Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ...

Tài liệu Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

.PDF
84
195
131

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ KHẮC SƠN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ KHẮC SƠN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ Lê Khắc Sơn MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN ........................................................................................................... 9 1.1. Khái niệm Quyền công tố và Thực hành Quyền công tố .................... 9 1.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản ............................................................................................ 16 1.3. Những hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản ................................ 22 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN Ở VKSND TỈNH QUẢNG NINH ............................................... 31 2.1.Tình hình tội phạm tham ô trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh .................. 31 2.2. Kết quả công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô ở VKSND tỉnh Quảng Ninh .......................................................... 37 2.3 Những hạn chế yếu kém, vướng mắc khi THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô ở VKSND tỉnh Quảng Ninh và nguyên nhân .......... 42 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN Ở VKSND TỈNH QUẢNG NINH ................ 49 3.1. Dự báo về tội phạm tham ô tài sản và giải pháp nâng cao hiệu quả THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh ........................................................................................ 49 3.2. Phương hướng và các giải pháp nhằm đảm bảo, nâng cao hiệu quả THQCT tố ở giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh ........................................................................................ 53 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân CQĐT Cơ quan điều tra THQCT Thực hành quyền công tố KTVA Khởi tố vụ án KTBC Khởi tố bị can MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức được tác hại của tham nhũng, ngay từ khi mới giành được chính quyền, Đảng ta đã xác định tham nhũng là một kẻ thù nguy hiểm không kém gì giặc ngoại xâm nên phải kiên quyết loại bỏ. Trong từng nhiệm kỳ Đại hội, Đảng ta đã xác định quan điểm, đề ra các chủ trương và những giải pháp cơ bản, quan tâm chỉ đạo có tính chất chiến lược về phòng, chống tham nhũng phù hợp từng thời kỳ cách mạng. Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ trọng tâm là phải ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Với vai trò chức năng là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong những năm qua Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện đầy đủ, chất lượng những mục tiêu mà Đảng đã chỉ rõ; đồng thời, thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần quan trọng vào kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng thời gian qua cho thấy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng chưa cao và một trong những nguyên nhân của những tồn tại đó là do quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng chưa hoàn thiện. 1 Trong những năm gần đây, trên địa bàn cả nước cũng như địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tình hình tội phạm tham nhũng nói chung và tội phạm tham ô tài sản nói riêng diễn ra phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về số vụ, số người phạm tội lẫn tính chất, mức độ phạm tội. Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, trong những năm qua, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng nói chung, các vụ án tham ô tài sản nói riêng đã được chú trọng hơn và có những chuyển biến tích cực, từng bước nâng cao chất lượng. Các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp đã khởi tố điều tra, truy tố, xét xử được nhiều vụ án có tính chất phức tạp, được dư luận quan tâm, đảm bảo đúng thời hạn luật định, bước đầu đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng trong tình hình mới, nhất là đối với những vụ án tham nhũng được theo dõi, chỉ đạo của Ban nội chính Trung ương, của các Tỉnh uỷ và Thành uỷ. Các vụ án tham nhũng được tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đều đảm báo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh đó, việc phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án tham nhũng nói chung, các vụ án tham ô tài sản nói riêng còn chậm, số lượng xử lý chưa phản ánh đúng thực trạng tội phạm tham nhũng xảy ra trên thực tế, vẫn còn tình trạng bỏ lọt tội phạm; việc thu thập chứng cứ còn gặp nhiều khó khăn; nhiều vụ án việc xác định đường lối xử lý chưa tốt do có nhiều quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng các quy định của pháp luật; đội ngũ cán bộ chuyên trách trong công tác phòng, chống tham nhũng cũng như đội ngũ cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng còn mỏng, nhiều cán bộ hạn chế về năng lực, kinh nghiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của một số cán bộ còn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Là cơ quan do Quốc hội thành lập, Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan được giao chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho trọng trách phối hợp với các cơ 2 quan chức năng trong bộ máy Nhà nước trực tiếp đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng; đồng thời, tham mưu với Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, biện pháp đấu tranh quyết liệt, mạnh mẽ và phòng, chống hiệu quả đối với loại tội phạm này, góp phần quan trọng vào việc thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội. Trong những năm qua, công tác thực hành quyền công tố đối với các vụ án tham nhũng của ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều nỗ lực, đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận. Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực, phối hợp với Cơ quan điều tra, Toà án nhân dân và các cơ quan hữu quan kịp thời phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử nghiêm minh nhiều vụ án tham nhũng được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ. Công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án tham nhũng được thực hiện tốt; 100% các vụ án về tham nhũng được kiểm sát ngay từ khi vụ án được phát hiện, khởi tố, bảo đảm việc phê chuẩn khởi tố bị can, áp dụng, thay thế các biện pháp ngăn chặn, đảm bảo các trường hợp bị giam, giữ có căn cứ, đúng hạn luật định; đảm bảo thời hạn tố tụng điều tra, giải quyết; việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng đẩy nhanh tiến độ giải quyết án, đề ra nhiều biện pháp để thu hồi triệt để tài sản tham nhũng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động thực hành quyền công tố đối với các vụ án tham nhũng nói chung, các vụ án tham ô tài sản nói riêng còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc như: Việc tăng cường trách nhiệm công tố của Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; một số Kiểm sát viên chưa chủ động bám sát hoạt động điều tra để phối hợp cùng Điều tra viên trong việc xác định kế hoạch điều tra, thu thập và 3 đánh giá chứng cứ; việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật trong nhiều vụ án còn chưa thống nhất; tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn chiếm tỷ lệ cao, nhiều vụ án trả nhiều lần dẫn đến thời hạn giải quyết bị kéo dài; nhiều vụ án kéo dài thời hạn giải quyết do phải chờ kết luận giám định tư pháp… Những tồn tại, hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng điều tra và hoạt động thực hành quyền công tố đối với các vụ án tham ô tài sản. Những hạn chế tồn tại nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau; trong đó nguyên nhân cơ bản là nhận thức về công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân còn thiếu đầy đủ và chưa thống nhất. Lý luận về công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chưa được nghiên cứu có hệ thống, toàn diện. Thực tiễn công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong đó có các vụ án tham ô tài sản chưa được chú trọng sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thường xuyên. Với mục đích tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn thạc sỹ luật học, nhằm đáp ứng cả về phương diện lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề thực hành quyền công tố và tội phạm tham ô tài sản. Điển hình như: - Luận án Tiến sĩ luật: “Thực trạng, nguyên nhân các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm về tham nhũng” của tác giả Trần Công Phàn-Phó Viện trưởng VKSND tối cao, bảo vệ tại Viện nhà nước và pháp luật năm 2004. 4 - Luận văn thạc sĩ luật: “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham nhũng” của tác giả Nguyễn Thế Anh, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005. - Luận văn thạc sĩ luật: “Thực trạng và giải pháp phòng chống tội phạm tham nhũng” của tác giả Trần Anh Tuấn, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006. - Luận văn thạc sĩ luật: “Cơ sở lí luận, thực tiễn xây dựng và hoàn thiện bộ máy phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Vũ Việt Phương, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2007. Ngoài ra còn nhiều bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí ngành kiểm sát và nhiều chuyên đề nghiệp vụ như: “VKSND các cấp cần tập trung làm tốt việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” của TS. Trần Công Phàn, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 8-2012; “Kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm tham nhũng và một số giải pháp đấu tranh phòng, chống” của TS. Nguyễn Xuân Hà và Th.sỹ Hoàng Thành Nam, đăng trên Thông tin khoa học kiểm sát tập 5 năm 2017; “Kinh nghiệm và bài học trong giải quyết các vụ án tham nhũng, kinh tế, chức vụ đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp” của TS. Nguyễn Huy Tiến, đăng trên Tạp trí Kiểm sát số 06-2019; Kết quả nghiên cứu của các đề tài, bài viết trên đã được đưa vào vận dụng trong thực tiễn và đã mang lại những kết quả nhất định. Tuy nhiên, tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh, dưới góc độ lý luận, chưa có nghiên cứu nào đi sâu về thực trạng của công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án tham ô tài sản. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu bởi công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm trong đó có tội phạm tham ô tài sản ngoài đặc điểm chung thì ở từng địa phương, mỗi vụ án lại có những đặc điểm riêng như tính chất, mức độ, phương thức, thủ đoạn phạm tội, điều kiện kinh tế, xã hội... 5 Hơn nữa, tỉnh Quảng Ninh hiện là một trong những địa bàn tội phạm tham ô tài sản diễn biến phức tạp và hiện quá trình giải quyết các vụ án về tội phạm tham ô tài sản tiếp tục nảy sinh những vấn đề vướng mắc mới. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa thiết thực trong công tác phòng, chống tội tham ô và tiếp tục nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tài sản đối với tội phạm tham ô tài sản của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Về mục đích: Luận văn phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản. Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Về nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố, thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân như khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền công tố và thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra. Đặc điểm, căn cứ pháp lý và các giai đoạn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động, kết quả đạt được của VKSND tỉnh Quảng Ninh trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản. Đồng thời, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân; trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cụ thể để khắc phục hạn chế, khó khăn, vướng mắc, nhằm đảm bảo đảm, nâng cao chất lượng THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản tại VKSND tỉnh Quảng Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn về hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 6 Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các tội phạm tham ô tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong 05 năm, từ năm 2014 đến năm 2018, trên cơ sở quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và năm 2015. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật xã hội chủ nghĩa, về mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa; các quan điểm, đường lối của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị; các chính sách, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của ngành Kiểm sát nhân dân về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tội phạm tham ô tài sản nói riêng. Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và cách tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu của Triết học Mác - Lênin và các khoa học chuyên ngành khác, trong đó chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận của luận văn: Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về hoạt động của VKSND trong THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản; hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội tham ô tài sản. Các nghiên cứu của luận văn là nguồn tư liệu mang tính lý luận và thực tiễn, có thể làm cơ sở cho việc nhận thức thống nhất pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án tham ô tài sản. 7 Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Làm rõ thêm khái niệm, đối tương, phạm vi và nội dung của Quyền công tố và THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản của VKSND; phân tích đánh giá ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; nêu quan điểm, đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu của các cơ quan tiến hành tố tụng. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài các phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, danh mục những từ viết tắt, nội dung của luận văn gồm có 03 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản. Chương 2: Thực trạng công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản ở VKSND tỉnh Quảng Ninh. Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản ở VKSND tỉnh Quảng Ninh. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN 1.1. Khái niệm Quyền công tố và Thực hành Quyền công tố 1.1.1. Khái niệm Quyền công tố “Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ có hành vi phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án”. Do vậy Công tố được hiểu là nhân danh Nhà nước để cáo buộc, buộc tội người đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm trước Tòa án. Ở nước ta, quyền công tố và THQCT gắn với chức năng của VKSND. Hiến pháp năm 1980, 1992, 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 1981, 2002, 2014 đều đề cập đến quyền công tố và quy định rõ: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp... Tuy nhiên, khái niệm về Quyền công tố còn có các quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đều là hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát”. Quan điểm này đánh đồng quyền công tố với kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát các hoạt động tư pháp) của VKSND. Nhận thức như trên về quyền công tố là chưa đúng, vì chức năng công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp (kiểm sát việc tuân theo pháp luật) là hai chức năng độc lập, riêng biệt của VKSND đã được Hiến pháp quy định. Trong quá trình thực hiện các khâu công tác kiểm sát, chức năng công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND luôn song hành, tác động, bổ trợ chặt chẽ với nhau. Quan điểm thứ hai cho rằng “Quyền công tố là nhân danh Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật, người thực hiện hành vi phạm pháp luật ra Tòa án để xét xử”. Theo nhận thức này, quyền công tố xuất hiện và gắn với Nhà nước và Pháp luật, là quyền lực mà Nhà nước giao cho VKSND thực 9 hiện chức năng, nhiệm vụ để thực thi pháp luật và các hoạt động tố tụng trong lĩnh vực tư pháp (bao gồm lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính và các lĩnh vực tố tụng khác. Nếu theo quan điểm này nội dung, phạm vi của quyền công tố của VKSND quá rộng, bao gồm cả trong lĩnh vực tố tụng hình sự cũng nhưc lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, hành chính. Quan điểm thứ ba cho rằng “Quyền công tố là quyền lực của Nhà nước giao Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc buộc tội hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội”. Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền buộc tội của VKSND nhân danh Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội và được tiến hành trong lĩnh vực tố tụng hình sự. VKSND có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm chứng minh, quy kết hành vi phạm tội; thực hiện quyền năng truy tố người phạm tội, buộc tội người phạm tội để đề nghị Tòa án tuyên áp dụng hình phạt đối với người phạm tội theo luật định. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba nhận thức về khái niệm quyền công tố, vì quan điểm này đã khẳng định được quyền công tố là quyền lực của Nhà nước, giao cho một cơ quan nhà nước là VKSND nhân danh Nhà nước để buộc tội đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự (tội phạm); đồng thời cũng xác định quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; truy tố và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa. Quan điểm này thể hiện quan điểm của Đảng qua các thời kỳ về xây dựng thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chủ trương về cải cách nền tư pháp Việt Nam. Khái niệm Quyền công tố: Là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, bảo đảm quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ đầy đủ, khách quan, toàn diện để chứng minh tội phạm, từ đó quyết định việc truy tố người phạm tội và bảo vệ việc buộc tội đó trước Tòa án. 10 Đối tượng của quyền công tố: Hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng quyền công tố. Với quan điểm quyền công tố so với với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là đồng nhất thì đối tượng của quyền công tố là sự chấp hành pháp luật, tuân thủ trình tự luật định của những người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng và của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, về bản chất, kiểm sát việc tuân theo pháp luật (hay còn được hiểu là kiểm sát các hoạt động tư pháp) và quyền công tố là hoàn toàn khác nhau. Bản chất của kiểm sát việc tuân theo pháp luật là việc kiểm tra, giám sát tính có căn cứ và tính hợp pháp, còn bản chất của quyền công tố là trừng phạt những hành vi phạm tội. Với quan điểm hiểu quyền công tố là quyền đại diện, nhân danh Nhà nước để đưa các vụ việc, đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất thì đối tượng của quyền công tố được coi là các hành vi vi phạm pháp luật mà Nhà nước đã quy định. Nếu hiểu theo cách này thì đối tượng của quyền công tố tức là các hành vi vi phạm pháp luật rất rộng, không chỉ xảy ra trong lĩnh vực hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực như dân sự, hành chính, kinh tế… Với quan điểm xác định quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật bị xác định là tội phạm và quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội, thì đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, do đó Nhà nước phải đại diện xã hội 11 chứng minh tội phạm và trừng trị người phạm tội bằng các quy định do chính Nhà nước quy định. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba cho rằng đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Nội dung của quyền công tố: Từ việc đồng tình với quan điểm quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội, tác giả đồng tình với quan điểm: “Nội dung của quyền công tố là quá trình thực hiện buộc tội đối với người phạm tội (người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội) và bảo vệ việc buộc tội đó trước Tòa án ”. Trong các hoạt động tố tụng hình sự luôn tồn tại các chức năng: buộc tội (truy cứu trách nhiệm hình sự), gỡ tội (bào chữa), kết tội (xét xử, tuyên án). Chức năng buộc tội chính là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người hoặc pháp nhân thực hiện hành vi bị coi là tội phạm. Cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng buộc tội có thẩm quyền, trách nhiệm đưa ra các luận điểm, chứng cứ để quy kết, cáo buộc tội phạm. Phạm vi quyền công tố: Như vậy, quyền công tố là quyền lực Nhà nước, được trao cho VKSND bằng việc quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Hiện nay cũng còn nhiều quan điểm khác nhau về phạm vi quyền công tố: Về phạm vi không gian: Có nhiều quan điểm cho rằng quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính... Tuy nhiên, với quan điểm xác định quyền công tố là quyền đại diện, nhân danh Nhà nước để thực hiện việc buộc tội, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, tác giả đồng tình với quan điểm quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Về phạm vi thời gian (tức thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền công tố): Hiện nay cũng còn nhiều quan điểm: Quan điểm thứ nhất cho rằng “Phạm vi quyền công tố được bắt đầu từ khi Cơ quan điều tra kết thúc việc điều tra tội phạm, Viện kiểm sát thụ lý vụ án và ban hành quyết định truy tố người phạm tội 12 ra trước Tòa án và kết thúc khi Tòa án xét xử, tuyên bản án có hiệu lực pháp luật đối với người bị buộc tội”. Nếu hiểu theo cách này thì phạm vi quyền công tố sẽ chỉ có ở giai đoạn truy tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án; phạm vi quyền công tố bị thu hẹp không đánh giá được hoạt động quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Quan điểm thứ hai cho rằng “Phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án do Tòa án tuyên”. Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đến cùng đối với người phạm tội; quyền công tố chỉ kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án có hiệu lực pháp luật; cách hiểu này quá rộng và không cụ thể về nội dung, đối tượng, phạm vi của quyền công tố. Quan điểm thứ ba cho rằng “Phạm vi quyền công tố được bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án của Tòa án đã tuyên đối với người phạm tội có hiệu lực pháp luật”. Theo quan điểm này khi hành vi phạm tội xảy ra, các cơ quan đại diện cho Nhà nước và được Nhà nước giao thực hiện chức năng, thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội phải tiến hành các hoạt động tố tụng theo luật định nhằm phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh, xác định tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở để buộc tội và kết tội người phạm tội. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba về phạm vi quyền công tố bởi quyền công tố là quyền của Nhà nước để buộc tội, truy cứu TNHS đối với người phạm tội nên phải bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và chỉ kết thúc khi người phạm tội bị trừng phạt bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân danh Nhà nước. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định Quyền công tố được bắt đầu từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật; theo đó, VKSND được đại diện cho Nhà nước thực hiện quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng như: giải quyết nguồn tin về tội phạm (khi tội phạm được thực hiện), khởi tố và điều tra vụ án, truy tố và xét xử vụ án hình sự. 13 1.1.2. Khái niệm Thực hành quyền công tố Nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong nhận thức về THQCT và hoạt động thực tiễn, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của VKSND trong đó có chức năng THQCT. Trong hệ thống các cơ quan tư pháp, Đảng và Nhà nước ta giao cho VKSND là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng quyền công tố để buộc tội, truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Bộ luật TTHS năm 2015 đều quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án..., nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố điều tra, truy tố, xét xử thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Theo đó, hoạt động THQCT luôn gắn liền với việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội; THQCT là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội, đại diện Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm. THQCT là quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật TTHS để truy cứu TNHS người phạm tội, buộc tội và đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án. Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong giai đoạn tố tụng hình sự đại điện cho Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người hoặc pháp nhân phạm tội, được thực hiện từ khi giải quyết nguồn tin về tội phạm cũng như trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. 14 Do đó, quyền công tố và THQCT là hai khái niệm khác nhau về cơ bản theo nội hàm, bản chất của nó. Khi nói đến Quyền công tố phải hiểu là quyền của Nhà nước, đại diện cho Nhà nước để thực hiện việc truy cứu TNHS, buộc tội đối với người hoặc pháp nhân phạm tội, đó là phạm trù lý luận. Còn khi nói đến THQCT phải hiểu đây là một phạm trù thực tiễn, đó là quá trình tiến hành và tổ chức thực hiện quyền công tố. Xác định chính xác phạm vi THQCT có ý nghĩa quan trọng, bởi chỉ khi xác định đúng phạm vi của nó thì quá trình tiến hành thực hiện THQCT thì mới đảm bảo hiệu quả. Có quan điểm cho rằng “phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự”. Theo Tiến sĩ Lê Hữu Thể (nguyên Phó Viện trưởng VKSND tối cao) thì THQCT là việc VKSND sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Tác giả cho rằng quan điểm trên có những điểm chưa hợp lý, còn thể hiện dưới dạng khái quát, có phạm vi quá hẹp, đồng thời cũng chưa nêu được bản chất của hoạt động thực hành quyền công tố so với các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Quan điểm này chỉ đưa ra được bản chất của hoạt động THQCT là thực hiện việc “buộc tội” của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nếu chỉ để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thì Cơ quan điều tra hay Toà án cũng có thể tiến hành các hoạt động tố tụng để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tuy nhiên theo quy định pháp luật TTHS hiện hành, trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành một số hoạt động xác minh, điều tra như: lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và áp dụng một số biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân như: bắt, tạm giữ người trong trường hợp 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan