Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thơ trần nhuận minh...

Tài liệu Luận văn thơ trần nhuận minh

.PDF
129
161
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------ NGUYỄN VĂN HƯNG THƠ TRẦN NHUẬN MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên, năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------ NGUYỄN VĂN HƯNG THƠ TRẦN NHUẬN MINH CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ VIỆT TRUNG Thái Nguyên, năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX và tiếp nối sang đầu thế kỉ XXI, Trần Nhuận Minh là nhà thơ có một khối lượng sáng tác hết sức phong phú và đa dạng. Nếu chỉ dừng lại ở một vài tập thơ trong từng thời điểm thì thật khó có thể vẽ lên bức chân dung văn học của ông. 25 năm trước thời kì đổi mới, người ta biết đến ông trên thi đàn, với những bài thơ hiền lành, giản dị nhưng cũng không kém phần sâu sắc, hóm hỉnh; cho đến 25 năm sau đổi mới, tính đến nay, bước đi của Trần Nhuận Minh đột ngột và dồn dập, biến ảo và sâu sắc, như cuộc sống đa chiều đang diễn ra hàng ngày. Sáng tác thơ đối với Trần Nhuận Minh là cả một quá trình đầy hạnh phúc nhưng cũng đầy lo âu và dằn vặt. Làm thơ rất sớm, năm 1960, ông đã có thơ đăng báo. Tập thơ đầu tiên: Đấy là tình yêu ra đời năm 1971, sau đó ông lần lượt cho ra đời các tập thơ: Âm điệu một vùng đất (1980), Thành phố bên này sông (1982), Hoa cỏ (1982), Nhà thơ áp tải (1989), Nhà thơ và hoa cỏ (1993), Bản Xô nát hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007) và Miền dân gian mây trắng (2008). Quá trình sáng tác là một quá trình vận động trong nhận thức của Trần Nhuận Minh. Từ chỗ làm thơ như theo “một công thức có sẵn, là thứ thơ mang tính chất minh họa”, ông đã cương quyết “bỏ lại đọc đƣờng” những đứa con tinh thần “khô cứng” của mình để đi tới con đường nghệ thuật đích thực, đó là: “Hãy áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”. Trong số nhà thơ thế hệ chống Mĩ, có lẽ, chỉ có Trần Nhuận Minh là dứt khoát từ bỏ 25 năm “thơ bao cấp của mình”. Đây không phải là đoạn tuyệt với quá khứ mà là đoạn tuyệt với một kiểu tư duy bao cấp của ông trong quá khứ. Và cũng chính từ đây, trang thơ ông thật sự “lật cánh”. Không quan sát một cách duy cảm, mà bằng những va chạm trực tiếp với đời sống hiện thực, thơ ông thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về những nỗi đau có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 thực của những kiếp người, về những trạng thái xã hội đầy những khiếm khuyết, đầy những nhức nhối, xót xa qua bức chân dung số phận con người đa dạng và phức tạp. Đặc điểm nổi bật trong thơ Trần Nhuận Minh là sự đan kết thực – hư trong việc xây dựng thế giới hình tượng đã mở ra khả năng chiếm lĩnh, nắm bắt và giải thích hiện thực, đồng thời diễn tả thế giới tâm linh vốn nhiều bí ẩn và những dấu hiệu mong manh mơ hồ, khó nắm bắt. Người đọc vì thế khi tiếp cận thơ ông phải tiếp cận trong tính chất đa chiều, khái quát và phong phú. Thơ ông, quả là một thứ thơ có màu sắc riêng, có phong cách riêng và có một vị trí riêng trong đời sống thơ ca hiện đại. Để đánh giá một cách xác đáng về thơ Trần Nhuận Minh, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở một vài bài nghiên cứu thì không thể có cái nhìn khái quát về thơ ông. Phải xâu chuỗi cả đời thơ nửa thế kỉ qua, dưới nhiều góc cạnh mới thấy hết được sự sáng tạo đáng trân trọng của Trần Nhuận Minh. Có như vậy, chúng ta mới nhận diện được thơ Trần Nhuận Minh và khẳng định những cống hiến của ông trong văn học nghệ thuật suốt 50 năm qua. Mới hiểu vì sao ông được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cho hai tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ và Bản Xô nát hoang dã, về hàng chục Huân chương, Huy chương, Kỉ niệm chương và nhiều giải thưởng văn học cao quý khác... 1.2. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá một cách thấu đáo, công bằng về những đóng góp cũng như sáng tạo độc đáo của nhà thơ Trần Nhuận Minh cho tới nay vẫn còn ở dạng rất “khiêm tốn”. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi, thì hiện tại mới có hai luận văn thạc sĩ nghiên cứu về một số phương diện nghệ thuật trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác thơ của Trần Nhuận Minh, đó là: Lê Thị Hải Hà với đề tài: Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh, và Chung Thị Thúy với đề tài: Cảm hứng thế sự và đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh. Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu, phê bình về tác giả, tác phẩm của Trần Nhuận Minh của các nhà nghiên cứu có uy tín như: GS. Phong Lê, GS. Mai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 Quốc Liên, nhà phê bình Vũ Quần Phương…trong một số công trình nghiên cứu chung về thơ văn thời kì hiện đại; hoặc ở dạng bài nghiên cứu lẻ. Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài Thơ Trần Nhuận Minh chủ yếu nghiên cứu sâu về thế giới hình tượng nghệ thuật của ông, mà cụ thể là hình tượng con người – một hình tượng trung tâm, nổi bật, đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của Trần Nhuận Minh, nhằm có một cái nhìn khá hệ thống và toàn diện ở cả hai phương diện: nội dung và hình thức trong sáng tác của nhà thơ này. Với hi vọng sẽ góp phần nào vào việc tìm hiểu và đánh giá những nét đặc sắc, những thành công nổi bật và sự đóng góp quan trọng của nhà thơ này đối với nền thơ ca Việt Nam hiện đại (đặc biệt sau những năm 1986 trở lại đây). 1.3. Với một lí do nữa cũng rất có ý nghĩa với người thực hiện đề tài, đó là: nếu luận văn được thực hiện thành công, thì đây sẽ là một công trình nghiên cứu, một tài liệu tham khảo quan trọng giúp cho các thày cô giáo tỉnh Hải Dương (quê hương của tác giả Trần Nhuận Minh và tác giả luận văn) giảng dạy tốt hơn về một tác giả thơ nổi tiếng của vùng đất xứ Đông thời kì hiện đại. 2. Lịch sử vấn đề Trần Nhuận Minh là một trong các nhà thơ đã để lại “một vệt riêng” cho thơ trữ tình Việt Nam cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, nên thơ ông đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình văn học trong thời gian qua. Đã có một số những công trình, bài viết, phê bình, giới thiệu, nghiên cứu về thơ ông. Chúng tôi xin điểm lại tình hình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của ông như sau: Sáng tác trong những năm tháng “khủng hoảng vật vã” chuyển mình từ cái cũ sang cái mới, những năm tháng chất chứa “những giọt nƣớc mắt đời không thấy”, Trần Nhuận Minh nhận thức rõ vai trò, chức năng của văn học khi nhà thơ đưa ra quan niệm “Hãy áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”. Nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài viết “Trần Nhuận Minh ba lần định vị cho thơ” đã thấu suốt quan niệm sáng tác này của nhà thơ. Theo ông, Trần Nhuận Minh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 đã “bám chặt và áp mặt vào đời để gợi thức và đánh động lƣơng tâm” [13.17]. Cũng theo GS. Phong Lê, thơ Trần Nhuận Minh có ba lần định vị, lần thứ nhất là “Đi tìm hoa và cỏ hoa cỏ” [5.17], lần thứ hai là “Hành trình về với bản thân”[16.25], lần thứ ba là “Bâng khuâng tự vấn về sự tồn tại con ngƣời trong cõi ngƣời, cõi đời”[20.30]. Ba lần định vị đã “ghim” một dấu mốc cho những bước chuyển mình của thơ Trần Nhuận Minh qua các giai đoạn sáng tác. Còn GS. Mai Quốc Liên khi “Đọc thơ Trần Nhuận Minh” đã phát hiện thấy ẩn chứa đằng sau mỗi vần thơ là “một tâm hồn thành thực, chân quê, nhƣng lại tích hợp bao tầng văn hóa xƣa nay đã nhạy cảm làm sao trƣớc dƣ chấn của thời đại mình đang sống”[11.39]. Đó chính là lí do khiến thơ ông đi đến được cái chân thực, cái đích thực và dò ra cái “rốn bể” của thơ là nỗi niềm chính mình. Tác giả còn khẳng định: “Thi pháp cuối cùng và cao nhất của thơ, là chỗ nó chở cuộc đời nhẹ nhƣ không thơ, không cần đến câu chữ nữa”[25.44]. Lê Thị Hải Hà trong đề tài Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh (Luận văn thạc sĩ khoa học ĐHHSP Hà Nội, năm 2008 ) đã nhận xét thơ Trần Nhuận Minh như sau: “Có thể thấy thơ ông thƣờng tập trung chú ý nhiều hơn tới hiện thực số phận con ngƣời cụ thể với những vấn đề triết lí đạo đức nhân sinh, vừa thể hiện ý thức cá nhân của chủ thể trữ tình. Trần Nhuận Minh thuộc kiểu nhà thơ trữ tình thế sự đời tƣ”[21.39]. Chung Thị Thúy – tác giả luận văn thạc sĩ khoa học (Đại học Vinh), năm 2009 với đề tài Cảm hứng thế sự và đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh đã viết: “Nhƣng khi lịch sử bƣớc sang một trang mới, cuộc sống với tất cả sự nhức nhối, bức thiết của nó, thơ ca không phải mãi say sƣa ngợi ca mà phải hƣớng tới phản ánh toàn diện hiện thực của con ngƣời. Cảm hứng thế sự, đời tƣ trong thơ Trần Nhuận Minh là cảm hứng hƣớng đến những vấn đề của đời thƣờng, thấm thía hơn nỗi buồn sau chiến tranh”[21.38]. Trần Nhuận Minh cũng như bao nhà thơ khác ý thức sâu sắc vai trò trách nhiệm xã hội của mình.Với khát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 vọng dân chủ, ý thức tôn trọng sự thật, thơ Trần Nhuận Minh đã chạm đến cốt lõi của cuộc sống hiện thực hôm nay. Trần Nhật Thu trong bài Câu thơ như mảnh hồn người, đã viết: “Thơ Trần Nhuận Minh có những bài, những câu, đẹp đến nao lòng, nhƣng lại có những bài, những câu, đau đến xé lòng. Có lẽ anh không thể viết khác đƣợc, khi mà anh muốn “áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”…[9.230]. Nguyễn Xuân Đức khi viết bài Thơ Trần Nhuận Minh, đã đánh giá cao giá trị cảm hứng thế sự, đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh. Ông nhận định, Trần Nhuận Minh “không đứng ngoài quan sát một cách duy lí mà tự hòa đồng để cảm nhận số phận của mỗi kiếp ngƣời. Có thể nói anh không chỉ sống có một kiếp ngƣời”[6.130]. Với bài viết này, Nguyễn Xuân Đức đã chỉ cho ta thấy thơ Trần Nhuận Minh viết về những con người với số phận thực bằng một tình cảm sâu sắc, chân thành. Tác giả Tô Thùy Anh sau khi đọc Nhà thơ và hoa cỏ đã cảm nhận “bỗng thấy trƣớc mắt mình sống lại những cảnh đời, bao số phận con ngƣời. Cũng có lúc thơ anh động đến nỗi đau đời của cả một dân tộc. Cái chất dung dị hồn nhiên quyện thêm chất suy tƣ trăn trở, dằn vặt”[8.219] kết hợp cùng một “giọng thơ nồng đƣợm, hàm súc, lay động hồn ngƣời” đã giúp Trần Nhuận Minh “vƣơn tới triết lí Đông phƣơng cổ điển”[13.219]. Điều đó càng khẳng định vững chắc thơ Trần Nhuận Minh luôn bắt nguồn từ “truyền thống đạo đức Việt Nam ngàn đời”[14.219]. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã gọi Trần Nhuận Minh là “ngƣời bay bằng chân” bởi lẽ “ khi sống hết lòng với cái chân thực của cõi ngƣời, Trần Nhuận Minh đƣợc cả cái hƣ ảo của trời đất”[23.73]. Khi đọc Nhà thơ và hoa cỏ, tác giả Đào Tiến Thi đã nhận thấy cái Tôi Trữ tình “luôn da diết nỗi niềm nhân thế nhƣng da diết nhất là những bài có hình tƣợng nhân vật”[11.265]. Hình tượng nhân vật vừa ở góc độ cá thể hóa vừa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 ở góc độ khái quát hóa, và “ám ảnh tìm về’’ với vẻ đẹp nguyên khối của con người xưa. Nhà thơ Hữu Thỉnh trên Tạp chí Tác phẩm Mới số 5/1989 nhận định thế giới nghệ thuật trong trong tập thơ Nhà thỏ và hoa cỏ đã “mở rộng không gian cảm nhận, xử lí đề tài”. Và cái mới trong tập thơ là “nhà thơ tiếp cận thế giới tâm hồn của ngƣời lao động với thƣớc đo của văn hóa”. Những bài thơ thành công của Trần Nhuận Minh là sự cộng hưởng chất sống và kinh nghiệm sống, những thảng thốt bất chợt, đan xen vẻ đẹp bình dị thường ngày. Tập thơ Bản Xô nát hoang dã là bước chuyển mình của cái Tôi Trữ tình. Tác giả Đặng Văn Sinh viết bài Khát vọng về một tình yêu thần thánh đã chỉ ra rằng “Hình tƣợng quán xuyến trong toàn bộ tác phẩm là cái tôi trữ tình biến động, lúc hữu hình, lúc vô ảnh, lúc là hiện thực khách quan, lúc chỉ là giả tƣởng”[14.66]. Bên cạnh đó, tác giả bài viết còn nhận thấy trong Bản Xô nát hoang dã “thế giới hình tƣợng ở đây, là thế giới lƣỡng phân, hai mảng sáng tối thƣờng phân tầng và luôn đƣợc xem xét trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của triết học cổ phƣơng Đông”[9.168]. Nghiên cứu “Bản Xô nát hoang dã từ góc độ thiền học”, tác giả Nguyễn Văn Sơn cho rằng tác phẩm đã “phản ánh năng lực tƣ duy nghệ thuật hết sức nhạy cảm trong việc khéo léo lựa chọn hình thức thể hiện hình tƣợng nghệ thuật và chất liệu ngôn ngữ thi ca”[19.178]. Tất cả để nhằm thể hiện tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là tư tưởng giác ngộ, nhận biết về vũ trụ nhân sinh. Nhận định về tập thơ 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh trong bài viết “Khúc đàn bầu thân phận”, nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng: “Tác giả đã làm một cuộc viễn du, tạm đứng ra ngoài đời mà nhìn lại chính mình…suy tƣởng khái quát nhƣ ôm vào thân phận nhân gian của mọi thời, nhƣng xuất phát từ thế sự cụ thể hôm nay, từ tâm trạng bây giờ”[3.189]. Giọng tự sự, miêu tả, tưởng như quen bút của Trần Nhuận Minh, đã thành giọng trữ tình chiêm nghiệm. Một cuộc đối thoại với hư không, về chính nỗi lòng mình. Trần Nhuận Minh mượn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 tiếng đàn bầu dân gian, dân tộc, nghĩ ngợi cái đời mình, cái kiếp mình, cũng là một cách tìm chân dung thời mình đang sống. Tác giả Vũ Ngọc Thảo với bài viết “45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh, đánh thức những miền tiềm thức lạ” nhận ra rằng: “Những khúc thức đƣợc xây dựng theo những cảm hứng của nhà thơ…Dòng chảy thi ca trải dài theo dòng thời gian, không gian, từ làng quê ra phố phƣờng, từ góc tối của kẻ sĩ đến sự hèn của chính khách”[19.209]. Trong bài viết “Thi pháp ca dao trong Miền dân gian mây trắng”, tác giả Hữu Tuân đã phát hiện: “Các đề tài là bức tranh sinh hoạt đời thƣờng diễn ra hàng ngày quanh ta”[11.346]. Điểm mạnh của Trần Nhuận Minh ở góc này là trào phúng kết hợp với trữ tình. “Nói tập thơ nghiêng về đề tài thƣờng nhật, giản dị nhƣng không vì thế mà đơn điệu. Trái lại, rất đa dạng, nhiều bài đạt tới độ sâu triết lí nhân sinh”[4.346]. Trần Nhuận Minh đã đến được cái đích là chủ nghĩa nhân văn và truyền thống văn hóa, đạo lí dân tộc. Như vậy, xung quanh việc nghiên cứu, phê bình thơ Trần Nhuận Minh nói chung và các tập thơ cụ thể của ông nói riêng đã có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều mức độ lí giải khác nhau. Hầu hết các tác giả đều tập chung nghiên cứu các vấn đề sau: - Cuộc đời và con đường thơ Trần Nhuận Minh: nghiên cứu, giới thiệu các tập thơ và khuynh hướng vận động thơ Trần Nhuận Minh. - Giới thiệu, nghiên cứu, đánh giá về các tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ, Bản Xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh, Miền dân gian mây trắng. - Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh: những bài viết này chủ yếu khai thác, khám phá điểm độc đáo, cá tính sáng tạo của nhà thơ ở những phương diện nội dung, hình thức, tư tưởng nghệ thuật…trong các tác phẩm đặc sắc. Tuy nhiên, những vấn đề này cũng mới chỉ được nghiên cứu ở dạng điểm qua hoặc đưa ra các nhận xét, nhận định, chứ chưa có các công trình nghiên cứu quy mô thấu đáo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 Như vậy, chúng ta thấy: việc nghiên cứu về thơ Trần Nhuận Minh cũng đã được nhiều người quan tâm, nhưng cho tới nay chưa có một tác giả nào trực tiếp nghiên cứu về vấn đề về hình tượng con người - một hình tượng trung tâm trong thơ Trần Nhuận Minh (bao gồm đầy đủ các tầng lớp con người trong xã hội ) trước và sau thời kì đổi mới, để thấy được cả một quá trình sáng tác thơ của ông luôn xoáy sâu vào số phận của mọi con người (thuộc mọi đối tượng khác nhau) trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu có tính mới, chuyên sâu về thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ thế giới hình tượng, để từ đó, có một cái nhìn hệ thống và khá toàn diện về đặc điểm nổi bật thơ Trần Nhuận Minh - thơ viết về “chân dung”, “thơ của những số phận con ngƣời”. Qua đó sẽ góp thêm một tiếng nói khẳng định những thành tựu, nét đặc sắc và những đóng góp quan trọng của thơ ông đối với sự vận động, phát triển của nền thơ ca hiện đại Việt Nam thời kì cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về Thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ hình tượng con người, do đó, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là tất cả các tập thơ của ông: - Đấy là tình yêu (1971) - Âm điệu một vùng đất (1980) - Thành phố bên này sông - Nhà thơ áp tải - Hoa cỏ (1982) (1989) (1982) - Nhà thơ và hoa cỏ (1993) - Bản Xô nát hoang dã (2003) - 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh ((2007) - Miền dân gian mây trắng ( 2008)) Tuy nhiên, chúng tôi sẽ đi sâu vào khảo sát, phân tích một số tập thơ tiêu biểu, mang tính chất dấu mốc như: Âm điệu một vùng đất, Nhà thơ và hoa cỏ, Bản Xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh, Miền dân gian mây trắng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 Ngoài ra, chúng tôi còn nghiên cứu một số tác giả, tác phẩm thơ khác cùng thời với Trần Nhuận Minh (để so sánh, đối chiếu) và tham khảo một số sách lí thuyết, lí luận văn học làm cơ sở lí luận cho công trình nghiên cứu của mình. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau: 4.1. Phương pháp thống kê - phân loại 4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu 4.3. Phương pháp phân tích ( tác giả, tác phẩm ) 4.4. Một số phương pháp khác ( phương pháp tổng hợp, nghiên cứu liên ngành) 5. Đóng góp của luận văn Nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ hình tượng con người (trên cả phương diện nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện), luận văn nhằm mục đích: Chỉ ra những đặc điểm cơ bản của thế giới hình tượng con người trong thơ Trần Nhuận Minh. Qua đó khẳng định những nét sáng tạo, độc đáo, mang tính đặc trưng của nhà thơ trong quá trình thể hiện hình tượng nghệ thuật trung tâm này. Chỉ ra những đóng góp quan trọng của nhà thơ Trần Nhuận Minh đối với sự vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt giai đoạn sau Đổi mới (1986 tới nay). 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm ba chương chính: Chƣơng 1: Thơ Trần Nhuận Minh – sự vận động không ngừng trong quá trình phát triển Chƣơng 2: Hình tƣợng con ngƣời – một hình tƣợng trung tâm trong thơ Trần Nhuận Minh Chƣơng 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong thơ Trần Nhuận Minh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 THƠ TRẦN NHUẬN MINH – SỰ VẬN ĐỘNG KHÔNG NGỪNG TRONG QUA TRÌNH PHÁT TRIỂN 1.1. Trần Nhuận Minh – con ngƣời và sự nghiệp thơ ca Trần Nhuận Minh sinh ngày 20 tháng 8 năm 1944 trong một gia đình có truyền thống nho học, tại làng Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Khi còn là học sinh cấp 2 trường huyện, ông đã được đọc tờ báo Nhân dân có đăng bài Hoan hô chiến sĩ Điên Biên của Tố Hữu, đó là bài thơ đầu tiên ông được “đọc bằng mắt” (trước đây ông chỉ được nghe qua người khác). Từ đó, Trần Nhuận Minh đã có sự ảnh hưởng của thơ Tố Hữu, ông bắt đầu làm thơ (chủ yếu là thơ cổ động cho huyện Nam Sách – quê hương ông). Trong suốt những năm từ 1962 – 1969, ông vừa dạy học ở khu mỏ Hồng Quảng, Quảng Ninh vừa miệt mài sáng tác thơ ca. Năm 1969, ông công tác tại Ban Vận động Thành lập Hội văn học Nghệ thuật Quảng Ninh, là Ủy viên Chấp hành, Thường vụ, Thư kí, Phó Chủ tịch, rồi Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Ninh (2 khóa), Ủy viên Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuât Việt Nam, Phó Ban công tác Nhà văn các tỉnh phía Bắc của Hội nhà văn Việt Nam. Cho tới nay, Trần Nhuận Minh đã xuất bản 15 tập thơ và 3 tập văn xuôi. Đó là các tập thơ: Đấy là tình yêu (1971), Âm điệu một vùng đất (1980), Thành phố bên này sông (1982), Nhà thơ áp tải (1989), Hoa cỏ (1982), Nhà thơ và hoa cỏ (1993 - tái bản lần thứ 19, 2009), Giọt phù sa vạn dặm (2000), Bản Xô nát hoang dã (2003-tái bản lần thứ 8, 2009), Trần Nhuận Minh - Thơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 với tuổi thơ (2003), Gửi lại dọc đường ( 2005 - tái bản lần thứ 4, 2009), Trần Nhuận Minh, Tuyển tập thơ (2005), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007– tái bản lần thứ 2, 2009), Miền dân gian mây trắng (2008 – tái bản lần 1, 2009), Bốn mùa – Four seasons (2008), Bốn mùa (2009 – Tuyển tập). Và các tập văn xuôi: Trước mùa mưa bão (1980 – in lần thứ 5, 2010), Hòn đảo phía chân trời ( 2000 – in lần thứ 5, 2010), Truyện chọn lọc cho thiếu nhi (2002). Trong suốt 50 năm miệt mài sáng tác, Trần Nhuận Minh đã khẳng định được những bước đi vững chắc và đôi khi là đột phá của mình trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Chính sự cống hiến hết mình cho thơ ca nói riêng, văn học nghệ thuật nói chung, nhà thơ Trần Nhuận Minh “định vị” được tên tuổi của mình trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt là giai đoạn từ bắt đầu đổi mới tới nay. 1.2. Quá trình vận động của thơ Trần Nhuận Minh Trong sự nghiệp 50 năm cầm bút, Trần Nhuận Minh sáng tác một số lượng tác phẩm thơ đáng nể. Ông đã từng phát biểu rằng, ông rất cám ơn công cuộc Đổi mới, chính công cuộc Đổi mới đã “sinh ra tôi lần thứ hai”. Và sau này khi làm tuyển tập, ông chỉ chọn 28 bài tiêu biểu nhất sáng tác trong vòng 25 năm, kể từ trước năm 1986 đưa vào phần phụ lục với tiêu đề Bỏ lại dọc đường để độc giả có dịp tham khảo. Thế nhưng khách quan mà nói, khi nhìn lại chặng đường sáng tác 25 năm trước thời kì Đổi mới, thơ Trần Nhuận Minh có một quá trình vận động cùng với xu hướng phát triển chung của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông được coi là “nhà thơ của giai cấp công nhân, nhà thơ về đề tài công nghiệp, ông đƣợc lĩnh vinh dự, và có trách nhiệm phát ngôn và tôn vinh cho nó suốt hai thập niên 60 và 70…”[26.16,17]. Do đó, khi nghiên cứu chặng đường thơ của Trần Nhuận Minh, chúng ta không thể bỏ qua thời kì sáng tác của ông trước năm 1986. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 Vì vậy, nghiên cứu quá trình vận động thơ của Trần Nhuận Minh chúng tôi vẫn chia ra làm hai thời kì, đánh dấu hai chặng đường thơ của nhà thơ họ Trần quê hương Hải Dương nhưng lại thành danh ở vùng đất mỏ Quảng Ninh này. 1.2.1. Thơ Trần Nhuận Minh thời kì 1960 – 1985 Bắt đầu sáng tác từ những năm 60 của thế kỉ XX, Trần Nhuận Minh đã in hai tập thơ chung: Sức mới (1967) và Ca bình minh (1972) với đề tài công nghiệp. Bằng sự lao động nghiêm túc, miệt mài trong lĩnh vực nghệ thuật khi gắn bó với vùng đất vàng đen của Tổ quốc, Trần Nhuận Minh đã cho ra đời tập thơ in riêng đầu tiên: Đấy là tình yêu (1971). Trong bài thơ Trình bày viết năm 1970, Trần Nhuận Minh đã tự giới thiệu về con đường lập nghiệp của mình: Bạn ơi, tôi có hai lá phổi Một làng Điền Trì mùa thu nƣớc nổi Một nửa phố mỏ Hòn Gai Quanh năm rừng rực nắng trời. Giữa hai lá phổi lành, đây, trái tim tôi Hai miền quê: một là vùng đồng chiêm nước trũng nhưng chứa đựng bề dày bao tầng văn hóa; một là vùng “phố mỏ” tấp nập, đông vui “quanh năm rừng rực nắng trời” đã gắn bó với nhà thơ và không thể tách rời. Rõ ràng “phố mỏ Hòn Gai”- vùng công nghiệp vàng đen của tổ quốc với Trần Nhuận Minh vốn không phải là nơi chôn rau cắt rốn, nhưng ông đã gắn bó máu thịt và đã cống hiến suốt cả một thời tuổi trẻ, suốt cả quá trình hoạt động sáng tác và đã thành danh ở nơi này; còn với Nam Sách – Hải Dương – nơi đã sinh ra ông luôn là quê hương yêu dấu, chốn đi về của tâm hồn và trái tim ông. Cả hai vùng quê với hai dạng văn hóa khác nhau đã hun đúc tài năng, đã cung cấp cho Trần Nhuận Minh những chất liệu, những “tài nguyên” quý giá, phong phú để ông có thể viết lên những vần thơ, trang thơ thấm đẫm chất dân gian mềm mại, dịu dàng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 bên cạnh chất liệu hiện thực đầy gai góc, khốc liệt, phong phú và phức tạp thời kì hiện đại. Từ chỗ là một anh nông dân trở thành giáo viên và gắn bó với giai cấp công nhân, đã tạo nên một bước chuyển biến quan trọng trong cuộc đời và trong sáng tác của Trần Nhuận Minh và đã làm nên “cuộc định vị lần thứ nhất” cho thơ ông, như sự khẳng định của nhà nghiên cứu Phong Lê. Ở buổi đầu những năm 60, với đóng góp của đội ngũ thơ chủ lực của nền cách mạng, đó là cảm hứng ca ngợi vẻ đẹp của sự nghiệp giải phóng một nửa đất nước, và đồng thời là cái nhìn từ những ước mơ bao đời nay đang hiện dần lên sự thật. Trần Nhuận Minh cũng đã khẳng định mình là nhà thơ chân chính, là người con mang tình yêu lớn với quê hương và có chung khát vọng dân tộc. Trong sự hấp dẫn của lí tưởng, có bao hàm những khát vọng riêng tư của tuổi trẻ. Nhưng thực ra, sự hấp dẫn của vùng mỏ đối với Trần Nhuận Minh còn có cái gì đó, mộng nhiều hơn thơ…Và đây là một trong những bài thơ ông viết về vùng mỏ: Nơi đây là mỏ Mạo Khê Một vùng cung núi, bốn bề than đen Nơi đây anh đã gặp em Một đêm mở vỉa sao đêm đầy trời. (Mạo Khê) Trần Nhuận Minh đến với thơ như vậy, háo hức và hăm hở. Tuy vậy, nhiệt tình ấy chưa phải là điều kiện đủ cho thơ ông có sự thành công. Có thể dẫn bài Anh thợ lò – bạn tôi: Bƣớc ra khỏi lò Anh nhƣ đi trên sóng Khoảng đất bằng và rộng Anh đi không thật chân Chính anh cũng lạ cho mình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 Không có cái nhìn của người đồng bằng về mỏ, Trần Nhuận Minh khó có thể đưa vào thơ những trực giác sinh động ấy, mà những người lâu năm ở đây chưa dễ đã nói được. Đây cũng chính là nét riêng, là “duyên” thơ của ông, còn mãi đến bây giờ, góp phần giúp ta nhận ra ông trong hàng loạt những cây bút vùng mỏ như Yên Đức, Phạm Doanh, Đào Ngọc Vĩnh… Dễ hiểu vì sao những bài thơ được người đọc ưa thích hơn trong Đấy là tình yêu vẫn là những bài ghi lại cảm xúc suy nghĩ từ những gì ông thân quen, từ chiếc cổng làng: Nơi niềm vui theo năm tháng sinh sôi Mùi nếp thoảng bay nhịp chày khua gấp Tiếng súng dội về bao đêm trở giấc Trâu cọ cổng tre lấp lánh lƣỡi cày… (Cổng làng) Rồi những gì chung hơn, vẫn là cái làng – cái làng mới “cách mỏ ba cây số”, nơi “có con tầu chạy ngang đồng lúa lấn vào chân mỏ” mà đôi mắt và tấm lòng người ở đây cứ nửa quen, nửa lạ: Sáng sáng nhìn lên mỏ Đôi mắt thăm thẳm đen Cầy ruộng bật than lên Lòng bồi hồi xúc động (Làng ven mỏ) Nói đúng hơn, thành công bước đầu ở thơ Trần Nhuận Minh chưa phải là những bài thơ viết về người thợ, mà chủ yếu là những đổi thay dễ nhận ở môi trường mới mà ông sống. Khi nhìn chặng đường đầu, Trần Nhuận Minh thấy “thơ mình vẫn đi ven ven ngoài mỏ”. Trong cách nói, nhìn có phần làm duyên, ông bắt đầu có ý thức một cách rõ rệt và cụ thể hướng đi của thơ mình. Miền đất và con người vùng mỏ rất thơ và rất mộng. Nhưng sự thơ mộng này khác hẳn những gì trước đây mà ông tưởng tượng. Rằng đến với vùng mỏ, không phải đến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 với những vinh quang giành cho tuổi hai mươi chấp nhận. Chứng kiến cảnh lao động hết sức gian khổ của người thợ, ông tự nói với mình sự gian khổ của người thợ là có thật, và sự có thật của thơ mình là giả. Ý nghĩ chân thành và nghiêm khắc ấy đã hướng thơ ông đi những bước chắc chắn vào Âm điệu một vùng đất (1980) và Thành phố bên này sông (1982). Nếu Đấy là tình yêu mới chỉ là nhận thức cảm tính về vùng mỏ mới đứng ở bên ngoài quan sát, và viết về những người thợ mỏ, thì Âm điệu một vùng đất và Thành phố bên này sông, Trần Nhuận Minh đã hình thành một quan niệm thơ với ý thức trách nhiệm của một nhà thơ công nhân đứng trong đội ngũ công nhân, viết theo cách nghĩ, cách cảm của những người công nhân mỏ. Cuộc sống phát triển, giàu có thêm chất liệu mới do bàn tay và sức nghĩ, sức sáng tạo của con người. Rồi từ những đổi mới này mà hình thành dần một cảm xúc mới – cảm xúc trước đời sống công nghiệp của Trần Nhuận Minh. Với bài thơ Đá cháy gồm 7 đoạn thơ, 224 câu, viết năm 1985, Trần Nhuận Minh đã làm một “cuộc định vị lần thứ hai” cho thơ mình. Lửa, Than và Tỏa sáng là ba “nhân vật” chính trong quá trình diễn ra “Đá cháy”. Bài Đá cháy được xem như là tuyên ngôn nghệ thuật của Trần Nhuận Minh. Với vị trí, tư cách của một nhà thơ công nhân khao khát có thể làm nên những điều có ý nghĩa hơn trong cuộc sống hối hả, vất vả và đang vận động tích cực này: Tôi sẽ đầu thai làm ngọn lửa Cháy điên khùng trong đất tối âm u “Tỏa sáng” là cách tồn tại của quá trình diễn ra đá cháy và “không tỏa sáng thì không tồn tại”. Đó cũng là cách nhà thơ khẳng định quan điểm sống và sáng tác của mình, đúng như nhận định của nhà nghiên cứu Phong Lê: “Một khẳng định đến từ sứ mệnh của giai cấp công nhân, mà nhà thơ muốn (hoặc đã) là ngƣời đại diện, khi từ là Tảng đất sét bên sông Kinh Thầy, anh đã trƣởng thành tảng đá đen nguyên khối xù xì của một vùng than mênh mông – miền vàng đen trong lòng đất Đông Bắc của Tổ quốc[16.28]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 Đây cũng chính là sự định vị lần thứ hai của nhà thơ đất mỏ này. Ông đã quyết định trở thành nhà thơ của giai cấp công nhân, giai cấp tiên phong của cách mạng Việt Nam. Và nói như nhà ngiên cứu, phê bình Phong Lê thì về “khách quan nó ghi nhận đƣợc gƣơng mặt đất nƣớc và gƣơng mặt thơ một thời trong và sau chiến tranh còn chƣa phai nhạt âm hƣởng hào hùng của đất nƣớc chống ngoại xâm, và trong buổi đầu sự nghiệp xây dựng chống đói nghèo còn rất giàu tự tin đến thành lãng mạn”[5.30]. Và quả thật, Trần Nhuận Minh đã thực hiện được niềm khao khát đó. Ông đã trở thành một nhà thơ của giai cấp công nhân, nhà thơ của vùng mỏ Quảng Ninh với những tập thơ đã trở thành niềm tự hào của bao người công nhân mỏ thời kì lịch sử ấy. Đấy là tình yêu, Âm điệu một vùng đất và Thành phố bên này sông, Trần Nhuận Minh là một trong không nhiều gương mặt thơ gắn bó tâm huyết với đề tài công nghiệp, với những người thợ mỏ của đất Quảng Ninh đầy than, bụi và mầu áo thợ. 1.2.2. Thơ Trần Nhuận Minh thời kì 1986 đến nay Đại hội VI của Đảng năm 1986 là một cái mốc, một sự kiện lớn của dân tộc. Và Nghị quyết 05 của Bộ chính trị về văn hóa, văn nghệ quả là một sự “cởi trói” theo đúng nghĩa của nó cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của mình. Phương châm của Đảng ta lúc đó là “lấy dân làm gốc” và mọi hành động cần phải “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Nằm trong xu hướng chung đó, thơ Trần Nhuận Minh có những sự vận động và đổi mới quan trọng. Với bài thơ Nhà thơ áp tải (1989), thể hiện một quan niệm nhân sinh quan tích cực phù hợp với thực tiễn và nhu cầu về một nền văn học mới – áp tải sự thật. Vì vậy, có thể xem: Trần Nhuận Minh như là một trong những đại diện tiêu biểu của một khuynh hướng sáng tác mới – khuynh hướng phản ánh sự thật với tất cả những mặt phải – trái, trắng – đen, những sự phức tạp, sự chói gắt, sự tốt đẹp cũng như sự phũ phàng của nó một cách trung thực nhất: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 Hãy áp tải sự thât Đến những bến cuối cùng ( Nhà thơ áp tải) Chính công cuộc Đổi mới đã sinh ra một nhà thơ Trần Nhuận Minh thứ hai. Nhận thức được trước mặt là chân trời nghệ thuật mới vô cùng khoáng đạt, văn học mới đã chuyển lên “đƣờng ray”, có nghĩa là cuộc hành trình mới của Trần Nhuận Minh được khởi động. Nó được khởi động từ một cảm hứng mới về sự thật, từ một đòi hỏi cao hơn, toàn diện hơn về nhận thức sự thật; và từ một ý thức mới, quan niệm mới đang hình thành và được khẳng định thiên về chức của nhà thơ trong thời kì mới của đất nước. Tiếp nối sự đổi mới ở giai đoạn trước, trong Hoa cỏ đã đưa Trần Nhuận Minh sang một thế giới khác, thế giới của cảnh đời và tình người. Rồi từ Hoa cỏ, ông đã in tiếp tập thơ thứ sáu có tên Nhà thơ và hoa cỏ. Ở tập thơ này, Trần Nhuận Minh đã đi sâu vào việc viết về số phận nhân dân, “viết về nỗi đau con ngƣời”, viết về thế sự, nhân sinh với tất cả bộn bề chói gắt của nó. Tập thơ đã khắc họa tập trung đầy đủ nhất và cũng đậm nét nhất về số phận người lao động trong xã hội: Câu thơ nhƣ gan ruột Phơi ra giữa trời mây Mỗi ngƣời một số phận Ngang qua thế kỉ này (Lời đề tựa trong tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ) Đã có một thời do hoàn cảnh chiến tranh, văn học cần phải thực hiện một cách hiệu quả nhất chức năng giáo dục; và do yêu cầu của chức năng giáo dục, chính trị, tư tưởng mà văn học cần phải tập trung vào việc phản ánh cái tích cực, cái tốt đẹp như là bản chất của xã hội, thì giờ đây, văn học thực sự muốn đạt được chức năng giáo dục lại phải làm sáng tỏ sự thật một cách toàn diện, không che đậy cả những mặt khuất tối, những tiêu cực tồn tại trong xã hội, và Trần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18 Nhuận Minh đã thực hiện được điều đó. Trên bức tranh hiện thực trong thơ Trần Nhuận Minh, cái cũ, cái xấu, cái ác không còn ở vị trí mờ nhạt, chỉ có nhiệm vụ làm nổi bật cái mới, cái tốt đẹp, cái tích cực của xã hội mà bản thân cái cũ, cái xấu, cái ác cũng đã chứa một vị trí tương xứng để đạt một giá trị nhận thức và hiệu quả của văn học nghệ thuật là: cảnh báo những nguy cơ tiềm ẩn trong xã hội, cảnh tỉnh về nhân cách, đạo đức cho con người thời kì hiện đại. Như vậy, trong mười lăm năm đầu, kể từ Đại hội VI (1986) trở lại đây, với chủ trương “áp tải sự thật” thơ Trần Nhuận Minh đã tập trung vào việc phản ánh về số phận nhân dân ở mọi góc cạnh của đời sống. Ngòi bút hiện thực của ông đã đi sâu vào từng số phận con người để mô tả, phản ánh những nỗi niềm, những tâm sự, những đớn đau, bất hạnh bên cạnh những hạnh phúc. Đồng thời, ông đã khẳng định được khả năng sáng tạo nghệ thuật của mình để tạo nên một gương mặt thơ riêng, nổi lên trong dàn đồng ca chung, trong gương mặt chung của đồng đội mà không lẫn nhòa. Ông tự tiến hành được cả một cuộc đi cho mình, một cuộc đối thoại, trò chuyện với bạn đọc hôm nay mà không sợ nghèo, không sợ nhạt, không sợ trùng lặp, không sợ vô bổ - đó mới là vấn đề đặt ra cho thơ ca hôm nay, càng là vấn đề đặt ra cho thơ viết về số phận nhân dân mà Trần Nhuận Minh giành cả tâm huyết, trí tuệ, tình cảm của mình vào trong đó. Nếu như tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ được Trần Nhuận Minh hoàn thành trong 15 năm cuối thế kỉ XX (1986 – 2001) thì sang đầu thế kỉ XXI, ông đã liên tiếp cho ra đời 3 ba tập thơ: Bản Xô nát hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007), Miền dân gian mây trắng (2008). Mỗi tập nhà thơ viết liền một mạch, rõ ràng và liên tục với một cảm hứng riêng, say mê và nhất quán, lần lượt được xuất bản trong mấy năm đầu của thế kỉ XXI. Các tập thơ của Trần Nhuận Minh giai đoạn này đã tập trung viết về “đời sống thứ hai của con ngƣời”. Ở đây khái niệm “Nhân Dân” được thay thế bằng khái niệm“Con Ngƣời”. Cuộc đời với những chiêm nghiệm suy tưởng, đúc kết,…đã trở thành hồn vía của hiện thực. Hiện thực ở đây không chỉ được nhìn nhận, thẩm thấu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan