Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng ...

Tài liệu Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thị xã bình long, tỉnh bình phước

.PDF
89
99
50

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM NGỌC HẢI THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM NGỌC HẢI THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VÕ THỊ KIM OANH Hà Nội, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ luật học Võ Thị Kim Oanh. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Tác giả MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ ............................................................................8 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố ...........................8 1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố...........................21 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ .......................................24 2.1. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố từ giai đoạn năm 1945 đến trước năm 1988 .....................................24 2.2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố từ năm 1988 đến trước năm 2003 .....................................................28 2.3. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ............................................32 2.4. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ............................................42 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU ....................52 QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ, TẠI THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC .........................................................52 3.1. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố, tại thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước ..........................................................................................52 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố ...............................................................................................................................63 KẾT LUẬN ..............................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC SỐ LIỆU DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xã hội loài người, tội phạm là hiện tượng tiêu cực xã hội và việc đấu tranh phòng, chống tội phạm là tất yếu khách quan của mọi xã hội có giai cấp và ở mỗi giai đoạn lịch sử thì yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có sự khác nhau. Đối với Việt Nam, công cuộc đổi mới đất nước đã đem lại nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thành tựu đạt được trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội đã đưa nước ta lên một vị thế mới trên trường quốc tế. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Việt Nam cũng còn phải đối mặt với nhiều tác động tiêu cực ,trong đó tình hình tội phạm hình sự đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Trong những năm qua, các cơ quan tiến hành tố tụng đã đấu tranh có hiệu quả đối với các loại tội phạm hình sự. Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với việc giải quyết các vụ án hình sự, góp phần đảm bảo việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có căn cứ, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời, góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có vai trò rất quan trọng; với vị trí, vai trò độc lập và chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân là một bảo đảm quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong việc xử lý tội phạm, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên so với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Thực tiễn vẫn còn xảy ra tình trạng truy tố không chính xác, làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Mặt khác thì hiện nay vẫn còn chưa có sự nhận thức toàn diện về hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong các giai đoạn tố tụng 1 hình sự, cũng như chưa có sự phân biệt cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hoạt động công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra yêu cầu: “Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị đã kết luận về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra. Theo đó “Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay. Tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người... Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”. Việc nghiên cứu và tổng kết thực tiễn về những vấn đề liên quan đến mô hình tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, trong đó có chức năng thực hành quyền công tố là rất cần thiết, nhằm đáp ứng một cách đầy đủ, kịp thời các yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài trong việc thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, góp phần hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phù hợp với nội dung, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân. Là một cán bộ đang công tác trong ngành Kiểm sát, học viên nhận thấy việc chọn đề tài “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước” để 2 nghiên cứu, xây dựng Luận văn thạc sĩ Luật học là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian qua, có nhiều nhà khoa học pháp lý và người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu hoặc đề cập đến đề tài quyền công tố và thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát và thực hành quyền công tố trên một số lĩnh vực cụ thể, đó là: Sách chuyên khảo “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” do tác giả Lê Hữu Thể làm chủ biên, xuất bản năm 2008. Đây là cuốn sách nghiên cứu về cơ sở lý luận của quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát, kết quả nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của cơ quan Công tố của một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, quyển sách chủ yếu đề cập đến hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát và so sánh với mô hình tố tụng của một số quốc gia trên thế giới nên chưa phân tích, đánh giá chuyên sâu về hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố vụ án hình sự. Sách chuyên khảo “Cơ sở lý luận, thực trạng của điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy” của tác giả Nguyễn Thị Mai Nga, xuất bản năm 2012. Quyển sách đề cập những kinh nghiệm được rút ra trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết các vụ án liên quan đến tội phạm ma túy. Do đó, nghiên cứu này chưa phản ánh thực trạng của hoạt động thực hành quyền công tố đối với các loại tội phạm khác nhau, nên tác giả đưa ra các giải pháp chưa đầy đủ. Sách chuyên khảo “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” do tác giả Nguyễn Hải Phong chủ biên, xuất bản năm 2013. Đây là cuốn sách đề cập đến nội dung tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu của công cuộc cải cách các cơ quan tư pháp mà Đảng và Nhà 3 nước đang đề ra. Cuốn sách này chủ yếu đề cập đến giải pháp nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. Luận án Tiến sĩ luật học năm 2002 “Quyền công tố ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa: Luận án đề cập đến cơ sở lý luận về quyền công tố tuy có đề cập nhưng chưa tập trung sâu đến hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát. Ngoài ra, còn nhiều bài viết, bài nghiên cứu của các tác giả và các nhà nghiên cứu pháp luật đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý bàn về quyền công tố và thực hành quyền công tố. Các sách và giáo trình của các Trường đại học đào tạo về Luật. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu cho thấy các tác giả nghiên cứu về quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp để nói đến chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự hoặc trong giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong khi đó, giai đoạn truy tố thể hiện rõ nét hoạt động của Viện kiểm sát về việc quyết định truy tố bị can thì cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố với nội dung nghiên cứu việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố nhằm nêu lên cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Đề tài góp phần làm rõ những vấn đề lý luận, những nội dung cơ bản của hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đánh giá khách quan thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước trong giai đoạn truy tố. Từ đó xác định những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn để đề xuất những giải pháp tiếp tục hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian tới và nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hành quyền công tố ở nước ta hiện nay. 4 - Nhiệm vụ: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý và vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố. Khảo sát, đánh giá hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long trong giai đoạn truy tố và chỉ ra những bất cập vướng mắc trong thực tiễn. Đề ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận, các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về vấn đề này tại thị xã Bình Long. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu lý luận về quyền công tố; khái niệm, nội dung, phạm vi của thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố nói riêng. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố. Trên cơ sở số liệu thống kê giải quyết án hình sự trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018 trên phạm vi thị xã Bình Long, chúng tôi đánh giá kết quả cũng như những hạn chế, bất cập của hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố của Viện kiểm sát thị xã Bình Long, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó để đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài - Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường pháp chế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 5 02/01/2002; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã thông qua. - Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác – Lê Nin, khoa học pháp lý về tố tụng hình sự và các khoa học chuyên ngành khác. Trong đó đặc biệt chú trọng đến phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn, đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố. - Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu cho việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện thêm các quy định của pháp luật về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ làm công tác thực thi pháp luật liên quan đến lĩnh vực này. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau: - Chương 1: Nhận thức chung về thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố. - Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố. - Chương 3: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tại thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước. 6 7 Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố 1.1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố 1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố Với quan điểm coi quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công quyền, thực hiện việc buộc tội đối với những người đã thực hiện hành vi phạm tội, theo quan điểm của giai cấp thống trị xã hội, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, lúc nào Nhà nước xuất hiện thì lúc đó quyền công tố cũng xuất hiện. Trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố. Mỗi quan điểm đều có hạt nhân hợp lý riêng của nó. Chẳng hạn: có quan điểm cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát (VKS) truy tố người phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực hành quyền công tố) [41]. Điều đáng chú ý của quan điểm này là việc nhấn mạnh vai trò duy nhất của VKS trong việc thực hành quyền công tố và chỉ duy nhất là tố tụng hình sự (TTHS) và cũng chỉ ở một giai đoạn duy nhất của TTHS là giai đoạn xét xử sơ thẩm (tức chỉ là việc truy tố và buộc tội tại phiên tòa). Chúng tôi nhận thấy, quan điểm này đã quá thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố và chưa phản ánh đầy đủ bản chất của quyền này. Trên thực tế, hoạt động truy tố và buộc tội của VKS tại phiên tòa chỉ là một số nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố, hay nói chính xác hơn, đó chỉ là một trong số các quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố. Các luật gia theo truyền thống pháp luật Pháp Quan cho rằng, quyền công tố gồm các quyền khởi tố, điều tra vụ án hình sự, truy tố và buộc tội bị cáo trước Tòa án.Quyền công tố gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh Nhà nước. Do vậy, quyền công tố chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực duy nhất, đó là lĩnh vực TTHS, chủ thể tham gia vào hoạt động thực hành quyền công tố chỉ bao gồm Cơ quan điều tra (Điều tra viên) và Viện công tố (Công tố viên). Riêng quyền truy tố kẻ 8 phạm tội ra Tòa và thực hành quyền công tố nhân danh Nhà nước tại phiên tòa chỉ thuộc về Viện công tố. Quyền công tố được sử dụng không chỉ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội mà cả lợi ích cá nhân khi bị hành vi phạm tội xâm hại. Quan điểm khác cho rằng, quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Nói cách khác, quyền công tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đó là hoạt động tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội[42, tr.26]. Theo ý kiến tôi, quan điểm nêu trên đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc TTHS đã được thừa nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới: mọi tội phạm xảy ra đều xâm phạm đến lợi ích chung của toàn xã hội, do đó kẻ phạm tội phải bị truy cứu TNHS và bị trừng trị bằng các chế tài hình sự. Việc truy cứu TNHS và áp dụng chế tài đối với người phạm tội được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước (Cơ quan điều tra, Cơ quan công tố, Cơ quan xét xử, Cơ quan thi hành án). Hiểu khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên đã dẫn đến sự nhầm lẫn giữa các chức năng buộc tội, xét xử và bào chữa trong tố tụng hình sự. Mỗi một chức năng cơ bản trên được thực hiện bởi một hoặc một số chủ thể nhất định, tùy thuộc vào từng giai đoạn cụ thể của quá trình tố tụng. Theo quan điểm nêu trên thì không chỉ có Cơ quan điều tra và Cơ quan công tố mà cả Cơ quan xét xử và Cơ quan thi hành án đều là chủ thể thực hành quyền công tố. Có quan điểm cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan VKS) để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở 9 đó quyết định truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên toà [42, tr.40]. Và còn nhiều quan điểm khác nhau đề cập đến thế nào là quyền công tố. Tuy nhiên, xuất phát từ căn cứ khoa học, các quy định của pháp luật, thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và hoạt động công tố ở các nước khác, chúng tôi cho rằng, để làm rõ khái niệm quyền công tố, cần khẳng định một số vấn đề sau: Thứ nhất, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước, quyền thuộc về Nhà nước, Nhà nước giao cho một cơ quan cụ thể thực hiện quyền này (ở nước ta là cơ quan VKS) trong bộ máy cơ quan Nhà nước phân quyền hoặc phân công thực hiện chức năng. Thứ hai, quyền công tố về thực chất là quyền truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Thứ ba, quyền công tố mang tính cụ thể, tức chỉ xuất hiện khi có một tội phạm cụ thể xảy ra và đối với người phạm tội cụ thể, không tồn tại quyền công tố chung chung. Trong các quan điểm nêu trên, tôi đồng ý với quan điểm thứ tư vì quyền công tố chỉ được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà lịch sử của nó gắn liền với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại tội phạm, đó là lĩnh vực TTHS. Điều đó thể hiện rõ nhất trong các nguyên tắc của TTHS. Một trong những nguyên tắc đặc thù của hoạt động TTHS là nguyên tắc công tố (nguyên tắc mọi hoạt động tố tụng được tiến hành