tộc
trong sự sáng tạo và hiện đại hóa).
1.3. Trong sáng tác nói chung, Y Phương bao giờ cũng mang thông
điệp về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nhà thơ đã đến và chinh phục
những người yêu nền văn hóa Tày vốn rất rực rỡ, độc đáo, tràn đầy sức sống
với một vẻ đẹp mới từ những góc nhìn mới về văn hóa Tày trong sự giao thoa,
nối kết với văn hóa của các dân tộc anh em khác trong“Ngôi nhà văn
chương” chung. Tiếp cận thơ song ngữ của Y Phương khiến ta càng hiểu
thêm về vẻ đẹp độc đáo của ngôn ngữ Tày, của lối tư duy nghệ thuật đậm chất
Tày và cách diễn đạt theo kiểu người Tày thời kỳ hiện đại.
- Là một nhà báo và cũng là người con của đồng bào dân tộc Tày, tôi
nhận thấy việc nghiên cứu Thơ song ngữ của nhà thơ Tày - Y Phương có rất
nhiều ý nghĩa. Trước hết, tôi sẽ hiểu hơn về vẻ đẹp của thơ Tày khi được sáng
tác bằng lối tư duy và bằng ngôn ngữ của chính người Tày; hiểu hơn về nhà
thơ Y Phương cùng những đóng góp to lớn, đặc sắc của ông đối với thơ ca
các DTTS nói riêng, thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung; hiểu hơn về vẻ đẹp
của ngôn ngữ dân tộc mình, hiểu hơn về bản sắc văn hóa dân tộc mình và yêu
mến, tự hào về dân tộc Tày - một dân tộc có truyền thống thơ ca, có kho tàng
văn hóa giàu có, phong phú và đang từng bước đi trên con đường hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế…
Bên cạnh đó, nghiên cứu thơ song ngữ Y Phương cũng giúp ích rất
nhiều cho công việc chuyên môn của tôi, bởi qua đây - tôi thêm hiểu hơn về
5
ngôn ngữ Tày và cách sử dụng thứ ngôn ngữ mẹ đẻ trong quá trình tác nghiệp
của mình tại các bản làng dân tộc Tày, cũng như có ý thức gìn giữ những nét
đẹp truyền thống quý báu đó - thông qua việc thực hiện các tác phẩm báo chí
để góp phần tuyên truyền, nâng cao nhận thức của đồng bào dân tộc mình
trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa hôm nay...
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Là nhà thơ DTTS có nhiều tác phẩm được công bố, được nhận nhiều
Giải thưởng của Trung ương và địa phương, có nhiều bài thơ để lại dấu ấn
trong lòng bạn đọc, thơ Y Phương thực sự đã thu hút được nhiều người
nghiên cứu, phê bình. Y Phương đã được nhắc đến ngay từ một số công trình
nghiên cứu về thơ DTTS trước năm 2000, ví dụ như cuốn: Sự hình thành văn
xuôi (trong cuốn 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam
1945-1985) của Phong Lê; Văn học các dân tộc thiểu số mười năm qua với
vấn đề truyền thống và hiện đại (1986), Đinh Văn Định; Văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại (1995) của Lâm Tiến; Hùng Đình Quý
(1997), Tiếng nói các nhà văn dân tộc thiểu số, Nhiều tác giả, NXB Văn hóa
dân tộc, Hà Nội; Tuyển tập văn học dân tộc miền núi, Nhà xuất bản (NXB)
Giáo dục, 1998 (Nông Quốc Chấn chủ biên); Phạm Quang Trung, Thổ cẩm
dệt bằng thơ (phê bình, 1999); Lò Ngân Sủn (1999), Hoa văn thổ cẩm (Tập
2), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội… Ngoài ra, còn có các cuốn: “Một mình
trong cõi thơ”, NXB Văn hóa dân tộc, (2000) của Hoàng Quảng Uyên); “Nét
đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc”, 3 tập: 2003 - 2008 của TS.
Hoàng An; “Song thoại với cái mới” (2008) của Innasara;“Hương sắc miền
rừng” (2008) của Mai Liễu…
Đặc biệt trong một số các công trình nghiên cứu chuyên sâu của các tác
giả là những nhà nghiên cứu phê bình yêu quý và say mê văn chương dân tộc
thiểu số sau năm 2010 như: “Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiếu số
Việt Nam hiện đại” 2010 (Trần Thị Việt Trung chủ biên); “Văn học dân tộc
6
thiểu số Việt Nam - Diện mạo và đặc điểm”, 2011, (Trần Thị Việt Trung và
Cao Thị Hảo đồng chủ biên; “Thơ ca dân tộc H’Mông - Truyền thống và hiện
đại” (2014) của Nguyễn Kiến Thọ; “Những người tự đục đá kê cao quê
hương” (2015) của Lê Thị Bích Hồng; và gần đây nhất là công trình nghiên
cứu khá quy mô, dày dặn hàng ngàn trang “Văn học dân tộc thiểu số Việt
Nam - Truyền thống và hiện đại”, 2015 (Trần Thị Việt Trung và Nguyễn Đức
Hạnh đồng chủ biên)…
Trong các cuốn sách nghiên cứu phê bình này, Y Phương đều được
nhắc đến như một nhà thơ Tày tiêu biểu, xuất sắc nhất; và đóng góp đáng
khẳng định nhất ở ông chính là ở mảng thơ, trong đó có thơ song ngữ. Bởi
trong các tập thơ này, Y Phương đã thể hiện rõ rệt và sinh động vẻ đẹp của
bản sắc văn hóa Tày cũng như thể hiện được phong cách, tư tưởng nghệ thuật
của mình.
- Cũng chính vì vậy, Y Phương đã trở thành đề tài nghiên cứu của một
số luận văn Thạc sĩ Ngữ văn. Ví dụ như: Luận văn Thạc sĩ với Đề tài “Bản
sắc Tày trong thơ Y Phương và Dương Thuấn” của học viên Nguyễn Thị Thu
Huyền (Đại học Thái Nguyên), năm 2009; Luận văn Thạc sĩ của học viên
Sùng Thị Hương (Đại học Thái Nguyên) với Đề tài “Đặc sắc tản văn Y
Phương”, năm 2013...; và cũng đã trở thành một phần nội dung trong Luận án
Tiến sĩ của các nghiên cứu sinh: Đỗ Thị Thu Huyền (Viện Văn học) và Hà
Anh Tuấn (Đại học Thái Nguyên)... Trong các công trình nghiên cứu này, thơ
Y Phương và tản văn Y Phương đã được các tác giả nghiên cứu, giới thiệu ở
một số phương diện cụ thể (Bản sắc dân tộc Tày trong tản văn Y Phương và
trong thơ Y Phương), nhưng các tác giả này chưa đi vào nghiên cứu thơ song
ngữ của nhà thơ Tày nổi tiếng này như một đề tài nghiên cứu chuyên biệt.
Thơ Y Phương cũng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà văn, nhà nghiên
cứu, phê bình văn học như: Tế Hanh, Phạm Hổ, Chu Văn Sơn, Nguyễn Hữu
Tiến, Trúc Thông, Hồng Diệu, Thái Vĩnh Linh, Tạ Duy Anh, Đỗ Trung Lai,
7
Trần Mạnh Hảo, Phạm Quang Trung, Trinh Đường, Vũ Nho, Bế Kiến Quốc,
Nguyễn Trọng Hoàn, Vũ Quần Phương, Vân Long... Tất cả các bài viết của
các tác giả trên hầu như đều đánh giá cao tài năng của Y Phương, thể hiện sự
đồng cảm với những vần thơ đầy tình yêu và lòng tự hào về quê hương, đất
nước và dân tộc Tày của ông.
Ví dụ như trong một số nhận xét sau của các nhà thơ, nhà nghiên cứu
phê bình. Trong bài viết nhận xét, đánh giá về Tập thơ Tiếng hát tháng giêng
của Y Phương, Tế Hanh cho rằng: “câu thơ anh tự do phóng khoáng như một
bản nhạc của núi rừng (…) Y Phương là một nhà thơ, một nhà thơ miền núi
mới mẻ, thơ anh vừa hiện đại, vừa dân tộc, nhưng có cái gì hiện đại, hôm nay
và mai sau” [40,244]. Tìm hiểu tập “Tiếng hát tháng giêng”, nhà thơ Phạm
Hổ cũng dành cho tập thơ này của ông những tình cảm yêu mến, trân trọng:
“đọc thơ hay, tôi thường bàng hoàng và sửng sốt (…) tôi đã trân trọng và yêu
quý thơ anh ngay từ đầu” [40,249].
Nhà nghiên cứu văn học Chu Văn Sơn đã phát hiện ra “chất suy tư” và
giọng điệu trữ tình chủ đạo trong thơ của Y Phương: “cái điềm tĩnh của suy
tư, không phải là lối sôi nổi giãi bày cảm xúc, kể lể lại sự kiện cho đã, cho
thỏa mãn cái tôi, tất cả lắng vào suy tư, suy tư lắng vào những câu gọn, chắc
ngỡ chỉ thuần duy lí, ngỡ khước từ tất cả những vần nhạc thông thường” [37].
Ông nhấn mạnh: “Yếu tố hiện đại đã tìm thấy một cơ chế kết hợp hợp lí nào
đó với yếu tố truyền thống, điều khiển cơ chế ấy không thể là gì khác hơn lòng
thiết tha với quê hương xứ sở, dân tộc” [37].
Đánh giá về tập thơ Lời chúc, Hồng Diệu cho rằng: “Có thể nhận ra
một đặc điểm của nhà thơ này: diễn đạt ý mình thật mạch lạc và kín đáo” [40,
280]. Điểm thành công của tập Lời chúc là “cách so sánh gần với tự nhiên và
nhiều khi hồn nhiên, ngộ nghĩnh là một đặc điểm của người dân tộc thiểu
số” [40, 282]. Tập thơ“thấp thoáng cái riêng của anh, hoặc là ở ý tứ, hoặc là
ở câu chữ”. Tìm hiểu những bài thơ trong tập thơ Lời chúc, nhà thơ Trúc
8
Thông lại phát hiện một năng lực văn hóa hiếm có của Y Phương: không chỉ
tái hiện bản sắc văn hóa Tày của mình mà còn tiếp tục khám phá về văn hóa
dân tộc mình: “Y Phương căng thẳng xuyên sâu vào những tầng vỉa vô hình
của đời sống dân tộc anh (…). Y Phương không yêu dân tộc mình ở đầu lưỡi,
lạm dụng chất dân tộc. Qua tất cả những cảnh, hướng sinh hoạt vật chất và
tinh thần hiện thực, những đam mê và đau khổ trần trụi, những chìm lặng
không sao nói hết và sự thật cuộc đời… Y Phương tiếp tục phát hiện về dân
tộc mình” [40,237].
Tập thơ Đàn then của Y Phương ra đời tiếp tục nhận được sự yêu quý
trân trọng của độc giả và các nhà nghiên cứu phê bình văn học. Theo tác giả
Thái Vĩnh Linh, tập thơ có: “… bút pháp điêu luyện, ngôn ngữ chọn lọc, giữ
được sự tinh tế của tình cảm pha lẫn cái dung dị mộc mạc đầy chất núi rừng”
[40,287].
Nhà văn Tạ Duy Anh lại cảm nhận về thơ Y Phương một cách ví von
và độc đáo: “như rượu ngon, thơ ông càng để lâu càng ngấm thời gian, có
điều kiện để thanh lọc những tạp chất, trở nên tinh khiết; ông biết nhấn xuống
cái ồn ào của bề mặt cuộc sống tìm đến cái tinh chất thơ ngọt ngào chắt ra từ
tâm hồn Y Phương, đúng hơn là nó tự trào ra khỏi tâm hồn ông, lại được nấu
từ thứ men đắng của cuộc đời ông” [40,290].
Nhà thơ Đỗ Trung Lai đánh giá về trường ca Chín tháng của Y
Phương như sau: “Y Phương là một giọng điệu riêng trộn lẫn hài hòa lối
nghĩ, lối nói của dân tộc anh và khả năng biểu cảm của tiếng Việt không bị
rơi vào cảnh “xếp hàng một phía sau” trong việc viết về trường ca như nhiều
người làm trường ca khác” [40,295]. PGS.TS Trần Thị Việt Trung đánh giá
thơ Y Phương một cách toàn diện ở trên cả hai phương diện: Nội dung và
Nghệ thuật, đặc biệt nhà nghiên cứu đã khẳng định có một sự kết hợp của tinh
thần dân tộc và tinh thần hiện đại trong thơ ông: “Có thể khẳng định Y
9
Phương đã vươn tới sự hài hòa giữa tính dân tộc và tính hiện đại trong sáng
tác của mình” [65].
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã chỉ ra mặt mạnh nhất, đặc sắc nhất của thơ
ông: “bình dị, chân chất, hồn nhiên, giấu cất mà còn he hé lộ thiên, lặng lẽ
mà bùng nổ, nhẩn nha như chính cuộc đời ông, con người ông. Gặp thoáng
qua bằng tay xã giao, đọc thoáng qua bằng cặp mắt xa lạ sẽ thấy anh này thơ
nhàn nhạt, lạnh lẽo, tưng tửng, cứ nhấp nha nhấp nhổm những núi cùng non.
Nhưng nếu dùng tấm lòng để gặp, để đọc Y Phương và thơ ông sẽ không còn
thấy nhàn nhạt, lành lạnh nữa mà lại ấm ấm, mằn mặn, mặn mòi như thể
những câu thơ của ông cũng biết ứa nước mắt vậy” [40,301].
Tập thơ Tủng Tày (Vũ khúc Tày) của Y Phương lại mang một sắc thái
mới. Nhà văn Lê Thị Bích Hồng nhận xét: Nếu như trong các tập thơ trước,
anh mới rón rén thả thơ tình (có khi là cả bài, có khi là cả câu) trải vào các
tập thơ (…), vượt qua sự dè dặt, anh dành một phần “Những người đội rượu”
cho thơ tình, nhưng phải đến “Vũ khúc Tày” cảm xúc ùa ập, trào trào như
núi lửa phun trào nham thạch, anh “trình làng” cả một tập thơ trọn vẹn
100% thơ tình. [42,8]. Với cái nhìn của một nhà lý luận phê bình văn học giàu
kinh nghiệm, nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh cũng chỉ ra những điểm mới lạ và
sáng tạo trong tập thơ này: Thơ Y Phương giản dị như suối nguồn trong và
sâu, nhìn xuống đáy thi thoảng gặp những hạt vàng lấp lánh - đó là những
biểu tượng độc đáo có tính mơ hồ đa nghĩa (…) những biểu tượng ấy đã minh
chứng cho tính hiện đại và cá tính sáng tạo, độc đáo của nhà thơ, bên cạnh
tính truyền thống biểu hiện trong đề tài quen thuộc, trong hệ thống thi ảnh
đậm sắc thái văn hóa miền núi nói chung, trong thơ Tày nói riêng… [42,259].
Hiện nay, bên cạnh những bài viết về thơ Y Phương của các tác giả nêu
trên và những bài viết được tập hợp trong tập “Thơ Y Phương”, còn một số
bài viết phê bình trên các báo, tạp chí của các tác giả khác viết về một số đặc
điểm của thơ Y Phương, đặc biệt là những bài thơ viết về quê hương và con
10
người miền núi, vùng cao của nhà thơ. Các bài viết tập trung nói về những nội
dung phản ánh con người, quê hương, phong tục… và một số đặc trưng nghệ
thuật trong các sáng tác của ông. Qua đó, khẳng định nét riêng độc đáo cũng
như những đóng góp của Y Phương đối với thơ ca DTTS nói riêng, thơ ca
Việt nói chung.
Ngoài ra cũng có một số nhận xét về những điểm hạn chế của thơ Y
Phương. Tế Hanh đã thẳng thắn chỉ ra sự non nớt trong sáng tác nghệ thuật
của Y Phương là “nhiều chỗ vụng về đôi khi ngô nghê” [40,247]. Chu Văn
Sơn chỉ ra nhược điểm của tập thơ “Tiếng hát tháng giêng” ở chỗ “vẫn còn
một số bài loãng, lép như Một ngày bình yên, Kỉ niệm đội chiếu bóng, Hương
thơm trái thị” [40,269]. Theo Trúc Thông, thơ Y Phương “không phải bài
nào cũng hay, câu nào cũng quý, chữ nào cũng đẹp” [40,275]; Thái Vĩnh
Linh chỉ rõ hạn chế của tập “Đàn then” là: “một số bài còn lộ nhiều thô vụng
hay giản lược, một số bài có vẻ lời đi qua tứ” [40,287]; Trần Mạnh Hảo cũng
cho rằng, thơ Y Phương “có nhiều bài hay và cả nhiều bài thơ chưa hay”
[40,309]…
Có thể thấy, điểm thống nhất ở các nhà nghiên cứu về thơ Y Phương
là: Bên cạnh việc chỉ ra một số thiếu sót cần khắc phục của cây bút Y
Phương, còn về cơ bản là những điểm mạnh, những mặt thành công của cây
bút thơ này. Họ đều khẳng định: Ông là nhà thơ DTTS tiêu biểu và xuất sắc,
thơ của ông vừa có tính hiện đại, vừa có tính dân tộc. Tác giả Trần Đăng
Suyền trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, Tập I khẳng định: “Những cây bút
làm thơ sau 1975 xuất hiện ngày càng nhiều, đã và đang từng bước khẳng
định vị trí của mình, tiêu biểu là Y Phương với tập Tiếng hát tháng giêng”
[30,15] .
Năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tuyển chọn bài thơ “Nói với
con” của Y Phương đưa vào giảng dạy chính thức trong chương trình Ngữ
văn lớp 9 - hệ trung học cơ sở. Đó là sự khẳng định tài năng thơ của ông và
11
cũng là điều kiện để tác phẩm của ông đến được với đông đảo bạn đọc trong
cả nước.
Tóm lại, qua các bài nghiên cứu, phê bình về thơ Y Phương, chúng tôi
nhận thấy các tác giả bước đầu đã chỉ ra được những nét đặc điểm chính trong
sáng tác của Y Phương. Tuy nhiên, những bài viết này mới tập trung vào
nghiên cứu tìm hiểu về từng mảng sáng tác, hoặc từng thể loại sáng tác (thơ,
tản văn) của Y Phương - chứ chưa chú ý đến việc nghiên cứu riêng về mảng
thơ song ngữ của ông. Nhưng với chúng tôi thì những nghiên cứu, những ý
kiến nhận xét, đánh giá của những người đi trước chính là những gợi ý quý
báu cho việc triển khai hướng nghiên cứu đề tài của chúng tôi.
Thơ song ngữ là một mảng sáng tác thành công, quan trọng và đặc sắc
trong sự nghiệp sáng tác của Y Phương, nó đã thể hiện rất rõ quan điểm về
sáng tác thơ ca bằng tiếng mẹ đẻ và tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật
của tác giả. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu
của mình để góp phần khẳng định những đóng góp, những giá trị đặc sắc của
Thơ song ngữ Y Phương, cũng như khẳng định sự đóng góp quan trọng của
ông đối với việc bảo tồn và phát huy vẻ đẹp truyền thống của thơ ca Tày nói
riêng - trong quá trình vận động và phát triển của thơ ca DTTS Việt Nam hiện
đại.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát toàn bộ các sáng tác
của nhà thơ Y Phương (Tiếng hát tháng giêng, Lời chúc, Đàn then, Trường
ca Chín tháng, Thơ Y Phương, Thất tàng lồm (Ngược gió), Đò trăng, Bài
hát cho Sa, Tủng Tày (Vũ khúc Tày), đặc biệt đi sâu vào nghiên cứu các tập
thơ song ngữ của Y Phương. Cụ thể là các tập thơ: Thất tàng lồm (Ngược
gió); Tủng Tày (Vũ Khúc Tày) ở cả 2 phương diện: Nội dung và nghệ thuật.
12
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Luận văn hướng tới việc: Làm nổi bật những nét đặc sắc về nội dung
và nghệ thuật thơ song ngữ của Y Phương và những đóng góp quan trọng của
tác giả thơ dân tộc Tày này đối với sự phát triển của thơ ca DTTS thời kỳ hiện
đại.
- Khẳng định sự yêu mến, trân trọng và tự hào về nguồn cội văn hóa
Tày cùng niềm khao khát của tác giả đối với việc giữ gìn bản sắc dân tộc
thông qua việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ trong thơ ca nói riêng, trong sáng tác
văn chương nói chung của nhà thơ dân tộc Tày tiêu biểu, xuất sắc này.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1 . Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ được quan niệm và quan điểm của tác giả về sáng tác văn
chương nói chung và về việc sử dụng tiếng mẹ đẻ trong sáng tác thơ ca nói
riêng.
- Làm rõ đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong thơ song ngữ Y
Phương; trên cơ sở đó, khẳng định những nét đặc sắc, “đậm đặc” chất Tày,
nhưng cũng rất mới mẻ, hiện đại, cùng những đóng góp đáng khẳng định của
tác giả đối với sự vận động và phát triển của thơ ca DTTS Việt Nam thời kỳ
hiện đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã lựa chọn những phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích tác giả, tác phẩm;
- Phương pháp thống kê, phân loại;
- Phương pháp so sánh, đối chiếu (so sánh với tác phẩm của các nhà thơ
người DTTS khác…);
13
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, dân tộc học…);
- Vận dụng một số thao tác nghiên cứu của Thi pháp học.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Đi sâu nghiên cứu 2 tập thơ song ngữ của Y Phương: Thất tàng lồm
(Ngược gió) và Tủng Tày (Vũ khúc Tày) ở các phương diện: Nội dung và
nghệ thuật nhằm làm sáng tỏ tính truyền thống và tính hiện đại trong thơ song
ngữ của Y Phương.
- Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ khảo sát một số sáng tác thơ của một số tác
giả DTTS khác để so sánh, đối chiếu với thơ song ngữ của Y Phương.
- Đọc, tham khảo một số sách lí thuyết, lí luận văn học làm cơ sở lí luận
cho đề tài.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
chính của Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Y Phương - nhà thơ dân tộc thiểu số tiêu biểu thời kỳ hiện đại.
Chương 2: Bản sắc Tày trong Thơ song ngữ Y Phương.
Chương 3: Tính hiện đại trong Thơ song ngữ Y Phương.
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm nổi bật một số đặc điểm riêng biệt về nội dung và nghệ
thuật trong Thơ song ngữ Y Phương;
- Khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của nhà thơ Y Phương
trong bộ phận thơ ca DTTS thời kì hiện đại.
- Kết quả của Luận văn là một tài liệu tham khảo cho những người
quan tâm nghiên cứu thơ ca DTTS và thơ ca Việt Nam nói chung, là một tài
liệu phục vụ cho việc giảng dạy thơ ca DTTS trong chương trình giáo dục ở
bậc Phổ thông nói riêng.
14
Chương 1
Y PHƯƠNG - NHÀ THƠ DÂN TỘC TÀY TIÊU BIỂU
THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
1.1 Vài nét về Y Phương - Nhà thơ Tày xứ “non nước Cao Bằng”
1.1.1. Tiểu sử của nhà thơ Y Phương
Y Phương (Hứa Vĩnh Sước), sinh ngày 24 tháng 12 năm 1948, quê
quán ở làng Hiếu Lễ, xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng (vì
vậy ông còn có “biệt danh” là Người trai làng Hiếu Lễ).
Y Phương đã rất may mắn khi được sinh ra và lớn lên ở Cao Bằng - xứ
sở non cao, nước biếc nơi biên viễn xa xôi của Tổ quốc. Đây là nơi chứa đựng
đầy các chiến tích, kỳ tích lịch sử chống giặc ngoại xâm, giữ nước cũng như
những truyền thống văn hóa phong phú và đặc sắc của các tộc người DTTS.
Phải chăng vì thế mà mảnh đất Cao Bằng từ xưa đến nay đã sinh ta biết bao
tướng võ anh hùng; bao nhà văn, nhà thơ DTTS nổi danh. Từ thế kỷ III trước
công nguyên, Cao Bằng gắn liền với quá trình hình thành liên minh các bộ lạc
Tày cổ (Tây Âu và Âu Việt) phát triển thành nước Nam Cường. Sau này,
người anh hùng Nùng Trí Cao được nhà Lý giao cho cai quản đất Quảng
Nguyên (nay là huyện Quảng Uyên), châu Tư Lang. Đến năm 1050, Nùng Trí
Cao đã lãnh đạo đồng bào DTTS nơi đây đứng lên khởi nghĩa chống quân
xâm lược nhà Tống, giữ gìn vùng biên cương Tổ quốc.
Đầu thế kỷ XV, nhà Minh xâm lược nước ta, bao thế hệ con em dân tộc
người Cao Bằng đã đứng lên chống giặc ngoại xâm - bảo vệ quê hương, Tổ
quốc, tiêu biểu như: Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái (dân tộc Tày) đã dấy
binh dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Minh. Nhiều trận chiến ác liệt xảy ra,
trong đó có trận đánh ở Nà Khuổi (xã Hồng Việt, Hòa An), quân Bế Khắc
Thiệu, Nông Đắc Thái đã tiêu diệt hơn 4.000 tên giặc, buộc giặc Minh phải
rút quân. Cuộc khởi nghĩa của Bế Khắc Thiệu góp phần cùng Lê Lợi đánh
15
đuổi giặc Minh, giữ lại nền độc lập dân tộc. Thời nhà Mạc, ở Cao Bằng nền
kinh tế, văn hóa, giáo dục phát triến khá mạnh như: mở trường Quốc học,
khuyến khích sáng tác thơ Nôm Tày, sáng tác lượn, then…; mở mang các
chợ, giao lưu buôn bán sầm uất, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, thủy lợi, mở
rộng đất canh tác để nâng cao đời sống của nhân dân các dân tộc và xây dựng
triều nhà Mạc nơi đây. Nửa đầu thế kỷ XIX, dưới chế độ cai trị của triều đình
phong kiến nhà Nguyễn, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Trong
những người anh hùng Cao Bằng đứng lên khởi nghĩa phải kể đến những cái
tên như: Lê Văn Khôi, Nông Văn Vân (Nùng Văn Vân)… Từ năm 1886,
Pháp từ Lạng Sơn sang đánh chiếm Cao Bằng, chúng đưa quân đi chiếm các
châu, các bản, càn quét, giết người và cướp bóc dã man. Nhân dân các dân tộc
Cao Bằng đã nổi dậy chống Pháp ở nhiều nơi, trong đó có 3 phong trào chống
Pháp diễn ra lâu nhất và gây cho Pháp nhiều thiệt hại nhất. Đó là vào năm
1887, Triệu Phúc Tinh, Trương Khang, Lương Tuấn Tú theo đại thần Tôn
Thất Thuyết lập căn cứ ở Lũng Tu, Tổng Cọt, Trà Lĩnh, mua hàng nghìn khẩu
súng, diệt 300 tên Pháp do tên quan Năm ở Lạng Sơn sang đánh vào pháo đài
ở Lũng Tu, sau đó tên quan Năm Galieni ở Cao Bằng phải đưa đại bác và
quân vào chi viện mới hạ được Lũng Tu. Từ năm 1889-1892, trong 4 năm
chống Pháp, Lục A Sung ở Phục Hòa, Quảng Uyên, Trùng Khánh đã đánh
Pháp nhiều trận, diệt hằng trăm tên Pháp đi tuần tiễu trên sông Bằng trên mặt
đất. Từ năm 1890-1896, thủ lĩnh Mã Quốc Anh và Tằng A Hợp ở Hạ Lang đã
chiến đấu 6 năm, tiêu diệt hơn 100 tên Pháp… [15, 15]
Được gieo mầm trên những mảnh đất có bề dày lịch sử giữ nước hào
hùng cùng với nền văn hóa đa dân tộc đặc sắc, văn học Cao Bằng có điều kiện
thuận lợi để “nảy mầm” và phát triển một cách “tươi tốt”. Bởi lẽ ấy, mảnh đất
Cao Bằng là nơi sinh ra bao nhiêu thế hệ nhà thơ, nhà văn ưu tú của cộng
đồng các DTTS Việt Nam, đặc biệt là những người con dân tộc Tày.
- Xem thêm -