trước hết và chủ yếu vì lợi ích nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội), nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Lợi ích của Nhà nước và lợi ích của xã hội làm hoạt động TTHS xuất hiện và phát triển từ giai đoạn này đến giai đoạn khác và không lệ thuộc vào ý chí của người tham gia vào hoạt động TTHS (người bị hại, bị can, bị 10 cáo…). Tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật hình sự Người phạm tội xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, và lợi ích người bị hại. Vì vậy, Nhà nước nhân danh xã hội cho mình quyền trừng phạt người phạm tội. Quyền công tố luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh Nhà nước, chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng, cốt lõi của TTHS là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý người phạm tội [22, tr.22]. Trong hoạt động TTHS, chúng ta thấy luôn luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử. Buộc tội với tư cách là một chức năng tố tụng luôn nhằm chống lại một cá nhân cụ thể và thực chất đó chính là hoạt động truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Người hoặc cơ quan thực hiện chức năng buộc tội quyền và trách nhiệm đưa ra cáo buộc cụ thể đối với người phạm tội (có thể là cá nhân, pháp nhân) cụ thể và phải có nhiệm vụ đưa ra những bằng chứng cụ thể cho sự việc buộc tội đó. Khi thực hiện chức năng buộc tội, hình thức buộc tội nhân danh Nhà nước giữ vai trò là động lực của hoạt động tố tụng. Trong nghiên cứu khoa học pháp lý về quyền công tố, để chứng minh cho luận điểm của mình, mỗi nhà khoa học đều có những lý luận riêng để đưa ra những luận điểm về đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố. Theo quan điểm chúng tôi đã chọn thì đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố được hiểu như sau: + Đối tượng của quyền công tố được hiểu là cái mà quyền công tố tác động vào nhằm đạt được mục đích cụ thể nào đó, ví dụ như để nhằm buộc được tội của người phạm tội để trừng phạt; để nhằm khôi phục trật tự pháp luật đã bị xâm hại… Với quan điểm cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội (thực hiện việc truy cứu TNHS) đối với người phạm tội, chúng tôi quan niệm đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội [42, tr.44]. + Về nội dung của quyền công tố: Có thể nói, có bao nhiêu quan điểm về quyền công tố thì cũng có bấy nhiêu quan niệm về nội dung của quyền công tố. Tuy nhiên, trên cơ sở quan điểm của mình về quyền công tố đã được nêu ở trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi tội phạm [42, tr.44]. 11 Ngoài ra, khi bàn về vấn đề nội dung quyền công tố, có những ý kiến cho rằng, nội dung của quyền công tố được hiểu là tổng hợp tất cả các quyền năng pháp lý do luật định nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan ngườivô tội. Chúng tôi cho rằng, quan niệm này đã nhầm lẫn nội dung quyền công tố sang nội dung hoạt động thực hành quyền công tố. + Về phạm vi của quyền công tố: Xuất phát từ quan điểm coi quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự [42, tr.46]. Theo đó, quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án kết tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội đó có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Từ những nội dung đã trình bày ở trên, tôi cho rằng: quyền công tố là quyền thuộc về Nhà nước, Nhà nước giao cho một cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội. 1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố Nội dung quyền công tố là sự buộc tội của Nhà nước đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. Để bảo đảm thực hiện quyền này trong thực tế thì Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của quyền công tố. Nếu quyền công tố là quyền năng thì quyền năng đó phải được tổ chức thực hiện. Theo Từ điển tiếng Việt thì “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” [47, tr.973]. do đó việc tổ chức thực hiện quyền công tố trong thực tế gọi là thực hành quyền công tố. Tùy thuộc vào đặc điểm xã hội, chính trị mà việc tổ chức thực hành quyền công tố, vị trí, phạm vi hoạt động của cơ quan thực hành quyền công tố ở mỗi nước khác nhau có những điểm khác biệt. Ở nước ta, quyền công tố này đã được Nhà nước giao cho Viện công tố nằm trong hệ thống Tòa án thực hiện từ năm 1946, sau 12 đó trực thuộc Bộ Tư pháp từ năm 1958. Ngày 26/7/1960, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được thành lập riêng biệt từ tiền thân là Viện công tố và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố đến nay. Các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013; các Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, 2003, 2015; các Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014 đều quy định Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố. Như vậy, thực hành quyền công tố là hoạt động của cơ quan thực hành quyền công tố (ở nước ta là VKS) thực hiện việc buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội. Để thực hiện quyền công tố thì VKS phải sử dụng các quyền năng thuộc nội dung của quyền công tố trong suốt quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án. Khi giải quyết vụ án hình sự, bên cạnh hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND thì còn đòi hỏi nhiều chủ thể tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng với các chức năng cơ bản khác nhau. Do đó, để làm rõ vai trò thực hành quyền công tố cần xem xét mối quan hệ giữa hoạt động này với việc thực hiện các chức năng cơ bản của TTHS, bao gồm: Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Trong đó, chức năng buộc tội là một dạng hoạt động tố tụng nhằm phát hiện, chứng minh lỗi và cáo buộc người đã thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt. Khi một người bị buộc tội thực hiện hành vi phạm tội nào đó thì được luật thừa nhận khả năng bào chữa, không chỉ chống lại sự buộc tội đó bằng cách đưa ra các chứng cứ, lập luận nhằm làm giảm nhẹ, bác bỏ trách nhiệm hình sự mà còn làm rõ những gì có lợi cho mình. Chức năng bào chữa thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ. Tòa án thực hiện chức năng xét xử nhằm giải quyết vụ án theo thẩm quyền để xem xét, quyết định người bị buộc tội có tội hay không và TNHS đối với người có tội. Trong ba chức năng cơ bản nêu trên, chức năng buộc tội là chức năng tiền đề, động lực cho cả quá trình TTHS vì nếu không phát hiện tội phạm, chứng minh lỗi người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm và yêu cầu phán xử, áp dụng hình 13 phạt thì sẽ không thể có chức năng bào chữa, xét xử; hay nói cách khác, TTHS không tiến hành được do không có đối tượng và mục đích. Những chủ thể thực hiện chức năng buộc tội gồm: Cơ quan điều tra (CQĐT), VKS, người bị hại và đại diện hợp pháp của họ. Đối với người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ thực hiện việc buộc tội nhân danh quyền lợi cá nhân hoặc theo sự ủy quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị tội phạm xâm hại. Đối với CQĐT, VKS thực hiện chức năng buộc tội nhân danh Nhà nước. Tuy nhiên, CQĐT chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho VKS đưa vụ án ra Tòa án; Tòa án chỉ xét xử những tội phạm và người phạm tội mà VKS đã truy tố. Việc sử dụng một số biện pháp để cáo buộc bị can do CQĐT thực hiện như khởi tố bị can, truy tìm, thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, ra kết luận điều tra vụ án và đề nghị truy tố hành vi phạm tội của bị can … hoàn toàn không đồng nghĩa với thẩm quyền công tố theo nghĩa đầy đủ của nó là quyền buộc tội và đưa người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó, yêu cầu trừng trị thích đáng người phạm tội. Chỉ có cơ quan nào sử dụng được các quyền năng pháp lý cần thiết để buộc tội đối với người phạm tội trong cả giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử tại Tòa án thì đó là cơ quan thực hành quyền công tố. BLTTHS nước ta đã quy định thẩm quyền công tố của VKS trong TTHS rất lớn, được quyền áp dụng tất cả các biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Như vậy, trong mối quan hệ với các chức năng cơ bản của TTHS, thực hành quyền công tố là một trong những hình thức thực hiện chức năng buộc tội – nhân danh quyền lực Nhà nước và chỉ do VKS thực hiện. Đây là “đòn bẩy” đưa bộ máy tố tụng vào hoạt động và thu hút hoạt động của các chủ thể tham gia quá trình tố tụng. Với những phân tích trên, có thể nhận thấy, chức năng thực hành quyền công tố của VKS thể hiện ở 3 khía cạnh: Thứ nhất, nội dung thực hành quyền công tố là hoạt động của VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng để buộc tội đối với người phạm tội. Những quyền năng mà VKS sử dụng trong việc cáo buộc bị can, bị cáo từ điều tra đến xét xử và 14 đưa ra những chứng cứ cho sự cáo buộc đó là những quyền năng pháp lý thuộc nội dung thực hành quyền công tố. Thứ hai, đối tượng thực hành quyền công tố hướng đến luôn mang tính cụ thể, đó là tội phạm và người phạm tội. Thứ ba, về phạm vi thực hành quyền công tố: Từ ngày 01/6/2015, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 của nước ta có hiệu lực thi hành và lần đầu tiên, khái niệm và phạm vi thực hành quyền công tố được quy định trong Luật. Theo khoản 1 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 xác định “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân… được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Như vậy, VKS thực hành quyền công tố ngay từ khi CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc của thực hành quyền công tố là khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật. Có thể nói, hoạt động thực hành quyền công tố của VKS là việc sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng nhằm đảm bảo phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện xuyên suốt ở nhiều giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó có giai đoạn truy tố vụ án hình sự. 1.1.2. Khái niệm giai đoạn truy tố TTHS là trình tự, quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự nhằm xác định sự thật khách quan vụ án. BLTTHS quy định các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải tuân theo trình tự tố tụng nhất định và được phân chia thành các giai đoạn TTHS khác nhau. Theo giáo trình của trường Đại học luật Hà Nội ghi nhận “Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước trong trình tự tố tụng có nhiệm vụ riêng mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng” [41, tr.10]. Chúng tôi đồng ý với quan điểm trên về những đặc trưng cơ bản 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan